
Xử lí các mộ táng tại di chỉ Mán Bạc, Ninh Bình, Việt Nam. Ảnh chụp bởi Đại học Otago, Newzealand.
Bệnh ghẻ cóc- được gây nên từ cùng một loài vi khuẩn gây bệnh giang mai (Treponema pallidum) - là một bệnh ở trẻ em gây ra các tổn thương da có tính lây nhiễm cao. Nó lây lan qua tiếp xúc từ người sang người và trong những trường hợp nặng có thể khiến người bệnh bị biến dạng xương nghiêm trọng. Mặc dù có thể dễ dàng chữa khỏi ở các giai đoạn đầu, nhưng các biến dạng xương không thể phục hồi được.
Nghiên cứu sinh Khoa Giải phẫu Đại học Otago, Melandri Vlok cho biết:
Căn bệnh này đã được loại trừ khỏi nhiều nơi trên thế giới nhưng vẫn còn phổ biến ở Tây Thái Bình Dương, ảnh hưởng đến khoảng 30.000 người. Một nỗ lực toàn cầu trước đây nhằm xóa bỏ căn bệnh nhiệt đới này đã thất bại ở rào cản cuối vào những năm 1950 và một nỗ lực mới đã bị hạn chế bởi sự bùng phát COVID-19
Luận án tiến sĩ của Melandri Vlok sử dụng khảo cổ học để làm sáng tỏ sự lây lan của dịch bệnh khi các quần thể người khác nhau tương tác lần đầu tiên. Mối quan tâm đặc biệt của Vlok là về cái mà cô gọi là "vùng ma sát" - ở đó những cư dân nông nghiệp cổ gặp những người săn bắn hái lượm.
Năm 2018, Vlok đã đến Việt Nam để nghiên cứu các di cốt người thuộc di chỉ Mán Bạc. Địa điểm Mán Bạc thuộc tỉnh Ninh Bình – phía bắc Việt Nam được khai quật vào năm 2005 và 2007 đã cung cấp một lượng thông tin quí cho các nhà khảo cổ học nhờ vai trò của nó trong bước chuyển từ săn bắn hái lượm sang trồng trọt ở khu vực Đông Nam Á lục địa.
Vlok cho biết: Các di cốt hiện nay đang được lưu giữ tại Viện Khảo cổ học Hà Nội, mặc dù đã được nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng chúng chưa được phân tích để tìm bằng chứng về bệnh ghẻ cóc.
Vlok cũng cho hay: Giáo sư hướng dẫn của cô tại Đại học Otago, nhà khảo cổ sinh học nổi tiếng - Giáo sư Hallie Buckley, đã suy nghĩ những gì mà bà nhìn thấy trên một bức ảnh về các di cốt Mán Bạc có thể là bệnh ghẻ cóc. Vì vậy, Hallie đã đi cùng Vlok và cùng làm việc với một nhóm chuyên gia nhiệt huyết thuộc Viện khảo cổ học, họ đã xác nhận những nghi ngờ của mình. Sau đó, Vlok tìm thấy một ví dụ thứ hai về căn bệnh này.
Điều này rất quan trọng, vì địa điểm Mán Bạc có niên đại 4000 năm trước. Cho đến nay, không có bằng chứng chắc chắn về bệnh ghẻ cóc ở châu Á thời tiền sử.Nghiên cứu của Vlok cho thấy rằng bệnh ghẻ cóc đã xuất hiện ở những người săn bắn hái lượm ở Việt Nam hiện đại bởi một nhóm dân nông nghiệp di cư từ Trung Quốc hiện đại về phía nam. Các cư dân săn bắn hái lượm này là hậu duệ của những người đầu tiên rời khỏi châu Phi và vào châu Á, họ là những người dần dần cũng sinh sống ở New Guinea, quần đảo Solomon và châu Úc.
Những cư dân nông nghiệp này đã ở Trung Quốc ít nhất 9000 năm nhưng phải đến khoảng 4000 năm trước, nghề nông mới được du nhập vào Đông Nam Á. Có thể đồng thời sự di chuyển của các cư dân này đã mang đến các bệnh trong đó có bệnh ghẻ cóc
Vlok cho biết khoảng thời gian mà căn bệnh này tồn tại trong khu vực có liên quan khi đề cập đến việc giải quyết mức độ khó như thế nào để diệt trừ nó.
"Vấn đề này rất quan trọng, bởi vì hiểu thêm về căn bệnh trên và sự tiến hóa của bệnh, điều này sẽ thay đổi cách chúng ta hiểu mối quan hệ của con người với nó, giúp chúng ta hiểu tại sao nó lại khó diệt trừ. Nếu nó tồn tại với chúng ta hàng nghìn năm, nó có thể đã phát triển rất phù hợp với con người. "
Đại dịch COVID-19 năm nay đã thu hút sự chú ý của mọi người vào các bệnh truyền nhiễm, và có những bài học cần rút ra từ quá khứ, Vlok nói.
“Khảo cổ học như trên là cách duy nhất để ghi lại thời gian một căn bệnh đã tồn tại với con người và thích nghi với chúng ta như thế nào. Hiện nay, với COVID-19, chúng tôi hiểu rằng virus đó có khả năng thích nghi với con người tuyệt vời như thế nào. Và xoắn khuẩn gây ghẻ cóc đã ở cùng chúng ta lâu hơn nhiều.”
"Vì vậy, điều này cho thấy điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta không hành động với những căn bệnh trên. Đó là một bài học về những gì các bệnh truyền nhiễm có thể gây ra cho một quần thể dân số nếu con người để chúng lây lan rộng rãi. Nó nhấn mạnh sự cần thiết phải can thiệp, bởi vì đôi khi những vi khuẩn, virus này rất giỏi trong việc thích nghi với con người, trong việc lây lan từ người sang người. "
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
2. https://www.sciencedaily.com/releases/2020/09/200921091535.htm
3. https://www.otago.ac.nz/news/news/otago744185.html
4.https://whatnext.pl/choroby-zakazne-towarzysza-nam-od-dawna/
5.https://israel.timesofnews.com/political/archaeology-uncovers-infectious-disease-spread.html
6.https://www.odt.co.nz/news/dunedin/ancient-bones-tell-timely-tale
7.https://www.express.co.uk/news/science/1338488/archaeology-news-research-how-ancient-pandemics-spread-coronavirus-news
8.https://revistagalileu.globo.com/Ciencia/noticia/2020/09/bacteria-que-causa-sifilis-ja-circulava-no-sudeste-asiatico-ha-4-mil-anos.html
9.https://es.digitaltrends.com/salud/evidencia-enfermedades-infecciosas/
10.https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2020/09/archaeology-uncovers-infectious-disease.html?utm_source=dlvr.it&utm_medium=twitter

Căn cứ Hướng dẫn số 147- HD/BTGTW ngày 25/8/2020 của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc Hướng dẫn báo chí tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm) hướng dẫn các đơn vị tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X (Đại hội) năm 2020 với các nội dung sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Tuyên truyền cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn Viện Hàn lâm nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước và tổ chức thành công Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, góp phần củng cố niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cách mạng cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Viện Hàn lâm, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của đất nước.
- Thông qua tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn thể đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Viện Hàn lâm phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; gắn tuyên truyền với các phong trào thi đua “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử, chính trị quan trọng của đất nước, của đơn vị.
- Công tác tuyên truyền cần đảm bảo đúng định hướng chính trị, tư tưởng; tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng; đảm bảo chất lượng, hiệu quả, tạo sức lan tỏa trong toàn Viện Hàn lâm.
II. NỘI DUNG
Nội dung tuyên truyền chia thành 03 đợt, căn cứ theo thời gian tổ chức Đại hội. Cụ thể là:
1. Tuyên truyền trước Đại hội
- Tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trong tình hình mới; các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo Đại hội ; tuyên truyền về vị trí, vai trò của thi đua yêu nước trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
- Tuyên truyền công tác chuẩn bị Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X.
2. Tuyên truyền trong Đại hội
- Tuyên truyền diễn biến và nội dung chính của Đại hội; giới thiệu các tập thể, cá nhân tiêu biểu tại Đại hội; chú trọng tuyên truyền những kinh nghiệm hay, bài học quý của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, điển hình tiên tiến.
- Tuyên truyền những kết quả nổi bật của các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng trên các lĩnh vực trong 05 năm 2015-2020; phương hướng, nhiệm vụ của phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai đoạn 2020-2025.
- Thông tin, tuyên truyền các hoạt động, sự kiện diễn ra trong thời gian tổ chức Đại hội.
3. Tuyên truyền sau Đại hội
- Tuyên truyền kết quả, thành công của Đại hội gắn với kết quả thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
- Tuyên truyền các hoạt động chào mừng thành công của Đại hội.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Căn cứ Kế hoạch tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020 của Viện Hàn lâm, các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm mở các chuyên trang, chuyên mục trên website của đơn vị, triển khai tổ chức công tác tuyên truyền Đại hội với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; Trung tâm Ứng dụng Công nghệ thông tin mở các chuyên trang, chuyên mục trên website của Viện Hàn lâm để tuyên truyền cho Đại hội một cách bài bản, khoa học.
- Ban Tổ chức - Cán bộ chủ động cung cấp các tài liệu tuyên truyền của Đại hội theo yêu cầu của Ban Tuyên giáo Trung ương để tuyên truyền trên website của đơn vị, của Viện Hàn lâm.
Trên đây là Kế hoạch tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020 của Viện Hàn lâm, đề nghị các đơn vị nghiêm túc triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, các đơn vị liên hệ với chuyên viên phụ trách công tác thi đua, khen thưởng Ban Tổ chức - Cán bộ (số điện thoại: 024.62663305) để được hướng dẫn.
Gửi kèm Hướng dẫn này là Đề cương tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X để các đơn vị triển khai tuyên truyền./.
Nơi nhận: - Chủ tịch Viện Hàn lâm (để b/c); - Các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm; - Lưu: VT, TCCB. |
KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH Đặng Xuân Thanh (đã ký) |
http://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Huong-dan-tuyen-truyen-Dai-hoi-Thi-dua-yeu-nuoc-toan-quoc-lan-thu-X-nam-2020-o-Vien-Han-lam-Khoa-hoc-xa-hoi-Viet-Nam-26
Hướng tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020
Ngày 7/8/2020, Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Hướng dẫn số 145-HD/BTGTW về hướng dẫn tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020. Cổng thông tin điện tử Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đã giới thiệu toàn văn bản hướng dẫn. Chi tiết xem link đính kèm.https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Huong-toi-Dai-hoi-Thi-dua-yeu-nuoc-toan-quoc-lan-thu-X-nam-2020-25

- Nxb: Khoa học xã hội - 2020
- Khổ sách: 19x27 cm
- Số trang: 902 trang
Hội nghị Thông báo những phát hiện mới về Khảo cổ học là hoạt động khoa học hàng năm của ngành Khảo cổ học cả nước, là sự kiện nổi bật gắn với lịch sử hình thành và phát triển của khảo cổ học nước nhà hơn nửa thế kỷ qua. Hội nghị có ý nghĩa to lớn trong việc trao đổi thông tin khoa học, tranh luận học thuật, đánh giá giá trị di sản văn hóa, hướng tới hợp tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Như thường lệ, đây là cuốn kỷ yếu của Hội nghị thông báo Khảo cổ học năm 2019 do Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội. Nội dung gồm 360 bài viết của các tác giả khác nhau thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học trên toàn quốc trong năm 2019: gồm 95 bài viết về khảo cổ học Tiền sử, 206 bài tham luận về khảo cổ học Lịch sử, 43 bài viết về khảo cổ học Champa - Óc Eo, 11 bài viết về khảo cổ học dưới nước và có 5 bài viết về các hoạt động chung của các cơ quan nghiên cứu khảo cổ.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Khoa học xã hội - 2020
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 447 tr
Sách do Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Trung tâm tại Hà Nội tổ chức bản thảo và xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội vào những ngày đầu xuân Canh Tý 2020. Sách có kích thước: 16 x 24cm, 447 trang gồm bản text và hình ảnh minh họa.
Lịch sử Vương quốc Champa của Georges Maspero bằng tiếng Pháp, do nhà Xuất bản Van Oest (Brussels và Paris) tái bản lần thứ nhất vào năm 1928. So với bản đầu tiên được đăng tải nhiều kỳ trên T’oung Pao (tạp chí về Trung Quốc học) ở Hà Lan trong các năm từ 1910-1913, bản này có một số sửa chữa dựa trên những kết quả nghiên cứu mới. Vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, bản này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) chọn để dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, bản dịch đó mới chỉ dừng lại dưới dạng tư liệu tham khảo, phục vụ cho một đối tượng nghiên cứu hẹp, chưa được hoàn thiện và phổ biến rộng rãi.
Vương quốc Champa được viết và xuất bản bằng tiếng Pháp cách đây gần một thế kỷ nhưng các giá trị tư liệu về mặt lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, dân tộc học, khảo cổ học vẫn rất có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu và nghiên cứu về Champa.
Cuốn sách ngoài phần nội dung dịch chính còn có các lời tựa, lời giới thiệu, của hai cơ quan và đặc biệt, phần bản dịch tiếng Việt được gắn thêm Chương 1 của lần xuất bản đầu tiên (1909) vốn không có trong bản tái bản năm 1928 mà Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã dịch ra tiếng Việt. Trong bản dịch tiếng Việt lần này, phần chú thích cũng được đánh số thứ tự theo từng chương và đặt ở cuối mỗi chương.
Phần nội dung chính của cuốn sách gồm 10 chương:
Chương I: XỨ SỞ VÀ DÂN CƯ. Xứ sở, thực vật, động vật và dân cư. – Tôn giáo. – Đẳng cấp và thị tộc. – Vua và triều đình. – Các đơn vị hành chính và quan lại cấp tỉnh. – Lục quân và hải quân. – Thuế khóa. – Tư pháp. – Phong tục: Cưới xin và Ma chay. – Lịch và hội hè hàng năm. – Nông nghiệp và thương mại. – Tiền tệ. – Thủ công nghiệp. – Kiến trúc và đền đài. – Âm nhạc và văn học.
Chương II: NGUỒN GỐC. Truyền thuyết. – Sự giao thiệp đầu tiên với Trung Quốc. – Ҫri Mara và sự hình thành lãnh thổ. – Vương triều I (192-336). – Nước Lâm Ấp. – Vương triều II (336-420). – Bhadravarman I và ngôi đền trong thung lũng Mỹ Sơn.
Chương III: LÂM ẤP. Vương triều III (420-528). – Phạm Dương Mại và việc Đàn Hòa Chi chiếm đóng Champa (466). – Vương triều IV (529-757). – Ҫambhuvarman và chiến dịch của Lưu Phương (605). – Xây lại đền Mỹ Sơn.
Chương IV: NƯỚC HOÀN VƯƠNG VÀ BÁ QUYỀN CỦA PANDURANGA. Vương triều V (758-859). – Virapura, Kinh đô Champa. – Những cuộc xâm lấn của Mã Lai năm 774 và 787.
Chương V: VƯƠNG QUỐC CHAMPA. Vương triều VI: "Vương triều Indrapura" (875-991). – Indrapura thủ đô của Champa. – Rajendravarman II, vua Khmer (945-946) xâm lược Champa. – Lê Hoàn, vua Đại Cồ Việt chinh phạt Indrapura (982). – Vương triều VII, vương triều thứ nhất ở Vijaya (991-1044). – Vijaya, thủ đô của Champa (1000). – Phật Mã, vua Đại Cồ Việt chinh phạt Vijaya (1044).
Chương VI: NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH VỚI ĐẠI VIỆT. Vương triều VIII (1044-1074). – Rudravarman III bị vua Lý Thánh Tông bắt làm tù binh (1069). – Ba tỉnh phía Bắc nhập vào Đại Việt (1069). – Vương triều IX (1074-1139). – Harivarman IV cất quân đi đánh Cao Miên
Chương VII: NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH VỚI KHMER. Vương triều X: 1139-1145. – Vương triều XI: 1147. – Suryavarman II, vua Khmer, ở Cao Miên. – Jaya Indravarman IV đánh Cao Miên, 1172. – Cao Miên xâm lăng và nước Champa bị chia làm hai tiểu quốc. – Suryavarman tái lập và thống nhất. – Champa là một tỉnh của Khmer, 1203-1220. – Jaya Parameҫvaravarman II khôi phục lại Vương triều XI, 1220.
Chương VIII: NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH VỚI NGUYÊN MÔNG. Vương triều XI (tiếp). – Indravarman VI và người Nguyên Mông, 1278-1285. – Jaya Sinhavarman III nhường cho Đại Việt hai châu Ô, Lý, 1306.
Chương IX: THỜI KỲ CỰC THỊNH. Sự suy vong của Vương triều XI. – Jaya Sinhavarman IV và Chế Năng. Vương triều XII: 1318. – Triều vua Chế Bồng Nga, 1360-1390.
Chương X: SUY TÀN VÀ DIỆT VONG. Vương triều XIII (1390-1458). – Jaya Sinhavarman V. –- Mahã-Vijaya và việc người Đại Việt chiếm thành Vijaya (1446). – Vương triều XIV (1458-1471). – Lê Thánh Tông xâm lược Champa (1471).
Phần phụ lục giới thiệu về tên phả các triều vua Champa; bài dẫn luận của G.Maspero trong cuốn Vương quốc Champa (xuất bản năm 1910); bài giới thiệu cuốn Vương quốc Champa (xuất bản năm 1928) của Louis Finot và đặc biệt là các hình ảnh minh họa được Georges Maspero in trong bản tiếng Pháp năm 1928.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Khoa học xã hội - 2019
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 568 tr
Tây Sơn Thượng đạo là tên gọi vùng đất phía trên đèo An Khê, gồm toàn bộ thị xã An Khê và địa bàn các huyện Kbang, Kông Chro, Đak Pơ ngày nay.
Đây chính là vùng đất khởi phát của phong trào Tây Sơn do ba an hem Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, sau gần hai thập kỷ, đã phát triển thành một phong trào nông dân rộng lớn, lật đổ các tập đoàn thống trị ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, xóa bỏ sự chia cắt đất nước, đập tan các cuộc xâm lược của phong kiến Xiêm và Mãn Thanh, làm nên một sự nghiệp đáng tự hào, đồng thời cũng đặt ra cho hậu thế nhiều vấn đề, nhiều khoảng trống trong nghiên cứu, mà một trong số đó là Tây Sơn Thượng đạo, “một hiện tượng lịch sử hết sức đặc biệt”
Cuối năm 2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Tây Sơn Thượng đạo trong khởi nghĩa Tây Sơn”.
Cuốn sách được xuất bản trên cơ sở tuyển chọn các bài viết gửi tới hội thảo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Nội dung cuốn sách gồm 2 phần:
Phần thứ nhất: Vai trò của Tây Sơn Thượng đạo đối với khởi nghĩa Tây Sơn
Phần thứ hai: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Tây Sơn Thượng đạo.
Tới dự khai mạc Hội nghị Về phía thành phố Hải Phòng có ông Lê Văn Thành – Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND TP. Hải Phòng. Về phía Viện Hàn lâm có GS.TS. Phạm Văn Đức (Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam), PGS.TS Tống Trung Tín (Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam), GS.TS Andrew Hardy (Viện Viễn đông bác cổ Pháp tại Hà Nội), TS. Nguyễn Văn Đoàn (Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), TS Nguyễn Gia Đối (Q. Viện trưởng Viện Khảo cổ học), cùng đông đảo các nhà khoa học trong các lĩnh vực Khảo cổ học, nhân chủng học, địa chất học, bảo tàng học, di sản…Theo Ban tổ chức, năm nay hội nghị đã nhận được 341 bài viết theo các chủ đề của 4 tiểu ban: Khảo cổ học Tiền sử 105 bài, Khảo cổ học Lịch sử 166 bài, Khảo cổ học Champa – Óc Eo 48 bài, Khảo cổ học Dưới nước 16 bài và 6 bài về các hoạt động chung của các cơ quan nghiên cứu khảo cổ. Đây là những phát hiện mới về di tích, di vật cũng như những nghiên cứu chuyên sâu xuyên suốt từ thời tiền sử đến lịch sử.

Tại hội nghị lần này, nhiều hoạt động khảo cổ học của Bộ môn Khảo cổ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân Văn (Đại học Quốc gia Hà Nội); Bảo tàng Lịch sử Quốc gia; Trung tâm Khảo cổ học- Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; Viện Khảo cổ học về những phát hiện mới của khảo cổ học thời đại Tiền sử, Lịch sử, Champa-Óc eo, Khảo cổ học dưới nước được công bố…
Sau phiên khai mạc, các nhà khoa học sẽ trình bày và thảo luận tại các phòng họp tiểu ban. Hội nghị sẽ diễn ra trong hai ngày 29-30/9 và bế mạc vào 11h-11h30 sáng 30/9.
Vườn Chuối, Thành Dền, Đình Tràng… là những di chỉ khảo cổ học quý giá của Hà Nội. Bảo tồn được những di chỉ, lưu giữ những chứng tích quan trọng về quá trình cư trú và sáng tạo văn hóa lâu đời của cư dân này, Hà Nội sẽ giữ được những chứng tích, nối dài thêm bản “lý lịch văn hóa” của mình hàng nghìn năm trước khi có lịch sử. Nhưng muốn vậy, trước tiên cần có một bản quy hoạch khảo cổ học đầy đủ, chi tiết và khả thi.

Một di tích quan trọng thời “tiền Đông Sơn”
Thời gian vừa qua dư luận đã ngạc nhiên xôn xao biết đến giá trị đặc biệt của di chỉ khảo cổ học Vườn Chuối (thôn Lai Xá, xã Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội). Khu di chỉ này đang đứng trước áp lực giải phóng mặt bằng cho các công trình xây dựng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết có một phương án hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Nhưng ít người biết Hà Nội còn có nhiều khu di chỉ khảo cổ học khác, quý giá nhưng đã bị lãng quên. Di chỉ khảo cổ học Thành Dền (thôn Phú Mỹ, xã Tự Lập, Mê Linh, Hà Nội) là một thí dụ tiêu biểu.
Thành Dền có nhiều tên gọi khác nhau như Thành Cự Triền, Thành Trại hay Thành Cờ, tương truyền là nơi xưa kia Hai Bà Trưng cho đắp thành chống lại quân Nam Hán. Đã qua ba lần thám sát, bảy lần khai quật với tổng diện tích 559,5 m2 trong những năm từ 1972 - 2013, các nhà khoa học đã xác định khu vực di tích có diện tích rộng hơn 40.000 m2, và tìm thấy các sưu tập hiện vật đồ đồng, đá, gốm, xương có số lượng phong phú, các loại hình di tích độc đáo như những hố đất đen, vết tích bếp, vết tích lò đúc đồng, mộ táng, cụm gốm, cụm đất nung… mang đặc trưng điển hình của văn hóa Đồng Đậu (3.500 - 2.900 năm cách ngày nay). Đáng chú ý, tại Thành Dền đã phát hiện được dấu tích của chín lò nấu kim loại đắp bằng đất sét còn khá nguyên vẹn, số lượng lớn di vật là khuôn đúc, mảnh khuôn đúc, lõi khuôn, mảnh gốm vụn dính xỉ đồng, mảnh nồi nấu đồng, đồ đồng, các cục xỉ đồng là phế phẩm của quá trình luyện kim. Đây là những minh chứng chắc chắn về sự phát triển của một cơ sở chế tác đồ đồng quy mô lớn ở Thành Dền. Cho tới nay, đã xác định được 15 địa điểm khảo cổ văn hóa Đồng Đậu có chứa các vết tích liên quan tới hoạt động đúc đồng trong giai đoạn Đồng Đậu, nhưng ở Thành Dền vết tích dày đặc về mật độ và phong phú về loại hình nhất. Người thợ đúc Thành Dền đã hoàn toàn làm chủ được công nghệ kỹ thuật, trình độ đúc đồng điêu luyện, quy mô hoạt động sản xuất đã mở rộng, thu hút đông nhân lực tham gia. Cùng với chứng tích của nghề nông trồng lúa nước, những dấu tích về nghề luyện kim đồng và chế tác đồng, những ngành nghề thủ công nghiệp với trình độ chuyên môn hóa cao được tìm thấy ở Thành Dền là minh chứng cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của những cộng đồng cư dân cổ ở khu vực Hà Nội ngày nay. Rộng hơn, có thể khẳng định Thành Dền là một trong những di tích quan trọng nhất thuộc giai đoạn tiền Đông Sơn ở châu thổ sông Hồng.
Mặc dù mang nhiều giá trị khoa học, văn hóa nhưng cho đến nay di chỉ Thành Dền vẫn nằm ngoài tất cả những danh sách di tích, di chỉ cần bảo vệ. Đơn giản vì nó chưa được xếp hạng nên không được bảo vệ bằng luật. Thành Dền và nhiều di chỉ khảo cổ học khác còn chờ một quy hoạch (để bảo vệ) khảo cổ học của Hà Nội.
Trong khi chờ đợi, di chỉ Thành Dền đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại do hoạt động canh tác nông nghiệp. Trở lại khảo sát Thành Dền giữa tháng 8-2020, GS khảo cổ học Lâm Mỹ Dung (Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội) trăn trở: “Nếu không có biện pháp kịp thời can thiệp thì chẳng bao lâu, chứng tích quan trọng nhất về một trung tâm/làng đúc đồng lớn nhất châu thổ Bắc Bộ sẽ chỉ còn trong hồ sơ và ký ức của các nhà khoa học”.
Cần sớm có quy hoạch khảo cổ học Hà Nội
Phía dưới Hà Nội hôm nay còn là cả một “Thăng Long - Hà Nội trong lòng đất”. Một nhà khảo cổ học nói vui (mà thật): “Cả Hà Nội là một bảo tàng lớn. Ở Hà Nội đào ở đâu cũng có thể thấy công trình khảo cổ, cũng có thể gặp hiện vật khảo cổ...”. Đó là “mối nguy” cho các nhà quản lý, các nhà xây dựng khi các di sản có thể sẽ “kìm chân” các dự án. Dường như các nhà khảo cổ học, các nhà văn hóa đang ở vị thế “đối đầu” (!) với các nhà đầu tư xây dựng, thậm chí cả các nhà quản lý khi thực hiện các dự án?
Từ trường hợp di chỉ Vườn Chuối và Thành Dền, có thể nhìn thấy sự thiếu đồng bộ và nhất quán về quản lý, nghiên cứu và bảo tồn, chưa có quy hoạch khảo cổ học khi quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn ngày càng nhanh và mạnh đang gây nên nhiều hệ lụy và mất mát lớn cho di sản. Chính vì vậy, việc gấp cần kíp hiện nay là Hà Nội phải tiến hành xây dựng Quy hoạch khảo cổ học, trong đó xác định (tương đối) những khu vực nào có các di tích dày đặc và quan trọng, khu vực nào có mật độ di tích vừa phải, khu vực nào không có di tích. Quy hoạch đó phải được chính thức hóa về mặt Nhà nước, được phê duyệt, công bố bởi các cấp có thẩm quyền. Khi đã có một quy hoạch bảo tồn trên cơ sở thăm dò và khảo sát về khảo cổ học, chúng ta có thể đưa ra được những phương án tối ưu để bảo đảm phát triển đồng thời vẫn bảo tồn được tối đa các di sản, di tích, di vật. Và cũng cần lưu ý bảo vệ, bảo tồn không chỉ những di tích đã được xếp hạng mà phải chú ý đến cả những di tích chưa được (kịp) xếp hạng.
Ban tổ chức thông báo chương trình Hội nghị như sau:
Ngày 28/9:
+ 12h-14h30: Đưa đại biểu từ Viện Khảo cổ học đi tham dự Hội nghị
+ 14h30-17h: Tham quan Di tích bãi cọc Cao Quỳ và Khu di tích Bạch Đằng Giang
+ 18h30-20h30: Tiệc chiêu đãi của UBND thành phố Hải Phòng
Ngày 29/9:
+ 8h-11h30: Phiên khai mạc Hội nghị
+ 13h30-17h: Báo cáo và thảo luận tại các tiểu ban
Ngày 30/9:
+ 8h-9h45: Báo cáo và thảo luận tại các tiểu ban
+ 10h-11h30: Tổng kết và bế mạc
+ 12h-13h30: Tiệc chiêu đãi của Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
+ 14h-16h30: Đưa đại biểu về Hà Nội
(Chi tiết xem file đính kèm)
Trên cơ sở các phân tích về kiểu dáng, chất liệu, dấu vết kỹ thuật, hoa văn của các mảnh khuôn để phục dựng lại hình dáng và hoa văn của trống Luy Lâu. Qua so sánh trống Luy Lâu với các loại hình trống Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, kết hợp với kết quả phân tích niên đại C14 các mảnh khuôn, bàiviết đã có một số nhận định bước đầu về: (1) niên đại của mảnh khuôn, theo đó là niên đại của loại trống tương ứng được đúc bởi những chiếc khuôn này; (2) quy trình đúc trống; (3) một số giá trị lịch sử và văn hóa của sưu tập khuôn đúc quý giá này.
(Theo Trương Đắc Chiến, số 3/2020).