Các hoạt động xung kích, tình nguyện vì cuộc sống của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày Truyền thống lực lượng thanh niên xung phong (15/7/1950 - 15/7/2020), 73 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2020), bám sát chỉ đạo của Đoàn Khối theo Kế hoạch số 97KH/ĐTNK-BPT về việc tổ chức chiến dịch hè 2020; Chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh niên 2020, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Hội cựu Chiến binh Viện Hàn lâm và tỉnh Đoàn Nghệ An tổ chức nhiều hoạt động tri ân đối với những người có công với đất nước.Link bài viết
https://vass.gov.vn/tin-hoat-dong-doan-thanh-nien/hoat-dong-xung-kich-tinh-nguyen-vi-cuoc-song-743
Nguồn gốc răng của con người quay ngược thời gian hơn 400 triệu năm trước, đến thời kỳ cá bọc thép kỳ lạ lần đầu tiên phát triển hàm và bắt đầu bắt mồi sống. Chúng ta là hậu duệ của những con cá này, cũng như tất cả 60.000 loài động vật có xương sống khác - cá mập, cá xương, lưỡng cư, bò sát, chim và động vật có vú. Một nhóm các nhà khoa học quốc tế do Đại học Uppsala (Thụy Điển) dẫn đầu, hợp tác với ESRF, Synchrotron châu Âu (Pháp), nguồn tia X sáng nhất, lần đầu tiên đã 'mổ xẻ', hóa thạch cá hàm nguyên thủy nhất với những chiếc răng được tìm thấy gần Prague hơn 100 năm trước. Kết quả, được công bố trên tạp chí Science ngày 9/7/2020, cho thấy răng của chúng có những đặc điểm hiện đại đáng ngạc nhiên.
Răng ở động vật xương sống có hàm hiện tại cho thấy một số kiểu nhất quán: ví dụ, răng mới thường phát triển ở mặt trong của răng cũ và sau đó di chuyển ra ngoài để thay thế chúng (ở người, mô hình này đã được biến đổi để răng mới phát triển bên dưới răng cũ, sâu bên trong xương hàm). Tuy nhiên, có một số khác biệt giữa cá xương (và con cháu của chúng là động vật trên cạn) và cá mập; ví dụ thực tế là cá mập hoàn toàn không có xương, bộ xương của chúng được làm từ sụn và không có lớp dentine cũng như răng thật trong miệng dính vào nó; chúng chỉ đơn giản là ở trong da. Ở cá xương và động vật trên cạn, răng luôn được gắn vào xương hàm. Ngoài ra, trong khi cá mập rụng toàn bộ răng đã bị mòn, chỉ đơn giản bằng cách tách chúng ra khỏi da, cá xương và động vật trên đất liền rụng chúng bằng cách làm tan biến các chân răng.
Sự đa dạng này đặt ra nhiều câu hỏi về nguồn gốc của răng. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã tập trung vào hóa thạch của một nhóm cá cổ sống cách đây khoảng 430 đến 360 triệu năm, được gọi là động vật chân đốt, là loài động vật xương sống có hàm duy nhất có răng. Tuy nhiên, họ rất khó để hiểu làm thế nào chúng có thể tiến hóa vào răng của động vật có xương sống hiện đại, vì răng động vật chân đốt (arthrodire) rất khác về vị trí và phương thức bổ sung răng so với cá xương và cá mập.
Chụp quét những con cá hàm nguyên thủy nhất
Một nhóm từ Đại học Uppsala, Đại học Charles (Cộng hòa Séc), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London (Anh), Bảo tàng Quốc gia ở Prague (Cộng hòa Séc) và ESRF, Synchrotron châu Âu (Pháp) đã đặt ra để xác định xem loại răng kỳ lạ này có thực sự là tổ tiên của răng chúng ta, hoặc chỉ là một nhánh nhỏ chuyên biệt ra khỏi nhánh dẫn đến động vật có xương hàm hiện đại.
Với mục đích này, họ đã chuyển sang acanthothoracids, một nhóm cá đầu tiên khác được cho là nguyên thủy hơn các loài động vật chân đốt và có liên quan chặt chẽ với các loài động vật có xương hàm đầu tiên. Vấn đề với acanthothoracids là hóa thạch của chúng rất hiếm và luôn không đầy đủ. Những hóa thạch tốt nhất trong số chúng đến từ lưu vực Prague ở Cộng hòa Séc, từ những tảng đá hơn 400 triệu năm tuổi và được thu thập vào đầu thế kỷ trước. Chúng rất khó nghiên cứu bằng các kỹ thuật thông thường bởi vì các xương này không thể được giải phóng khỏi đá bao quanh, và do đó chưa bao giờ được nghiên cứu chi tiết.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các đặc tính độc đáo của ESRF, nguồn tia X sáng nhất thế giới và chùm tia vi mô synchrotron ID19, để hình dung cấu trúc bên trong của hóa thạch 3D mà không làm hỏng chúng. Tại ESRF, một vòng electron dài 844 mét di chuyển với tốc độ ánh sáng phát ra chùm tia X năng lượng cao có thể được sử dụng để quét vật chất không phá hủy, bao gồm cả hóa thạch
Valéria Vaškaninová, tác giả chính của nghiên cứu trên và nhà nghiên cứu từ Đại học Uppsala cho biết: "Kết quả thực sự đáng chú ý, bao gồm các hàm răng được bảo quản tốt mà ngoài sức mong đợi ". Quét theo dõi ở độ phân giải cao hơn cho phép các nhà nghiên cứu hình dung mô hình tăng trưởng và thậm chí các không gian tế bào được bảo tồn hoàn hảo bên trong răng của những chiếc răng cổ này.
Giống như động vật chân đốt, các hàm răng của acanthothoracid được gắn vào xương. Điều này chỉ ra rằng cá xương và động vật trên cạn bảo lưu tính tổ tiên trong vấn đề này, trong khi cá mập đặc biệt răng chỉ gắn trên da - trái ngược với nhận thức phổ biến rằng cá mập là động vật có xương sống nguyên thủy. Một lần nữa, giống như động vật chân đốt, răng của acanthothoracids không bị rụng.
Khác với chân đốt hơn dự kiến
Tuy nhiên, răng của acanthothoracid khác về cơ bản so với các loài động vật chân đốt. Giống như cá mập, cá xương và động vật trên cạn, acanthothoracids chỉ thêm răng mới ở bên trong; những chiếc răng lâu đời nhất nằm ngay rìa hàm. Về khía cạnh này, các bộ răng của acanthothoracid trông có vẻ hiện đại đáng chú ý.
"Thật ngạc nhiên, những răng này hoàn toàn phù hợp với mong đợi của chúng tôi về bộ răng tổ tiên chung cho động vật có xương sống sụn và xương." Vaškaninová giải thích.
Các xương mang răng cũng mang các yếu tố dentine nhỏ không cắn của da trên bề mặt bên ngoài của chúng, một đặc điểm giống với cá xương nguyên thủy nhưng có ở động vật chân đốt. Đây là một sự khác biệt quan trọng bởi vì nó cho thấy xương hàm của acanthothoracid nằm ngay rìa miệng, trong khi xương hàm của chân đốt nằm sâu hơn. Thật độc đáo, một acanthothoracid (Kosoraspis) cho thấy sự chuyển đổi hình dạng dần dần từ các yếu tố dentine sang răng thật lân cận, trong khi một loại khác (Radotina) có răng thật gần giống với các yếu tố dentine da của nó trong hình dạng. Đây có thể là bằng chứng cho thấy răng thật chỉ mới phát triển gần đây từ các yếu tố ngà (dentine) trên da.
Đồng tác giả Per Ahlberg, giáo sư Đại học Uppsala nói "Những phát hiện này thay đổi toàn bộ sự hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc của răng". Ông cũng cho biết thêm: "Mặc dù acanthothoracids là một trong những loài động vật có xương hàm nguyên thủy nhất, nhưng răng của chúng theo một cách nào đó giống với răng hiện đại hơn là răng của chân đốt”. Xương hàm của chúng giống với cá có xương và dường như là tổ tiên trực tiếp của chúng ta. Khi bạn cười toét miệng trước gương trong phòng tắm vào buổi sáng, những chiếc răng lộ ra , bạn có thể tìm nguồn gốc của chúng từ những động vật có xương hàm đầu tiên. "
Story Source:
https://www.sciencedaily.com/releases/2020/07/200709141606.htm
Materials provided by European Synchrotron Radiation Facility. Note: Content may be edited for style and length.
https://www.dailymail.co.uk/sciencetech/article-8506673/Human-teeth-evolved-400-million-years-ago-strange-armoured-fish.html
- Valéria Vaškaninová, Donglei Chen, Paul Tafforeau, Zerina Johanson, Boris Ekrt, Henning Blom, Per Erik Ahlberg. Marginal dentition and multiple dermal jawbones as the ancestral condition of jawed vertebrates. Science, 2020 DOI: 10.1126/science.aaz9431
Sự xuất hiện nông nghiệp ở vùng Đông Nam Á lục địa dẫn đến sự chuyển dịch phương thức sinh kế từ săn bắn hái lượm sang phương thức tổ hợp săn bắt và thuần hóa động vật tập trung vào lợn và chó.
Những kết luận này hiện đang dựa trên sự khác biệt danh nghĩa trong thành phần phân loại động vật có xương sống được quan sát tại các địa điểm khảo cổ khác nhau. Tuy nhiên, qua cách tiếp cận thống kê, Rebecca cùng các cộng sự (2018) đã kiểm tra các nền kinh tế nông nghiệp và săn bắn sớm có thể thực sự được phân biệt dựa trên thành phần phân loại tương đối của các bộ sưu tập di cốt động vật được chỉnh lí.
Một cơ sở dữ liệu khu vực về hệ động vật có xương sống trên mặt đất và trên cây được thu thập từ 32 địa điểm khảo cổ trên khắp Đông Nam Á (ĐNÁ) từ cuối Pleistocene sang Holocene muộn, và phân tích thành phần chính (principal component analysis = PCA ) đã được thực hiện. Dữ liệu thu được chỉ ra rằng thành phần phân loại động vật có xương sống trên mặt đất là một chỉ số tương đối mạnh của phương thức sinh kế chung cho các địa điểm khảo cổ khác nhau được nghiên cứu và có thể được sử dụng để xác định các cư dân sống hoàn toàn từ săn bắn hay từ tổ hợp săn bắn và thuần hóa động vật.
Hình 1. Bản đồ ĐNÁ và Trung Quốc chỉ ra các di chỉ được sử dụng trong phân tích liên quan đến tên các địa điểm trong bảng 1. Bản đồ này được tạo ra từ bản đồ cơ sở bởi Tonii∼commonswiki
Bảng 1. Tổng kết các di chỉ được sử dụng cho phân tích . Dạng di chỉ: C= hang động, R = vùng ven sông, E= cửa sông, CO = duyên hải. Các phương thức sinh kế: được phân loại theo các tác giả hoặc chưa rõ. HG = săn bắn - hái lượm ; AG = nông nghiệp /thuần hóa, niên đại hiệu chỉnh (cal. BP or cal. BC)
Qua phương pháp PCA (principal component analysis = PCA ), các taxon động vật có vú thuộc cùng họ được nhóm cùng một nhóm và không có sự khác biệt giữa nhóm hoang dã và nhóm thuần hóa trong cùng một họ.
Có sự khác biệt rõ ràng giữa các di chỉ với sự phong phú lớn họ cầy, khỉ và báo (C1), so sánh với các di chỉ với tỉ lệ cao lợn và chó (C3). So sánh giữa 1 và 3 dựa trên loại địa điểm (hang động, ven sông, cửa sông, duyên hải), giai đoạn thời gian (Pleistocene, Holocene sớm, Holocene giữa , Holocene muộn), và phương thức sinh kế (săn bắn hái lượm, nông nghiệp/ thuần hóa, không rõ) cho cùng một kết quả ( bảng 1).
Nhìn chung, có mối tương quan tích cực với các địa điểm Pleistocene , các môi trường hang động và phương thức sinh kế săn bắt, hái lượm, đối ngược lại với các địa điểm Holocene giữa và muộn, các môi trường ven sông/ cửa sông, và các kinh tế nông nghiệp/ thuần hóa. Tuy nhiên, giai đoạn thời gian và dạng di chỉ có sự trùng lặpgiữa các nhóm, trong khi phương thức sinh kế tạo ra sự tách biệt rõ ràng nhất và sự trùng lặp là nhỏ nhất. Điều này cho thấy cơ sở phương thức sinh kế là tiêu chí hữu ích nhất cho các dạng hệ động vật modelling.
Trong tất cả các trường hợp, Dingsishan là một ngoại lệ rõ ràng, do tỉ lệ hươu rất cao trong tập hợp. Lobang Hangus (Hang Niah) cũng là một ngoại do tỉ lệ khỉ cao. Khi so sánh phương thức sinh kế , Cồn Cổ Ngựa nằm trong nhóm người săn bắt hái lượm trong khi Mán Bạc trong nhóm nông nghiệp. Thật thú vị, địa điểm Holocene duy nhất nằm trong nhóm hang động Pleistocene này là Khok Phanom Di, một địa điểm mà Higham và Thosarat (2004) lập luận chủ yếu dựa trên sự tồn tại của người săn bắn hái lượm.
Khi so sánh các thành phần 2 (hươu, bò) và 3 (lợn, chó), mô hình tổng thể và sự khác biệt giữa các nhóm không rõ ràng trong tất cả các ví dụ . Điều này cho thấy việc săn bắt hoặc khai thác hươu và bò so với lợn và chó nói chung không phải là một phương pháp phân biệt hữu ích giữa các loại địa điểm, giai đoạn thời gian hoặc phương thức sinh kế. Một trong những lý do có thể giải thích cho điều này đó là cả hươu hoang dã và bò rừng tiếp tục được khai thác tốt trong giai đoạn Holocene . So sánh các thành phần 1 (cầy, khỉ, báo ) và 2 (hươu, bò) cho kết quả không rõ ràng, ngoại trừ một lần nữa làm nổi bật các địa điểm đặc biệt phong phú ở hươu (Dingsishan, Wayogou) hoặc khỉ (lobang Hangus, Khok Phanom Di). Điều này cho thấy rằng sự hiện diện và phong phú tương đối của lợn và chó (C3) thường là yếu tố phân biệt rõ nhất giữa các địa điểm Pleistocene và Holocene giữa - muộn và / hoặc giữa các phương thức sinh kế dựa vào săn bắn hái lượm và nông nghiệp.
Cồn Cổ Ngựa and Mán Bạc
Cồn Cổ Ngựa (CCN) và Mán Bạc (MB) vẫn tách biệt rõ ràng thành các nhóm người săn bắt hái lượm và nông nghiệp / thuần hóa, như giả thuyết. Tỷ lệ lợn cao và sự có mặt của chó (C3) ở MB là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự kết luận này. Đối với CCN, tỷ lệ tương đối cao của báo, cầy và khỉ (C1) đã xếp di chỉ này trong nhóm các địa điểm săn bắn hái lượm.
Điều đáng thú vị , tỷ lệ cao của lớp trâu, bò (đặc biệt là trâu nước, Bubalus cf arnee) ở CCN không tách địa điểm này khỏi các địa điểm săn bắn hái lượm khác. Điều này là do sự có mặt của lớp trâu bò trong các bộ sưu tập thuộc săn bắn hái lượm không phải là hiếm. Ví dụ, Laang Spean, một di chỉ Hòa Bình ở Campuchia, có tỷ lệ cao Bos sp. (number of identified specimens = NISP = số lượng mẫu định loài được, NISP 996; 77,3% động vật có vú). Đối với CCN, điều này tương quan với các bằng chứng môi trường cổ khác cho thấy khu vực xung quanh rất giàu tài nguyên thủy sinh cũng như môi trường rừng. Đối với MB, việc săn hươu và đánh bắt cá là một chiến lược kinh tế và xã hội quan trọng bên cạnh việc duy trì quần thể lợn thuần hóa, nhưng cũng thiếu sự khác biệt về các taxon động vật leo trèo trên cây. Bước chuyển này thiên về sự phụ thuộc nhiều hơn vào việc săn hươu thay vì động vật leo trèo trên cây, điều này tương phản với bước chuyển Holocene sớm thiên về các taxon động vật trên cây được thấy ở các địa điểm ĐNÁ hải đảo và có thể liên quan đến mất môi trường sống rừng trong suốt giai đoạn Holocene muộn.
Các ngoại lệ thú vị
Phân tích này nêu bật các mô hình quan trọng đã diễn ra ở ĐNÁ, và thể hiện sự đa dạng của các chiến lược sinh tồn trong thời gian từ Holocen giữa đến Holocen muộn ở ĐNÁ. Phân tích so sánh cho phép hiểu rõ hơn về đặc điểm của từng di chỉ. Ngoài Cồn Cổ Ngựa và Mán Bạc, một số di chỉ cho thấy kết quả đáng chú ý bao gồm Dingsishan, Khok Phanom Di và Rạch Núi.
Dingsishan thường là ngoại lệ đặc biệt nhất không thuộc nhóm nào ( giai đoạn thời gian, loại di chỉ, phương thức sinh kế) hoặc thành phần được chọn. Điều này có liên quan đến tỷ lệ hươu rất cao trong di chỉ này (28.071 NISP, 92% tổng số NISP trong đó NSIP =number of identified specimens = NISP = số lượng mẫu định loài được). Tuy nhiên, tỷ lệ tương đối thấp của khỉ, cầy và báo (C1) so với các địa điểm cuối Pleistocene khác đến Holocene gưiax là một yếu tố khác góp phần vào sự khác biệt của Dingsishan.
Khok Phanom Di (KPD) từ lâu đã được Higham và Thosarat (2004) cho rằng di chỉ này đại diện cho một cộng đồng chủ yếu tham gia vào lối sống săn bắt hái lượm. Đề xuất này được hỗ trợ bởi phân tích PCA này, vì mặc dù Khok Phanom Di có rất nhiều lợn (587 = NISP), nhưng điều này tương đối thấp so với hươu (810 = NISP). Hơn nữa, sự phong phú của loài khỉ (418 = NISP) phù hợp hơn với các địa điểm Pleistocene và / hoặc săn hái lượm khác so với các địa điểm chủ yếu dựa vào động vật được thuần hóa. Điều đáng chú ý là chó được thuần hóa chỉ xuất hiện ở các lớp trên và số lượng tương đối thấp (13 = NISP).
Hơn nữa, mặc dù bằng chứng về lúa thuần hóa đã có mặt trong phần lớn di chỉ này, các nhà khai quật cho rằng gạo có thể được du nhập trong giai đoạn đầu và cuối nhưng có thể được trồng tại địa phương giữa c. 1750 - 1650 cal. BC (Higham và Thosarat, 2004; Bentley và cộng sự, 2007). Đối với phân tích này, hệ động vật của Khok Phanom Di đã được tổ hợp với nhau , nếu Khok Phanom Di có thể được phân tách khách quan thành các giai đoạn dựa trên niên đại rõ ràng, thì một bước chuyển hệ động vật cho thấy sự xuất hiện của động vật được thuần hóa có thể nhận thấy trong hồ sơ khảo cổ học.
Tương tự, địa điểm Holocene giữa - Rạch Núi xếp gần hơn với nhóm săn bắt hái lượm phần lớn liên quan đến tỷ lệ khỉ khá cao được xác định (255 = NISP) trong tập hợp. Tuy nhiên, cũng rất thú vị khi lưu ý rằng mặc dù có sự hiện diện của chó được thuần hóa và sự phong phú của lợn (222 = NISP), Oxenham et al. (2015) cho thấy rằng phương thức sinh kế chủ yếu là đánh cá và săn bắn. Đối với lợn, không có dấu hiệu nào cho thấy mô hình tiêu diệt có chọn lọc, dẫn đến Oxenham và cộng sự (2015) kết luận rằng không rõ liệu lợn có tiêu biểu cho sự chăn nuôi / thuần hóa.
Hơn nữa, gạo và kê dường như đã được du nhập vào di chỉ này hơn là được trồng tại địa phương (Oxenham et al., 2015; Barron, 2016; Castillo et al., 2017). Do đó, điều thú vị là phương pháp phân tích thành phần chính (PCA) đã đưa ra một kết quả mơ hồ cho Rạch Núi vì các nhà khai quật trước đây đã lập luận cho một phương thức sinh kế hỗn hợp. Mặc dù các động vật có vú cỡ lớn - trung bình được lựa chọn đặc biệt cho phân tích này với mục đích so sánh phương pháp chặt chẽ và rõ ràng , trong tương lai, sẽ rất thú vị khi chuẩn hóa một phương pháp phương pháp để cho phép đưa vào các hệ động vật khác nhau. Ví dụ, việc đưa cá vào loại phân tích này sẽ cho phép nhiều di chỉ trong ĐNÁ hải đảo được so sánh với ĐNÁ lục địa. Không còn nghi ngờ gì nữa, bao gồm nhiều hệ động vật và địa điểm khác nhau sẽ làm phong phú thêm bức tranh và chứng minh sự phức tạp làm nền tảng cho các hoạt động sinh kế ở ĐNÁ.
Như vậy, nghiên cứu trên đã tìm thấy các mô hình sinh kế có thể phân biệt rõ ràng ở các di chỉ ĐNÁ từ cuối Pleistocene đến Holocene muộn. Cụ thể, phương pháp phân tích thành phàn chính PCA đã chỉ ra một sự khác biệt đáng kể giữa các địa điểm săn bắt hái lượm với sự phong phú tương đối cao của khỉ, cầy và báo so với các nền kinh tế thuần hóa chó và lợn. Khi so sánh với dạng bối cảnh khác (giai đoạn thời gian và loại di chỉ), phương thức sinh kế thường tạo ra sự tách biệt rõ ràng nhất giữa các địa điểm và đã thành công trong việc phân biệt giữa các địa điểm dựa trên phương thức săn bắn- hái lượm đối lập với phương thức sinh kế thuần hóa. Nhìn chung, các kết quả này xác nhận PCA là một phương pháp hữu ích trong khảo cổ học Đông Nam Á để truy vấn các quá trình trung gian quy mô lớn của con người.
Nguồn tham khảo:
Người dịch: Minh Tran
Những kết luận này hiện đang dựa trên sự khác biệt danh nghĩa trong thành phần phân loại động vật có xương sống được quan sát tại các địa điểm khảo cổ khác nhau. Tuy nhiên, qua cách tiếp cận thống kê, Rebecca cùng các cộng sự (2018) đã kiểm tra các nền kinh tế nông nghiệp và săn bắn sớm có thể thực sự được phân biệt dựa trên thành phần phân loại tương đối của các bộ sưu tập di cốt động vật được chỉnh lí.
Một cơ sở dữ liệu khu vực về hệ động vật có xương sống trên mặt đất và trên cây được thu thập từ 32 địa điểm khảo cổ trên khắp Đông Nam Á (ĐNÁ) từ cuối Pleistocene sang Holocene muộn, và phân tích thành phần chính (principal component analysis = PCA ) đã được thực hiện. Dữ liệu thu được chỉ ra rằng thành phần phân loại động vật có xương sống trên mặt đất là một chỉ số tương đối mạnh của phương thức sinh kế chung cho các địa điểm khảo cổ khác nhau được nghiên cứu và có thể được sử dụng để xác định các cư dân sống hoàn toàn từ săn bắn hay từ tổ hợp săn bắn và thuần hóa động vật.
Hình 1. Bản đồ ĐNÁ và Trung Quốc chỉ ra các di chỉ được sử dụng trong phân tích liên quan đến tên các địa điểm trong bảng 1. Bản đồ này được tạo ra từ bản đồ cơ sở bởi Tonii∼commonswiki
Bảng 1. Tổng kết các di chỉ được sử dụng cho phân tích . Dạng di chỉ: C= hang động, R = vùng ven sông, E= cửa sông, CO = duyên hải. Các phương thức sinh kế: được phân loại theo các tác giả hoặc chưa rõ. HG = săn bắn - hái lượm ; AG = nông nghiệp /thuần hóa, niên đại hiệu chỉnh (cal. BP or cal. BC)
Qua phương pháp PCA (principal component analysis = PCA ), các taxon động vật có vú thuộc cùng họ được nhóm cùng một nhóm và không có sự khác biệt giữa nhóm hoang dã và nhóm thuần hóa trong cùng một họ.
Có sự khác biệt rõ ràng giữa các di chỉ với sự phong phú lớn họ cầy, khỉ và báo (C1), so sánh với các di chỉ với tỉ lệ cao lợn và chó (C3). So sánh giữa 1 và 3 dựa trên loại địa điểm (hang động, ven sông, cửa sông, duyên hải), giai đoạn thời gian (Pleistocene, Holocene sớm, Holocene giữa , Holocene muộn), và phương thức sinh kế (săn bắn hái lượm, nông nghiệp/ thuần hóa, không rõ) cho cùng một kết quả ( bảng 1).
Nhìn chung, có mối tương quan tích cực với các địa điểm Pleistocene , các môi trường hang động và phương thức sinh kế săn bắt, hái lượm, đối ngược lại với các địa điểm Holocene giữa và muộn, các môi trường ven sông/ cửa sông, và các kinh tế nông nghiệp/ thuần hóa. Tuy nhiên, giai đoạn thời gian và dạng di chỉ có sự trùng lặpgiữa các nhóm, trong khi phương thức sinh kế tạo ra sự tách biệt rõ ràng nhất và sự trùng lặp là nhỏ nhất. Điều này cho thấy cơ sở phương thức sinh kế là tiêu chí hữu ích nhất cho các dạng hệ động vật modelling.
Trong tất cả các trường hợp, Dingsishan là một ngoại lệ rõ ràng, do tỉ lệ hươu rất cao trong tập hợp. Lobang Hangus (Hang Niah) cũng là một ngoại do tỉ lệ khỉ cao. Khi so sánh phương thức sinh kế , Cồn Cổ Ngựa nằm trong nhóm người săn bắt hái lượm trong khi Mán Bạc trong nhóm nông nghiệp. Thật thú vị, địa điểm Holocene duy nhất nằm trong nhóm hang động Pleistocene này là Khok Phanom Di, một địa điểm mà Higham và Thosarat (2004) lập luận chủ yếu dựa trên sự tồn tại của người săn bắn hái lượm.
Khi so sánh các thành phần 2 (hươu, bò) và 3 (lợn, chó), mô hình tổng thể và sự khác biệt giữa các nhóm không rõ ràng trong tất cả các ví dụ . Điều này cho thấy việc săn bắt hoặc khai thác hươu và bò so với lợn và chó nói chung không phải là một phương pháp phân biệt hữu ích giữa các loại địa điểm, giai đoạn thời gian hoặc phương thức sinh kế. Một trong những lý do có thể giải thích cho điều này đó là cả hươu hoang dã và bò rừng tiếp tục được khai thác tốt trong giai đoạn Holocene . So sánh các thành phần 1 (cầy, khỉ, báo ) và 2 (hươu, bò) cho kết quả không rõ ràng, ngoại trừ một lần nữa làm nổi bật các địa điểm đặc biệt phong phú ở hươu (Dingsishan, Wayogou) hoặc khỉ (lobang Hangus, Khok Phanom Di). Điều này cho thấy rằng sự hiện diện và phong phú tương đối của lợn và chó (C3) thường là yếu tố phân biệt rõ nhất giữa các địa điểm Pleistocene và Holocene giữa - muộn và / hoặc giữa các phương thức sinh kế dựa vào săn bắn hái lượm và nông nghiệp.
Cồn Cổ Ngựa and Mán Bạc
Cồn Cổ Ngựa (CCN) và Mán Bạc (MB) vẫn tách biệt rõ ràng thành các nhóm người săn bắt hái lượm và nông nghiệp / thuần hóa, như giả thuyết. Tỷ lệ lợn cao và sự có mặt của chó (C3) ở MB là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự kết luận này. Đối với CCN, tỷ lệ tương đối cao của báo, cầy và khỉ (C1) đã xếp di chỉ này trong nhóm các địa điểm săn bắn hái lượm.
Điều đáng thú vị , tỷ lệ cao của lớp trâu, bò (đặc biệt là trâu nước, Bubalus cf arnee) ở CCN không tách địa điểm này khỏi các địa điểm săn bắn hái lượm khác. Điều này là do sự có mặt của lớp trâu bò trong các bộ sưu tập thuộc săn bắn hái lượm không phải là hiếm. Ví dụ, Laang Spean, một di chỉ Hòa Bình ở Campuchia, có tỷ lệ cao Bos sp. (number of identified specimens = NISP = số lượng mẫu định loài được, NISP 996; 77,3% động vật có vú). Đối với CCN, điều này tương quan với các bằng chứng môi trường cổ khác cho thấy khu vực xung quanh rất giàu tài nguyên thủy sinh cũng như môi trường rừng. Đối với MB, việc săn hươu và đánh bắt cá là một chiến lược kinh tế và xã hội quan trọng bên cạnh việc duy trì quần thể lợn thuần hóa, nhưng cũng thiếu sự khác biệt về các taxon động vật leo trèo trên cây. Bước chuyển này thiên về sự phụ thuộc nhiều hơn vào việc săn hươu thay vì động vật leo trèo trên cây, điều này tương phản với bước chuyển Holocene sớm thiên về các taxon động vật trên cây được thấy ở các địa điểm ĐNÁ hải đảo và có thể liên quan đến mất môi trường sống rừng trong suốt giai đoạn Holocene muộn.
Các ngoại lệ thú vị
Phân tích này nêu bật các mô hình quan trọng đã diễn ra ở ĐNÁ, và thể hiện sự đa dạng của các chiến lược sinh tồn trong thời gian từ Holocen giữa đến Holocen muộn ở ĐNÁ. Phân tích so sánh cho phép hiểu rõ hơn về đặc điểm của từng di chỉ. Ngoài Cồn Cổ Ngựa và Mán Bạc, một số di chỉ cho thấy kết quả đáng chú ý bao gồm Dingsishan, Khok Phanom Di và Rạch Núi.
Dingsishan thường là ngoại lệ đặc biệt nhất không thuộc nhóm nào ( giai đoạn thời gian, loại di chỉ, phương thức sinh kế) hoặc thành phần được chọn. Điều này có liên quan đến tỷ lệ hươu rất cao trong di chỉ này (28.071 NISP, 92% tổng số NISP trong đó NSIP =number of identified specimens = NISP = số lượng mẫu định loài được). Tuy nhiên, tỷ lệ tương đối thấp của khỉ, cầy và báo (C1) so với các địa điểm cuối Pleistocene khác đến Holocene gưiax là một yếu tố khác góp phần vào sự khác biệt của Dingsishan.
Khok Phanom Di (KPD) từ lâu đã được Higham và Thosarat (2004) cho rằng di chỉ này đại diện cho một cộng đồng chủ yếu tham gia vào lối sống săn bắt hái lượm. Đề xuất này được hỗ trợ bởi phân tích PCA này, vì mặc dù Khok Phanom Di có rất nhiều lợn (587 = NISP), nhưng điều này tương đối thấp so với hươu (810 = NISP). Hơn nữa, sự phong phú của loài khỉ (418 = NISP) phù hợp hơn với các địa điểm Pleistocene và / hoặc săn hái lượm khác so với các địa điểm chủ yếu dựa vào động vật được thuần hóa. Điều đáng chú ý là chó được thuần hóa chỉ xuất hiện ở các lớp trên và số lượng tương đối thấp (13 = NISP).
Hơn nữa, mặc dù bằng chứng về lúa thuần hóa đã có mặt trong phần lớn di chỉ này, các nhà khai quật cho rằng gạo có thể được du nhập trong giai đoạn đầu và cuối nhưng có thể được trồng tại địa phương giữa c. 1750 - 1650 cal. BC (Higham và Thosarat, 2004; Bentley và cộng sự, 2007). Đối với phân tích này, hệ động vật của Khok Phanom Di đã được tổ hợp với nhau , nếu Khok Phanom Di có thể được phân tách khách quan thành các giai đoạn dựa trên niên đại rõ ràng, thì một bước chuyển hệ động vật cho thấy sự xuất hiện của động vật được thuần hóa có thể nhận thấy trong hồ sơ khảo cổ học.
Tương tự, địa điểm Holocene giữa - Rạch Núi xếp gần hơn với nhóm săn bắt hái lượm phần lớn liên quan đến tỷ lệ khỉ khá cao được xác định (255 = NISP) trong tập hợp. Tuy nhiên, cũng rất thú vị khi lưu ý rằng mặc dù có sự hiện diện của chó được thuần hóa và sự phong phú của lợn (222 = NISP), Oxenham et al. (2015) cho thấy rằng phương thức sinh kế chủ yếu là đánh cá và săn bắn. Đối với lợn, không có dấu hiệu nào cho thấy mô hình tiêu diệt có chọn lọc, dẫn đến Oxenham và cộng sự (2015) kết luận rằng không rõ liệu lợn có tiêu biểu cho sự chăn nuôi / thuần hóa.
Hơn nữa, gạo và kê dường như đã được du nhập vào di chỉ này hơn là được trồng tại địa phương (Oxenham et al., 2015; Barron, 2016; Castillo et al., 2017). Do đó, điều thú vị là phương pháp phân tích thành phần chính (PCA) đã đưa ra một kết quả mơ hồ cho Rạch Núi vì các nhà khai quật trước đây đã lập luận cho một phương thức sinh kế hỗn hợp. Mặc dù các động vật có vú cỡ lớn - trung bình được lựa chọn đặc biệt cho phân tích này với mục đích so sánh phương pháp chặt chẽ và rõ ràng , trong tương lai, sẽ rất thú vị khi chuẩn hóa một phương pháp phương pháp để cho phép đưa vào các hệ động vật khác nhau. Ví dụ, việc đưa cá vào loại phân tích này sẽ cho phép nhiều di chỉ trong ĐNÁ hải đảo được so sánh với ĐNÁ lục địa. Không còn nghi ngờ gì nữa, bao gồm nhiều hệ động vật và địa điểm khác nhau sẽ làm phong phú thêm bức tranh và chứng minh sự phức tạp làm nền tảng cho các hoạt động sinh kế ở ĐNÁ.
Như vậy, nghiên cứu trên đã tìm thấy các mô hình sinh kế có thể phân biệt rõ ràng ở các di chỉ ĐNÁ từ cuối Pleistocene đến Holocene muộn. Cụ thể, phương pháp phân tích thành phàn chính PCA đã chỉ ra một sự khác biệt đáng kể giữa các địa điểm săn bắt hái lượm với sự phong phú tương đối cao của khỉ, cầy và báo so với các nền kinh tế thuần hóa chó và lợn. Khi so sánh với dạng bối cảnh khác (giai đoạn thời gian và loại di chỉ), phương thức sinh kế thường tạo ra sự tách biệt rõ ràng nhất giữa các địa điểm và đã thành công trong việc phân biệt giữa các địa điểm dựa trên phương thức săn bắn- hái lượm đối lập với phương thức sinh kế thuần hóa. Nhìn chung, các kết quả này xác nhận PCA là một phương pháp hữu ích trong khảo cổ học Đông Nam Á để truy vấn các quá trình trung gian quy mô lớn của con người.
Nguồn tham khảo:
Rebecca K.Jonesa, Philip J.Pipera, Colin P.Grovesa, TuấnNguyễn Anh, Mai HuongNguyễn Thi, HảoNguyễn Thị,TrinhHiep Hoang, Marc F.Oxenhama. Shifting subsistence patterns from the Terminal Pleistocene to Late Holocene: A regional Southeast Asian analysis. Quaternary International 529 (2019) 47–56. https://doi.org/10.1016/j.quaint.2019.01.006
Người dịch: Minh Tran
Lần đầu tiên xác nhận các địa điểm khảo cổ dưới nước của người thổ dân được tìm thấy ngoài khơi bờ biển Úc
Theo một nghiên cứu được công bố ngày 1 tháng 7 năm 2020 trên tạp chí truy cập mở PLOS ONE của Jonathan Benjamin thuộc Đại học Flinder, Adelaide, Úc và các đồng nghiệp.
Vào cuối kỷ băng hà, mực nước biển thấp hơn nhiều so với ngày nay, và đường bờ biển Úc cách xa bờ 160 km. Khi băng rút xuống và mực nước biển tăng lên mức hiện tại, khoảng hai triệu km2 đất lục địa Úc đã bị nhấn chìm nơi người thổ dân trước đây từng sống. Vì vậy, có khả năng nhiều địa điểm thổ dân cổ hiện đang chìm dưới nước.
Trong nghiên cứu này, Benjamin và các đồng nghiệp đã báo cáo kết quả của một số nghiên cứu thực địa trong giai đoạn 2017-2019, trong đó họ áp dụng các kỹ thuật để định vị và điều tra các địa điểm khảo cổ dưới nước, bao gồm các công nghệ viễn thám trên không và dưới nước cũng như điều tra trực tiếp bởi thợ lặn. Họ đã phát hiện hai địa điểm ngoài khơi bờ biển Murujuga ở tây bắc Úc. Ở kênh Cape Bruguieres, các thợ lặn đã xác định được 269 hiện vật có niên đại ít nhất 7.000 năm tuổi và một hiện vật duy nhất được xác định ở một con suối nước ngọt trong Flying Foam Passage, có niên đại ít nhất 8.500 năm. Đây là những địa điểm khảo cổ dưới nước đầu tiên được xác nhận được tìm thấy trên thềm lục địa của Úc. Hình 1. Bản đồ vị trí của khu vực nghiên cứu và các địa điểm nghiên cứu
1) Đảo Cape Bruguieres ; (2) Đảo Gidley ; (3) Flying Foam Passage; (4) Đảo Dolphin ;
(5) Đảo Angel ;6) Đảo Legendre ; (7) Đảo Malus ; (8) Đảo Goodwyn ; (9) Đảo Enderby.
Hình 2. (bên trên) không ảnh phía tây của Kênh Cape Bruguieres khi thủy triều lên (Ảnh: J. Leach); (bên dưới) thợ lặn ghi chép hiện vật trong Kênh (Ảnh: S. Wright, J. Benjamin và M. Fowler).
Những phát hiện này chứng minh tính hữu dụng của các kỹ thuật thăm dò nêu trên để định vị các địa điểm khảo cổ dưới nước. Các tác giả hy vọng rằng những kỹ thuật trên có thể được mở rộng trong tương lai để phục hồi và điều tra có hệ thống các đồ tạo tác văn hóa của thổ dân cổ. Họ cũng khuyến nghị rằng việc thăm dò trong tương lai sẽ không chỉ dựa vào các quy trình khoa học cẩn thận và an toàn mà còn dựa vào luật pháp để bảo vệ và quản lý di sản văn hóa của thổ dân dọc theo bờ biển Úc.
Benjamin nói, "Quản lý, điều tra và tìm hiểu khảo cổ học thềm lục địa Úc hợp tác với các chủ sở hữu và người giám hộ truyền thống của thổ dân và cư dân eo biển Torres là một trong những biên giới cuối cùng trong khảo cổ học Úc." Ông nói thêm, "Kết quả của chúng tôi đại diện cho bước đầu tiên trong hành trình khám phá tiềm năng của khảo cổ học trên các thềm lục địa có thể lấp đầy một khoảng trống lớn trong lịch sử loài người của châu lục này."
Nguồn tham khảo:
1. https://www.sciencedaily.com/releases/2020/07/200701151722.htm
2. Jonathan Benjamin, Michael O’Leary, Jo McDonald, Chelsea Wiseman, John McCarthy, Emma Beckett, Patrick Morrison, Francis Stankiewicz, Jerem Leach, Jorg Hacker, Paul Baggaley, Katarina Jerbić, Madeline Fowler, John Fairweather, Peter Jeffries, Sean Ulm, Geoff Bailey. Aboriginal artefacts on the continental shelf reveal ancient drowned cultural landscapes in northwest Australia. PLOS ONE, 2020; 15 (7): e0233912 DOI: 10.1371/journal.pone.0233912
Người dịch:Minh Trần
Theo một nghiên cứu được công bố ngày 1 tháng 7 năm 2020 trên tạp chí truy cập mở PLOS ONE của Jonathan Benjamin thuộc Đại học Flinder, Adelaide, Úc và các đồng nghiệp.
Vào cuối kỷ băng hà, mực nước biển thấp hơn nhiều so với ngày nay, và đường bờ biển Úc cách xa bờ 160 km. Khi băng rút xuống và mực nước biển tăng lên mức hiện tại, khoảng hai triệu km2 đất lục địa Úc đã bị nhấn chìm nơi người thổ dân trước đây từng sống. Vì vậy, có khả năng nhiều địa điểm thổ dân cổ hiện đang chìm dưới nước.
Trong nghiên cứu này, Benjamin và các đồng nghiệp đã báo cáo kết quả của một số nghiên cứu thực địa trong giai đoạn 2017-2019, trong đó họ áp dụng các kỹ thuật để định vị và điều tra các địa điểm khảo cổ dưới nước, bao gồm các công nghệ viễn thám trên không và dưới nước cũng như điều tra trực tiếp bởi thợ lặn. Họ đã phát hiện hai địa điểm ngoài khơi bờ biển Murujuga ở tây bắc Úc. Ở kênh Cape Bruguieres, các thợ lặn đã xác định được 269 hiện vật có niên đại ít nhất 7.000 năm tuổi và một hiện vật duy nhất được xác định ở một con suối nước ngọt trong Flying Foam Passage, có niên đại ít nhất 8.500 năm. Đây là những địa điểm khảo cổ dưới nước đầu tiên được xác nhận được tìm thấy trên thềm lục địa của Úc. Hình 1. Bản đồ vị trí của khu vực nghiên cứu và các địa điểm nghiên cứu
1) Đảo Cape Bruguieres ; (2) Đảo Gidley ; (3) Flying Foam Passage; (4) Đảo Dolphin ;
(5) Đảo Angel ;6) Đảo Legendre ; (7) Đảo Malus ; (8) Đảo Goodwyn ; (9) Đảo Enderby.
Hình 2. (bên trên) không ảnh phía tây của Kênh Cape Bruguieres khi thủy triều lên (Ảnh: J. Leach); (bên dưới) thợ lặn ghi chép hiện vật trong Kênh (Ảnh: S. Wright, J. Benjamin và M. Fowler).
Những phát hiện này chứng minh tính hữu dụng của các kỹ thuật thăm dò nêu trên để định vị các địa điểm khảo cổ dưới nước. Các tác giả hy vọng rằng những kỹ thuật trên có thể được mở rộng trong tương lai để phục hồi và điều tra có hệ thống các đồ tạo tác văn hóa của thổ dân cổ. Họ cũng khuyến nghị rằng việc thăm dò trong tương lai sẽ không chỉ dựa vào các quy trình khoa học cẩn thận và an toàn mà còn dựa vào luật pháp để bảo vệ và quản lý di sản văn hóa của thổ dân dọc theo bờ biển Úc.
Benjamin nói, "Quản lý, điều tra và tìm hiểu khảo cổ học thềm lục địa Úc hợp tác với các chủ sở hữu và người giám hộ truyền thống của thổ dân và cư dân eo biển Torres là một trong những biên giới cuối cùng trong khảo cổ học Úc." Ông nói thêm, "Kết quả của chúng tôi đại diện cho bước đầu tiên trong hành trình khám phá tiềm năng của khảo cổ học trên các thềm lục địa có thể lấp đầy một khoảng trống lớn trong lịch sử loài người của châu lục này."
Nguồn tham khảo:
1. https://www.sciencedaily.com/releases/2020/07/200701151722.htm
2. Jonathan Benjamin, Michael O’Leary, Jo McDonald, Chelsea Wiseman, John McCarthy, Emma Beckett, Patrick Morrison, Francis Stankiewicz, Jerem Leach, Jorg Hacker, Paul Baggaley, Katarina Jerbić, Madeline Fowler, John Fairweather, Peter Jeffries, Sean Ulm, Geoff Bailey. Aboriginal artefacts on the continental shelf reveal ancient drowned cultural landscapes in northwest Australia. PLOS ONE, 2020; 15 (7): e0233912 DOI: 10.1371/journal.pone.0233912
Người dịch:Minh Trần
Lần đầu tiên, các nhà khảo cổ học đã thành công trong việc lập bản đồ thành phố La Mã hoàn chỉnh, Falerii Novi ở Ý, sử dụng radar xuyên mặt đất (GPR) , cho phép họ làm lộ những chi tiết đáng kinh ngạc trong khi nó vẫn nằm sâu dưới lòng đất. Công nghệ này có thể cách mạng hóa sự hiểu biết của chúng ta về các khu định cư cổ đại.
Nhóm nghiên cứu, từ Đại học Cambridge và Đại học Ghent, đã phát hiện ra một phức hệ
hồ bơi, chợ, đền thờ, một tượng đài công cộng không giống như bất cứ điều gì nhìn thấy trước đó, và thậm chí cả mạng lưới đường ống nước của thành phố. Bằng cách quan sát các độ sâu khác nhau, các nhà khảo cổ học giờ đây có thể nghiên cứu cách thị trấn phát triển trong hàng trăm năm qua.
Nghiên cứu trên, được công bố trên Antiquity, khai thác những tiến bộ gần đây trong công nghệ GPR, cho phép khám phá các khu vực lớn hơn với độ phân giải cao hơn chưa từng có trước đây. Điều này có ý nghĩa lớn đối với nghiên cứu về các thành phố cổ đại bởi vì nhiều địa điểm không thể khai quật được vì chúng quá lớn hoặc do chúng bị mắc kẹt dưới các cấu trúc hiện đại.
GPR works like regular radar, bouncing radio waves off objects and using the 'echo' to build up a picture at different depths.* By towing their GPR instruments behind a quad bike, the archaeologists surveyed all 30.5 hectares within the city's walls -- Falerii Novi was just under half the size of Pompeii -- taking a reading every 12.5cm.
GPR hoạt động như radar thông thường, đẩy sóng vô tuyến ra khỏi các vật thể và sử dụng 'tiếng vang' để tạo ra một đồ họa ở các độ sâu khác nhau. . * Bằng cách kéo các thiết bị GPR của họ ra sau một chiếc xe đạp bốn bánh, các nhà khảo cổ đã khảo sát tất cả 30,5 ha trong các bức tường của thành phố - Falerii Novi chỉ bằng một nửa kích thước của Pompeii - mỗi bước đọc: 12,5cm.
a) Hệ thống GPR được sử dụng ở Falerii Novi
b) ăng ten gắn thành hai hàng, với khoảng cách giữa các cấu hình ở mức 0,125m (đường màu đỏ). Hai đường chuyền được thực hiện, theo các đường lý thuyết cách nhau 0,0625m (đường màu xám). Đường chuyền thứ hai cho phép giảm thêm khoảng cách cắt ngang xuống 0,0625m (đường màu xanh lá cây).
M = trung điểm lý thuyết của mảng nơi hệ thống vệ tinh toàn cầu hoặc lăng kính tổng đài được gắn (ảnh chụp bởi L. Verdonck).
Nằm cách Rome 50 km về phía bắc và lần đầu tiên bị chiếm đóng vào năm 241 trước Công nguyên, Falerii Novi tồn tại vào thời trung cổ (cho đến khoảng năm 700 sau Công nguyên). Dữ liệu GPR của nhóm nghiên cứu hiện có thể bắt đầu tiết lộ một số thay đổi vật lý mà thành phố đã trải qua trong thời gian này. Họ đã tìm thấy bằng chứng về việc cướp đá.
Nghiên cứu này cũng thách thức những giả định nhất định về thiết kế đô thị La Mã, cho thấy bố cục của Falerii Novi kém tiêu chuẩn hơn so với nhiều thị trấn được nghiên cứu kỹ lưỡng khác, như Pompeii. Ngôi đền, khu chợ và khu phức hợp bể bơi được nhóm phát hiện cũng được xây dựng theo kiến trúc phức tạp hơn so với dự kiến ở một thành phố nhỏ.
Một quận phía nam, ngay bên trong các bức tường của thành phố này, GPR đã tiết lộ một tòa nhà hình chữ nhật lớn kết nối với một loạt các ống dẫn nước dẫn đến cống thoát nước. Đáng chú ý, những đường ống này có thể được chạy qua phần lớn thành phố Falerii Novi, chạy bên dưới các tòa nhà, và không chỉ dọc theo các đường phố, như thường thấy. Nhóm nghiên cứu tin rằng cấu trúc này là một bể bơi ngoài trời hoặc hồ bơi, tạo thành một phần của khu phức hợp bể tắm công cộng.
GPR time -slice ( vùng nghiên cứu), ở độ sâu ước tính 0.75 -0.80 m ( ảnh chụp bởi L.Verdonck)
Thậm chí còn bất ngờ hơn, gần cổng phía bắc của thành phố, nhóm nghiên cứu đã xác định được một cặp cấu trúc lớn đối diện nhau (một lối đi có mái che với hàng cột trung tâm). Họ không biết rõ về cầu trúc này nhưng tin rằng đây là một phần của một di tích công cộng ấn tượng và góp phần tạo nên một cảnh quan linh thiêng hấp dẫn ở rìa thành phố.
Giáo sư Martin Millett, Khoa cổ điển của Đại học Cambridge, cho biết:
"Mức độ chi tiết đáng kinh ngạc mà chúng tôi đã đạt được tại Falerii Novi, và các tính năng đáng ngạc nhiên mà GPR đã tiết lộ, cho thấy loại khảo sát này có thể thay đổi cách các nhà khảo cổ điều tra các khu đô thị, như một tổng thể."
Millett và các đồng nghiệp của ông đã sử dụng GPR để khảo sát Interamna Lirenas ở Ý và ở quy mô nhỏ hơn, Alborough ở Bắc Yorkshire, nhưng giờ họ hy vọng sẽ thấy nó được triển khai trên các di chỉ lớn hơn nhiều.
"Thật thú vị và bây giờ thực tế khi tưởng tượng GPR đang được sử dụng để khảo sát một thành phố lớn như Miletus ở Thổ Nhĩ Kỳ, Nicopolis ở Hy Lạp hay Cyrene ở Libya," Millett nói. "Chúng tôi vẫn còn rất nhiều điều để tìm hiểu về cuộc sống đô thị La Mã và công nghệ này sẽ mở ra những cơ hội chưa từng có trong nhiều thập kỷ tới."
Tuy nhiên, dữ liệu dồi dào được tạo ra bởi thiết lập bản đồ độ phân giải cao như vậy, đặt ra những thách thức đáng kể. Các phương pháp phân tích dữ liệu thủ công truyền thống quá tốn thời gian, cần khoảng 20 giờ để ghi lại đầy đủ một ha. Sẽ mất một thời gian trước khi các nhà nghiên cứu hoàn thành việc kiểm tra Falerii Novi nhưng để tăng tốc quá trình này, họ đang phát triển các kỹ thuật tự động mới.
Falerii Novi được ghi chép khá tốt trong tài liệu lịch sử , không bị bao phủ bởi các tòa nhà hiện đại và là chủ đề của nhiều thập kỷ phân tích sử dụng các kỹ thuật không xâm lấn khác, như từ kế, nhưng GPR hiện đã tiết lộ một bức tranh hoàn chỉnh hơn nhiều.
Thông tin chi tiết
* GPR (radar xuyên mặt đất) rất hiệu quả vì nó dựa vào sự phản xạ của sóng vô tuyến khỏi các vật trong lòng đất. Các vật liệu khác nhau phản xạ sóng khác nhau, có thể được sử dụng để thiết lập bản đồ các cấu trúc dưới lòng đất. Mặc dù nguyên tắc này đã được sử dụng từ những năm 1910, nhưng trong vài năm qua, những tiến bộ công nghệ đã giúp thiết bị có độ phân giải nhanh hơn và cao hơn.
Nguồn tham khảo:
https://www.sciencedaily.com/releases/2020/06/200608192523.htm
https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/groundpenetrating-radar-survey-at-falerii-novi-a-new-approach-to-the-study-of-roman-cities/BE7B8E3AE55DB6E03225B01C54CDD09B
Người dịch:
Minh Trần
Nhóm nghiên cứu, từ Đại học Cambridge và Đại học Ghent, đã phát hiện ra một phức hệ
hồ bơi, chợ, đền thờ, một tượng đài công cộng không giống như bất cứ điều gì nhìn thấy trước đó, và thậm chí cả mạng lưới đường ống nước của thành phố. Bằng cách quan sát các độ sâu khác nhau, các nhà khảo cổ học giờ đây có thể nghiên cứu cách thị trấn phát triển trong hàng trăm năm qua.
Nghiên cứu trên, được công bố trên Antiquity, khai thác những tiến bộ gần đây trong công nghệ GPR, cho phép khám phá các khu vực lớn hơn với độ phân giải cao hơn chưa từng có trước đây. Điều này có ý nghĩa lớn đối với nghiên cứu về các thành phố cổ đại bởi vì nhiều địa điểm không thể khai quật được vì chúng quá lớn hoặc do chúng bị mắc kẹt dưới các cấu trúc hiện đại.
GPR works like regular radar, bouncing radio waves off objects and using the 'echo' to build up a picture at different depths.* By towing their GPR instruments behind a quad bike, the archaeologists surveyed all 30.5 hectares within the city's walls -- Falerii Novi was just under half the size of Pompeii -- taking a reading every 12.5cm.
GPR hoạt động như radar thông thường, đẩy sóng vô tuyến ra khỏi các vật thể và sử dụng 'tiếng vang' để tạo ra một đồ họa ở các độ sâu khác nhau. . * Bằng cách kéo các thiết bị GPR của họ ra sau một chiếc xe đạp bốn bánh, các nhà khảo cổ đã khảo sát tất cả 30,5 ha trong các bức tường của thành phố - Falerii Novi chỉ bằng một nửa kích thước của Pompeii - mỗi bước đọc: 12,5cm.
a) Hệ thống GPR được sử dụng ở Falerii Novi
b) ăng ten gắn thành hai hàng, với khoảng cách giữa các cấu hình ở mức 0,125m (đường màu đỏ). Hai đường chuyền được thực hiện, theo các đường lý thuyết cách nhau 0,0625m (đường màu xám). Đường chuyền thứ hai cho phép giảm thêm khoảng cách cắt ngang xuống 0,0625m (đường màu xanh lá cây).
M = trung điểm lý thuyết của mảng nơi hệ thống vệ tinh toàn cầu hoặc lăng kính tổng đài được gắn (ảnh chụp bởi L. Verdonck).
Nằm cách Rome 50 km về phía bắc và lần đầu tiên bị chiếm đóng vào năm 241 trước Công nguyên, Falerii Novi tồn tại vào thời trung cổ (cho đến khoảng năm 700 sau Công nguyên). Dữ liệu GPR của nhóm nghiên cứu hiện có thể bắt đầu tiết lộ một số thay đổi vật lý mà thành phố đã trải qua trong thời gian này. Họ đã tìm thấy bằng chứng về việc cướp đá.
Nghiên cứu này cũng thách thức những giả định nhất định về thiết kế đô thị La Mã, cho thấy bố cục của Falerii Novi kém tiêu chuẩn hơn so với nhiều thị trấn được nghiên cứu kỹ lưỡng khác, như Pompeii. Ngôi đền, khu chợ và khu phức hợp bể bơi được nhóm phát hiện cũng được xây dựng theo kiến trúc phức tạp hơn so với dự kiến ở một thành phố nhỏ.
Một quận phía nam, ngay bên trong các bức tường của thành phố này, GPR đã tiết lộ một tòa nhà hình chữ nhật lớn kết nối với một loạt các ống dẫn nước dẫn đến cống thoát nước. Đáng chú ý, những đường ống này có thể được chạy qua phần lớn thành phố Falerii Novi, chạy bên dưới các tòa nhà, và không chỉ dọc theo các đường phố, như thường thấy. Nhóm nghiên cứu tin rằng cấu trúc này là một bể bơi ngoài trời hoặc hồ bơi, tạo thành một phần của khu phức hợp bể tắm công cộng.
GPR time -slice ( vùng nghiên cứu), ở độ sâu ước tính 0.75 -0.80 m ( ảnh chụp bởi L.Verdonck)
Thậm chí còn bất ngờ hơn, gần cổng phía bắc của thành phố, nhóm nghiên cứu đã xác định được một cặp cấu trúc lớn đối diện nhau (một lối đi có mái che với hàng cột trung tâm). Họ không biết rõ về cầu trúc này nhưng tin rằng đây là một phần của một di tích công cộng ấn tượng và góp phần tạo nên một cảnh quan linh thiêng hấp dẫn ở rìa thành phố.
Giáo sư Martin Millett, Khoa cổ điển của Đại học Cambridge, cho biết:
"Mức độ chi tiết đáng kinh ngạc mà chúng tôi đã đạt được tại Falerii Novi, và các tính năng đáng ngạc nhiên mà GPR đã tiết lộ, cho thấy loại khảo sát này có thể thay đổi cách các nhà khảo cổ điều tra các khu đô thị, như một tổng thể."
Millett và các đồng nghiệp của ông đã sử dụng GPR để khảo sát Interamna Lirenas ở Ý và ở quy mô nhỏ hơn, Alborough ở Bắc Yorkshire, nhưng giờ họ hy vọng sẽ thấy nó được triển khai trên các di chỉ lớn hơn nhiều.
"Thật thú vị và bây giờ thực tế khi tưởng tượng GPR đang được sử dụng để khảo sát một thành phố lớn như Miletus ở Thổ Nhĩ Kỳ, Nicopolis ở Hy Lạp hay Cyrene ở Libya," Millett nói. "Chúng tôi vẫn còn rất nhiều điều để tìm hiểu về cuộc sống đô thị La Mã và công nghệ này sẽ mở ra những cơ hội chưa từng có trong nhiều thập kỷ tới."
Tuy nhiên, dữ liệu dồi dào được tạo ra bởi thiết lập bản đồ độ phân giải cao như vậy, đặt ra những thách thức đáng kể. Các phương pháp phân tích dữ liệu thủ công truyền thống quá tốn thời gian, cần khoảng 20 giờ để ghi lại đầy đủ một ha. Sẽ mất một thời gian trước khi các nhà nghiên cứu hoàn thành việc kiểm tra Falerii Novi nhưng để tăng tốc quá trình này, họ đang phát triển các kỹ thuật tự động mới.
Falerii Novi được ghi chép khá tốt trong tài liệu lịch sử , không bị bao phủ bởi các tòa nhà hiện đại và là chủ đề của nhiều thập kỷ phân tích sử dụng các kỹ thuật không xâm lấn khác, như từ kế, nhưng GPR hiện đã tiết lộ một bức tranh hoàn chỉnh hơn nhiều.
Thông tin chi tiết
* GPR (radar xuyên mặt đất) rất hiệu quả vì nó dựa vào sự phản xạ của sóng vô tuyến khỏi các vật trong lòng đất. Các vật liệu khác nhau phản xạ sóng khác nhau, có thể được sử dụng để thiết lập bản đồ các cấu trúc dưới lòng đất. Mặc dù nguyên tắc này đã được sử dụng từ những năm 1910, nhưng trong vài năm qua, những tiến bộ công nghệ đã giúp thiết bị có độ phân giải nhanh hơn và cao hơn.
Nguồn tham khảo:
https://www.sciencedaily.com/releases/2020/06/200608192523.htm
https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/groundpenetrating-radar-survey-at-falerii-novi-a-new-approach-to-the-study-of-roman-cities/BE7B8E3AE55DB6E03225B01C54CDD09B
Người dịch:
Minh Trần
Các hiện vật lạ 10,000 tuổi ở địa điểm Jordan liên quan đến thờ cúng, được tìm thấy cùng các di cốt.
Các hiện vật đá lửa Enigmatic được khai quật tại một ngôi làng thời đồ Đá mới ở phía bắc Jordan không phải là công cụ, các nhà khảo cổ học đã kết luận. Các hiện vật có hình cây vĩ cầm có niên đại cách đây gần 10.000 năm thực sự có thể là những bức tượng nhỏ có hình dạng thô sơ đại diện cho những người thân đã khuất, và có khả năng là một phần của một sự thờ cúng tổ tiên phức tạp liên quan đến nghi thức chôn cất.
Những bức tượng độc đáo này là một phần của cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm rộng lớn hơn ở khu vực Cận Đông đi kèm với bình minh của nông nghiệp, nơi đặt con người, thay vì động vật, vào trung tâm của hình chạm, đồ khắc tiền sử, đó là kết luận của nhóm các nhà khảo cổ học Tây Ban Nha đã công bố trên tạp chí Antiquity.
Ảnh chụp bởi Juan José Ibáñez et al / The Kharaysin archaeological crew / Antiquity
Các bức tượng nhỏ này hiện được báo cáo từ phía Jordan trong hồ sơ khảo cổ học về thời kỳ sử dụng đá lửa làm vật liệu. Nghệ thuật Đá cũ và Đá mới trước đó bao gồm một số đại diện con người, thường được chạm khắc bằng ngà voi hoặc đá vôi. Chỉ một ví dụ là những bức tượng thần vệ nữ châu Âu có từ hơn 30.000 năm trước. Nhưng hình ảnh nhân học này có kích thước và số lượng mờ nhạt so với các đại diện của động vật, đặc biệt là những cảnh động vật ngoạn mục tô điểm cho các hang động của tổ tiên săn bắn - hái lượm ở châu Âu.
Tuy nhiên, ở vùng Cận Đông, nếu có nghệ thuật hang động cổ, nó vẫn chưa được bảo tồn và nghệ thuật trên đá được tìm thấy trên khắp khu vực, bao gồm cả câu đố của người Negev, cho đến nay vẫn chưa thể định niên đại.
Điều hoàn toàn khác biệt.
Hơn 100 hiện vật đá lửa khía kép đã xuất lộ từ năm 2016 giữa các tàn tích nhà ở được tại di chỉ Kharaysin, 40 km về phía bắc của thủ đô Jordan, Amman. Khu vực cư trú cổ có diện tích 25 ha và bị chiếm đóng vào những thời điểm khác nhau từ cuối thiên niên kỷ 9 trước Công nguyên đến đầu thiên niên kỷ 7 trước Công nguyên.
Các nhà khảo cổ tìm thấy những hiện vật đá lửa khó hiểu này, có kích thước từ 1 -5 cm (0,4 đến 2 inch) trong các lớp có niên đại C từ 9.500 - 10.000 năm trước, theo Juan Jose Ibanez, nhà khảo cổ học thuộc Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Tây Ban Nha, người đứng đầu nghiên cứu cho biết.
“Các công cụ đá lửa từ thời kỳ này được chuẩn hóa rất nhiều: liềm, dao v.v., nhưng đây là một thứ hoàn toàn mới”.
Các rãnh đôi khi được chạm khắc vào các công cụ đá lửa để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cán, nghĩa là sử dụng dây thừng để gắn đá vào tay cầm để tạo ra các công cụ mạnh hơn, đòn bẩy như rìu hoặc giáo, ông lưu ý. Nhưng đây không phải là trường hợp ở đây vì phần cuối của hiện vật phẳng và tầy, thiếu độ sắc nét và nhọn cần thiết để làm cho bất kỳ vật nào trong số này trở nên hữu ích.
Sau khi phát hiện các hiên vật này, một trong những người khai quật cho rằng những hiện vật đá lửa này có thể là mô tả hình người. Với một chút trí tưởng tượng, các vết khắc được khắc vào các cạnh của hiện vật dường như tạo ra hình dạng cách điệu của một hình người với đầu, vai và thân dưới.
Theo ông Ibanez: “Ban đầu chúng tôi rất hoài nghi nhưng bây giờ phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng đây là kết luận hợp lý nhất, .
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu khoảng một nửa số đá lửa bí ẩn này dưới kính hiển vi, tìm kiếm dấu vết hao mòn và vết xước trên đá - và hầu như không tìm thấy. Việc thiếu mài mòn cho thấy các hiện vật này không có bất kỳ ứng dụng thực tế nào trong cuộc sống hàng ngày, nghiên cứu được công bố trên Antiquity .
Các nhà khảo cổ cũng so sánh các hiện vật này với các bức tượng Đá mới muộn hơn từ một địa điểm khác ở Jordan mô tả rõ hơn hình dạng con người, và thấy chúng chia sẻ tỷ lệ tương tự trong việc thể hiện các bộ phận cơ thể khác nhau, tiếp tục củng cố lý thuyết bức tượng.
Đối với một chuyên gia về đá lửa, chỉ mất khoảng nửa phút để tạo ra hiện vật như vậy, nhưng điều đó không làm mất đi ý nghĩa quan trọng của phát hiện này, Avi Gopher, nhà khảo cổ học Đại học Tel Aviv nói.
Các biểu diễn hình người trong đá lửa là một hiện tượng thực sự độc đáo chưa được biết đến từ bất kỳ địa điểm nào trong giai đoạn này, theo Gopher, một chuyên gia về thời kỳ đồ Đá mới không tham gia vào nghiên cứu. “Đây là một sự mô phỏng đơn giản của một hình người, nhưng nó cũng rất rõ ràng - mọi người sẽ đọc nó như thế.”
Các hiện vật Kharaysin cũng có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau: một nhóm trong đó phần thân dưới của bức tượng giả định có cùng chiều rộng với phần thân trên, và nhóm thứ hai trong đó hông rộng hơn vai. Đây có thể là một cách phân biệt giữa miêu tả nam và nữ, mặc dù giả thuyết này vẫn cần nghiên cứu thêm, Ibanez nói.
Về những chức năng mà những bức tượng này có thể có, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng hầu hết các hiện vật được tìm thấy tại một nghĩa trang nhỏ, cho thấy chúng là một phần của táng tục được tổ chức ở đó.
10 ngôi mộ mà các nhà khảo cổ học đào được ở khu vực này nhắc nhở chúng ta rằng, ở thời đồ Đá mới, mọi người khó có thể mong đợi được yên nghỉ khi họ đã chết. Nghiên cứu về bộ xương cho thấy nhiều ngôi mộ đã được mở lại sau khi chôn cất ban đầu để loại bỏ một số xương, đặc biệt là hộp sọ và xương hàm dưới.
Trong một số trường hợp, các nhà khảo cổ tìm thấy xương khớp một phần trong các mộ bị xáo trộn, một số mộ cải táng.
Các táng thức phổ biến trên khắp vùng Cận Đông trong thời kỳ đồ Đá mới, thời điểm mà người dân ở khu vực này lần đầu tiên bắt đầu thuần hóa cây trồng và động vật.
Tại Kharaysin, Ibanez và nhóm của ông đã tìm thấy 3 hộp sọ được chèn vào bức tường của một trong những ngôi nhà trong ngôi làng cổ.
Hầu hết các học giả ngày nay tin rằng những hành vi này liên quan đến tín ngưỡng tổ tiên phát sinh song song với thuở bình minh của nông nghiệp. Khi con người trên khắp vùng Cận Đông ngày càng từ bỏ lối sống hái lượm và định cư vào các cộng đồng nông nghiệp lâu dài, một lượng lớn tài nguyên và thời gian đã được đầu tư vào việc chăm sóc cây trồng, xây dựng nhà cửa và chăn nuôi.
Điều này có nghĩa là các cộng đồng lớn hơn được hình thành và cần thiết để tạo ra ý thức về bản sắc được chia sẻ, đồng thời có thể đóng góp yêu sách của họ đối với vùng đất mà họ đã bỏ hoang rất nhiều. Và cách tốt nhất để thực hiện cả hai mục tiêu đó là xác định tổ tiên chung của họ và liên quan quyền sở hữu ban đầu của họ trên khu vực, Ibanez lưu ý.
“Đây là ngôi nhà của tôi bởi vì cha tôi đã xây dựng nó - vì vậy tôi giữ cha tôi ở bên trong bức tường để chứng minh điều đó”, là cách nhà khảo cổ học tổng kết.
Tín ngưỡng tổ tiên thời đồ Đá mới và sự khởi đầu của nông nghiệp cũng có khả năng kết nối với một cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm, trong đó các bức tượng Kharaysin có thể là một ví dụ điển hình. Mặc dù thời kỳ đồ Đá mới và sự khởi đầu của thời kỳ đồ Đá mới, động vật là trọng tâm chính của các nghệ sĩ tiền sử, tuy nhiên điều này bắt đầu thay đổi khoảng 11.000 năm trước, khi các mô tả về con người bắt đầu trở nên thường xuyên và chiếm ưu thế hơn.
Mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn tại sao sự thay đổi này xảy ra, nhiều học giả cho rằng nó có thể liên quan đến tầm quan trọng ngày càng tăng của tín ngưỡng tổ tiên - và nhu cầu khắc họa và tôn kính người quá cố - cũng như sức mạnh đối với thiên nhiên mà nhân loại có được khi thuần hóa cây trồng và động vật.
Các hiện vật từ Kharaysin sẽ là ví dụ đầu tiên được biết đến về các bức tượng nhỏ được làm từ đá lửa ở thời kỳ đồ Đá mới ở vùng Cận Đông, nhưng tính trung tâm của hình dạng con người là rõ ràng trên khắp khu vực dưới các hình thức khác nhau: từ các đặc điểm hình học của các khối đá nguyên khối ở Gotbekli Tepe, các hộp sọ gắn trên tường nói trên, đến các bức tượng người làm bằng đất sét và thạch cao.
Những biến thể về một chủ đề cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cách các nền văn hóa thời đại đồ Đá mới tiếp xúc với nhau trên những khoảng cách rộng lớn, Ibanez lưu ý. Sự liên kết các cộng đồng nông nghiệp sớm đã hình thành một mạng lưới toàn khu vực, trong đó không chỉ các hiện vật được giao thương qua hàng trăm km mà cả những ý tưởng mới có thể được chia sẻ và thích nghi với từng thực tế địa phương, Ibanez nói.
“Chúng tôi nghĩ rằng sự đổi mới là thứ xuất hiện ở một nơi và sau đó lan rộng, nhưng bây giờ chúng tôi biết rằng các cộng đồng vùng Cận Đông đang phát minh ra những thứ mới và sau đó lan truyền chúng vào trong một mạng lưới, theo ông Ibanez. Khu vực này là nơi phát tán trong đó mọi thứ đang diễn ra theo cùng một hướng nhưng với đặc thù địa phương. Họ đã phát minh ra nông nghiệp, chăn nuôi và sống định cư. Tất cả họ đều đang làm những điều tương tự sẽ thay đổi loài người, nhưng họ đang làm những điều này theo cách riêng của họ
Nguồn tham khảo: https://www.haaretz.com/archaeology/.premium-10-000-year-old-artifacts-from-jordan-tied-to-cult-that-dug-up-the-dead-1.8973438
Người dịch: Minh Trần
Những bức tượng độc đáo này là một phần của cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm rộng lớn hơn ở khu vực Cận Đông đi kèm với bình minh của nông nghiệp, nơi đặt con người, thay vì động vật, vào trung tâm của hình chạm, đồ khắc tiền sử, đó là kết luận của nhóm các nhà khảo cổ học Tây Ban Nha đã công bố trên tạp chí Antiquity.
Ảnh chụp bởi Juan José Ibáñez et al / The Kharaysin archaeological crew / Antiquity
Các bức tượng nhỏ này hiện được báo cáo từ phía Jordan trong hồ sơ khảo cổ học về thời kỳ sử dụng đá lửa làm vật liệu. Nghệ thuật Đá cũ và Đá mới trước đó bao gồm một số đại diện con người, thường được chạm khắc bằng ngà voi hoặc đá vôi. Chỉ một ví dụ là những bức tượng thần vệ nữ châu Âu có từ hơn 30.000 năm trước. Nhưng hình ảnh nhân học này có kích thước và số lượng mờ nhạt so với các đại diện của động vật, đặc biệt là những cảnh động vật ngoạn mục tô điểm cho các hang động của tổ tiên săn bắn - hái lượm ở châu Âu.
Tuy nhiên, ở vùng Cận Đông, nếu có nghệ thuật hang động cổ, nó vẫn chưa được bảo tồn và nghệ thuật trên đá được tìm thấy trên khắp khu vực, bao gồm cả câu đố của người Negev, cho đến nay vẫn chưa thể định niên đại.
Điều hoàn toàn khác biệt.
Hơn 100 hiện vật đá lửa khía kép đã xuất lộ từ năm 2016 giữa các tàn tích nhà ở được tại di chỉ Kharaysin, 40 km về phía bắc của thủ đô Jordan, Amman. Khu vực cư trú cổ có diện tích 25 ha và bị chiếm đóng vào những thời điểm khác nhau từ cuối thiên niên kỷ 9 trước Công nguyên đến đầu thiên niên kỷ 7 trước Công nguyên.
Các nhà khảo cổ tìm thấy những hiện vật đá lửa khó hiểu này, có kích thước từ 1 -5 cm (0,4 đến 2 inch) trong các lớp có niên đại C từ 9.500 - 10.000 năm trước, theo Juan Jose Ibanez, nhà khảo cổ học thuộc Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Tây Ban Nha, người đứng đầu nghiên cứu cho biết.
“Các công cụ đá lửa từ thời kỳ này được chuẩn hóa rất nhiều: liềm, dao v.v., nhưng đây là một thứ hoàn toàn mới”.
Các rãnh đôi khi được chạm khắc vào các công cụ đá lửa để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cán, nghĩa là sử dụng dây thừng để gắn đá vào tay cầm để tạo ra các công cụ mạnh hơn, đòn bẩy như rìu hoặc giáo, ông lưu ý. Nhưng đây không phải là trường hợp ở đây vì phần cuối của hiện vật phẳng và tầy, thiếu độ sắc nét và nhọn cần thiết để làm cho bất kỳ vật nào trong số này trở nên hữu ích.
Sau khi phát hiện các hiên vật này, một trong những người khai quật cho rằng những hiện vật đá lửa này có thể là mô tả hình người. Với một chút trí tưởng tượng, các vết khắc được khắc vào các cạnh của hiện vật dường như tạo ra hình dạng cách điệu của một hình người với đầu, vai và thân dưới.
Theo ông Ibanez: “Ban đầu chúng tôi rất hoài nghi nhưng bây giờ phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng đây là kết luận hợp lý nhất, .
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu khoảng một nửa số đá lửa bí ẩn này dưới kính hiển vi, tìm kiếm dấu vết hao mòn và vết xước trên đá - và hầu như không tìm thấy. Việc thiếu mài mòn cho thấy các hiện vật này không có bất kỳ ứng dụng thực tế nào trong cuộc sống hàng ngày, nghiên cứu được công bố trên Antiquity .
Các nhà khảo cổ cũng so sánh các hiện vật này với các bức tượng Đá mới muộn hơn từ một địa điểm khác ở Jordan mô tả rõ hơn hình dạng con người, và thấy chúng chia sẻ tỷ lệ tương tự trong việc thể hiện các bộ phận cơ thể khác nhau, tiếp tục củng cố lý thuyết bức tượng.
Đối với một chuyên gia về đá lửa, chỉ mất khoảng nửa phút để tạo ra hiện vật như vậy, nhưng điều đó không làm mất đi ý nghĩa quan trọng của phát hiện này, Avi Gopher, nhà khảo cổ học Đại học Tel Aviv nói.
Các biểu diễn hình người trong đá lửa là một hiện tượng thực sự độc đáo chưa được biết đến từ bất kỳ địa điểm nào trong giai đoạn này, theo Gopher, một chuyên gia về thời kỳ đồ Đá mới không tham gia vào nghiên cứu. “Đây là một sự mô phỏng đơn giản của một hình người, nhưng nó cũng rất rõ ràng - mọi người sẽ đọc nó như thế.”
Các hiện vật Kharaysin cũng có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau: một nhóm trong đó phần thân dưới của bức tượng giả định có cùng chiều rộng với phần thân trên, và nhóm thứ hai trong đó hông rộng hơn vai. Đây có thể là một cách phân biệt giữa miêu tả nam và nữ, mặc dù giả thuyết này vẫn cần nghiên cứu thêm, Ibanez nói.
Về những chức năng mà những bức tượng này có thể có, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng hầu hết các hiện vật được tìm thấy tại một nghĩa trang nhỏ, cho thấy chúng là một phần của táng tục được tổ chức ở đó.
10 ngôi mộ mà các nhà khảo cổ học đào được ở khu vực này nhắc nhở chúng ta rằng, ở thời đồ Đá mới, mọi người khó có thể mong đợi được yên nghỉ khi họ đã chết. Nghiên cứu về bộ xương cho thấy nhiều ngôi mộ đã được mở lại sau khi chôn cất ban đầu để loại bỏ một số xương, đặc biệt là hộp sọ và xương hàm dưới.
Trong một số trường hợp, các nhà khảo cổ tìm thấy xương khớp một phần trong các mộ bị xáo trộn, một số mộ cải táng.
Các táng thức phổ biến trên khắp vùng Cận Đông trong thời kỳ đồ Đá mới, thời điểm mà người dân ở khu vực này lần đầu tiên bắt đầu thuần hóa cây trồng và động vật.
Tại Kharaysin, Ibanez và nhóm của ông đã tìm thấy 3 hộp sọ được chèn vào bức tường của một trong những ngôi nhà trong ngôi làng cổ.
Hầu hết các học giả ngày nay tin rằng những hành vi này liên quan đến tín ngưỡng tổ tiên phát sinh song song với thuở bình minh của nông nghiệp. Khi con người trên khắp vùng Cận Đông ngày càng từ bỏ lối sống hái lượm và định cư vào các cộng đồng nông nghiệp lâu dài, một lượng lớn tài nguyên và thời gian đã được đầu tư vào việc chăm sóc cây trồng, xây dựng nhà cửa và chăn nuôi.
Điều này có nghĩa là các cộng đồng lớn hơn được hình thành và cần thiết để tạo ra ý thức về bản sắc được chia sẻ, đồng thời có thể đóng góp yêu sách của họ đối với vùng đất mà họ đã bỏ hoang rất nhiều. Và cách tốt nhất để thực hiện cả hai mục tiêu đó là xác định tổ tiên chung của họ và liên quan quyền sở hữu ban đầu của họ trên khu vực, Ibanez lưu ý.
“Đây là ngôi nhà của tôi bởi vì cha tôi đã xây dựng nó - vì vậy tôi giữ cha tôi ở bên trong bức tường để chứng minh điều đó”, là cách nhà khảo cổ học tổng kết.
Tín ngưỡng tổ tiên thời đồ Đá mới và sự khởi đầu của nông nghiệp cũng có khả năng kết nối với một cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm, trong đó các bức tượng Kharaysin có thể là một ví dụ điển hình. Mặc dù thời kỳ đồ Đá mới và sự khởi đầu của thời kỳ đồ Đá mới, động vật là trọng tâm chính của các nghệ sĩ tiền sử, tuy nhiên điều này bắt đầu thay đổi khoảng 11.000 năm trước, khi các mô tả về con người bắt đầu trở nên thường xuyên và chiếm ưu thế hơn.
Mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn tại sao sự thay đổi này xảy ra, nhiều học giả cho rằng nó có thể liên quan đến tầm quan trọng ngày càng tăng của tín ngưỡng tổ tiên - và nhu cầu khắc họa và tôn kính người quá cố - cũng như sức mạnh đối với thiên nhiên mà nhân loại có được khi thuần hóa cây trồng và động vật.
Các hiện vật từ Kharaysin sẽ là ví dụ đầu tiên được biết đến về các bức tượng nhỏ được làm từ đá lửa ở thời kỳ đồ Đá mới ở vùng Cận Đông, nhưng tính trung tâm của hình dạng con người là rõ ràng trên khắp khu vực dưới các hình thức khác nhau: từ các đặc điểm hình học của các khối đá nguyên khối ở Gotbekli Tepe, các hộp sọ gắn trên tường nói trên, đến các bức tượng người làm bằng đất sét và thạch cao.
Những biến thể về một chủ đề cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cách các nền văn hóa thời đại đồ Đá mới tiếp xúc với nhau trên những khoảng cách rộng lớn, Ibanez lưu ý. Sự liên kết các cộng đồng nông nghiệp sớm đã hình thành một mạng lưới toàn khu vực, trong đó không chỉ các hiện vật được giao thương qua hàng trăm km mà cả những ý tưởng mới có thể được chia sẻ và thích nghi với từng thực tế địa phương, Ibanez nói.
“Chúng tôi nghĩ rằng sự đổi mới là thứ xuất hiện ở một nơi và sau đó lan rộng, nhưng bây giờ chúng tôi biết rằng các cộng đồng vùng Cận Đông đang phát minh ra những thứ mới và sau đó lan truyền chúng vào trong một mạng lưới, theo ông Ibanez. Khu vực này là nơi phát tán trong đó mọi thứ đang diễn ra theo cùng một hướng nhưng với đặc thù địa phương. Họ đã phát minh ra nông nghiệp, chăn nuôi và sống định cư. Tất cả họ đều đang làm những điều tương tự sẽ thay đổi loài người, nhưng họ đang làm những điều này theo cách riêng của họ
Nguồn tham khảo: https://www.haaretz.com/archaeology/.premium-10-000-year-old-artifacts-from-jordan-tied-to-cult-that-dug-up-the-dead-1.8973438
Người dịch: Minh Trần
Bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis (vi khuẩn hình que họ Enterobacteriaceae) gây ra và lây trực tiếp qua tiếp xúc giữa người với người (bệnh dịch hạch thể viêm phổi) hoặc qua bọ chét như một vec tơ thông thường (bệnh dịch hạch thể hạch hoặc thể máu) (Treille và Yersin, 1894).
Lịch sử biết đến 3 đại dịch về bệnh dịch hạch: (1) Đại dịch đầu tiên, bắt đầu với Bệnh dịch hạch Justinian (541 - 544 sau Công nguyên), nhưng tiếp tục không liên tục cho đến năm 750 sau Công nguyên; (2) Đại dịch thứ hai, bắt đầu với Cái Chết Đen (Black Death) ở châu Âu (1347 - 1351) và bao gồm các đợt liên tiếp, như Đại dịch hạch lớn (Great Plague) (1665 - 1666 ), cho đến thế kỷ 18.
Đại dịch thứ ba, xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm 1850 và bùng phát ở đó trong một trận dịch lớn vào năm 1894 trước khi lan rộng khắp thế giới như một loạt dịch bệnh cho đến giữa thế kỷ 20 (Bos et al., 2011; Cui et al., 2013; Drancourt và cộng sự, 1998; Harbeck và cộng sự, 2013; Parkhill và cộng sự, 2001; Perry và Fetherston, 1997; Wagner và cộng sự, 2014). Sự lan rộng trước đó như Bệnh dịch hạch ở Athens (430 - 427 trước Công nguyên) và Bệnh dịch hạch Antonine (165 - 180 AD) cũng có thể xảy ra, nhưng không có bằng chứng trực tiếp nào cho phép tự tin quy kết cho vi khuẩnY. pestis (Drancourt và Raoult, 2002; McNeill, 1976).
Bệnh dịch hạch ở khu vực Âu - Á giai đoạn đồ Đồng (3000 BC- 800BC).
(A) Bản đồ khu vực Âu - Á chỉ ra vị trí, niên đại C và văn hóa chứa các mẫu xương răng được xác định là nhiễm Y.pestis.
(B) Mộ số 4 thuộc di chỉ Bulanovo. Ảnh chụp bởi Mikhail V. Khalyapin
Năm 2015, Tiến sĩ. Simon Rasmussen, trung tâm phân tích di truyền, Đại học kĩ thuật Đan Mạch, cùng các nhà di truyền,nhân chủng học Đại học Copahagen, Đan Mạch và nhóm nhà nghiên cứu Nga, Anh, Mỹ qua phân tích ADN trên răng người cổ của 101 cá thể thuộc Châu Âu và châu Á giai đoạn Đồ Đồng có niên đại từ 2800 năm - 5000 năm, cho thấy 7 cá thể mang cấu trúc gen của Yersinia pestis (Y.pestis). Bằng việc giải mã bộ gen, nhóm nghiên cứu thấy rằng các chủng vi khuẩn cổ gây bệnh dịch hạch này là cơ sở cho tất cả vi khuẩn Yersinia pestis được biết cho đến nay. Ước tính tuổi của tổ tiên gần đây nhất của tất cả Y. pestis khoảng 5.783 năm dựa vào đồng hồ phân tử hiệu chỉnh. Hơn nữa, bằng cách sử dụng dữ liệu ADN cổ được đánh dấu tạm thời, họ có thể rút ra chuỗi thời gian để bắt các phân tử yếu tố gây bệnh và hệ thống tránh miễn dịch tạo điều kiện cho sự tiến hóa từ một loại vi khuẩn ít độc lực hơn với tiềm năng gây bệnh, như Y. pseudotuberculosis (vi khuẩn gây sốt phan ban đỏ), một trong những vi khuẩn nguy hiểm nhất mà con người từng gặp phải.
Từ những phát hiện trên , nhóm nghiên cứu kết luận rằng tổ tiên của các chủng Y. pestis còn tồn tại vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên và được lan rộng khắp Âu - Á từ ít nhất là đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Sự xuất hiện của bệnh dịch hạch ở các cư dân Âu - Á thời đại Đồ Đồng mà họ đã lấy mẫu (7 trong số 101 cá thể) cho thấy rằng đây là bệnh đặc hữu ở khu vực Âu - Á và phổ biến sớm hơn ít nhất 3.000 năm so với lịch sử ghi chép. Tuy nhiên, dựa trên sự vắng mặt của các gen độc tố với chuột (gen ytm), không giống như các chủng Y. pestis sau này chịu trách nhiệm cho đại dịch thứ nhất đến đại dịch thứ ba, các chủng Y. pestis cổ này không có khả năng gây ra bệnh dịch hạch thể hạch, mà chỉ gây ra bệnh dịch hạch thể phổi và thể máu. Những bệnh dịch sớm này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm dân số vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên (Hinz et al., 2012; Shennan et al., 2013).
Cùng với các minh họa gần đây về các hệ gen cổ đó là cư dân thời đại Đồ Đồng khu vực Âu - Á được đặc trưng bởi sự di cư dân số quy mô lớn, sự hòa huyết và thay thế (Allentoft et al., 2015; Haak et al., 2015), đi kèm với những thay đổi kinh tế và xã hội được mô tả sâu sắc ở khía cạnh khảo cổ học (Anthony, 2007; Kristiansen và Larsson, 2005). Theo những phát hiện của nhóm nghiên cứu, có thể thấy rằng sự bùng phát bệnh dịch hạch có thể được tạo điều kiện thuận lợi bởi các sự kiện dân số tăng, tập trung cao. Tuy nhiên, dữ liệu của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng Y. pestis đã không thích nghi hoàn toàn như một mầm bệnh động vật có vú từ bọ chét cho đến đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, gây ra các đại dịch bệnh dịch hạch trong lịch sử. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy rằng chủng Y. pestis truyền qua bọ chét mang tính độc, gây ra đại dịch hạch thể hạch lịch sử tiến hóa từ dòng Y. pestis ít độc hơn đã nhiễm vào quần thể dân số cổ từ lâu trước khi có ghi nhận bằng chứng lịch sử về sự bùng phát bệnh dịch hạch.
Nguồn tham khảo:
https://www.cell.com/fulltext/S0092-8674(15)01322-7
Người dịch: Minh Trần
Lịch sử biết đến 3 đại dịch về bệnh dịch hạch: (1) Đại dịch đầu tiên, bắt đầu với Bệnh dịch hạch Justinian (541 - 544 sau Công nguyên), nhưng tiếp tục không liên tục cho đến năm 750 sau Công nguyên; (2) Đại dịch thứ hai, bắt đầu với Cái Chết Đen (Black Death) ở châu Âu (1347 - 1351) và bao gồm các đợt liên tiếp, như Đại dịch hạch lớn (Great Plague) (1665 - 1666 ), cho đến thế kỷ 18.
Đại dịch thứ ba, xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm 1850 và bùng phát ở đó trong một trận dịch lớn vào năm 1894 trước khi lan rộng khắp thế giới như một loạt dịch bệnh cho đến giữa thế kỷ 20 (Bos et al., 2011; Cui et al., 2013; Drancourt và cộng sự, 1998; Harbeck và cộng sự, 2013; Parkhill và cộng sự, 2001; Perry và Fetherston, 1997; Wagner và cộng sự, 2014). Sự lan rộng trước đó như Bệnh dịch hạch ở Athens (430 - 427 trước Công nguyên) và Bệnh dịch hạch Antonine (165 - 180 AD) cũng có thể xảy ra, nhưng không có bằng chứng trực tiếp nào cho phép tự tin quy kết cho vi khuẩnY. pestis (Drancourt và Raoult, 2002; McNeill, 1976).
Bệnh dịch hạch ở khu vực Âu - Á giai đoạn đồ Đồng (3000 BC- 800BC).
(A) Bản đồ khu vực Âu - Á chỉ ra vị trí, niên đại C và văn hóa chứa các mẫu xương răng được xác định là nhiễm Y.pestis.
(B) Mộ số 4 thuộc di chỉ Bulanovo. Ảnh chụp bởi Mikhail V. Khalyapin
Năm 2015, Tiến sĩ. Simon Rasmussen, trung tâm phân tích di truyền, Đại học kĩ thuật Đan Mạch, cùng các nhà di truyền,nhân chủng học Đại học Copahagen, Đan Mạch và nhóm nhà nghiên cứu Nga, Anh, Mỹ qua phân tích ADN trên răng người cổ của 101 cá thể thuộc Châu Âu và châu Á giai đoạn Đồ Đồng có niên đại từ 2800 năm - 5000 năm, cho thấy 7 cá thể mang cấu trúc gen của Yersinia pestis (Y.pestis). Bằng việc giải mã bộ gen, nhóm nghiên cứu thấy rằng các chủng vi khuẩn cổ gây bệnh dịch hạch này là cơ sở cho tất cả vi khuẩn Yersinia pestis được biết cho đến nay. Ước tính tuổi của tổ tiên gần đây nhất của tất cả Y. pestis khoảng 5.783 năm dựa vào đồng hồ phân tử hiệu chỉnh. Hơn nữa, bằng cách sử dụng dữ liệu ADN cổ được đánh dấu tạm thời, họ có thể rút ra chuỗi thời gian để bắt các phân tử yếu tố gây bệnh và hệ thống tránh miễn dịch tạo điều kiện cho sự tiến hóa từ một loại vi khuẩn ít độc lực hơn với tiềm năng gây bệnh, như Y. pseudotuberculosis (vi khuẩn gây sốt phan ban đỏ), một trong những vi khuẩn nguy hiểm nhất mà con người từng gặp phải.
Từ những phát hiện trên , nhóm nghiên cứu kết luận rằng tổ tiên của các chủng Y. pestis còn tồn tại vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên và được lan rộng khắp Âu - Á từ ít nhất là đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Sự xuất hiện của bệnh dịch hạch ở các cư dân Âu - Á thời đại Đồ Đồng mà họ đã lấy mẫu (7 trong số 101 cá thể) cho thấy rằng đây là bệnh đặc hữu ở khu vực Âu - Á và phổ biến sớm hơn ít nhất 3.000 năm so với lịch sử ghi chép. Tuy nhiên, dựa trên sự vắng mặt của các gen độc tố với chuột (gen ytm), không giống như các chủng Y. pestis sau này chịu trách nhiệm cho đại dịch thứ nhất đến đại dịch thứ ba, các chủng Y. pestis cổ này không có khả năng gây ra bệnh dịch hạch thể hạch, mà chỉ gây ra bệnh dịch hạch thể phổi và thể máu. Những bệnh dịch sớm này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm dân số vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên (Hinz et al., 2012; Shennan et al., 2013).
Cùng với các minh họa gần đây về các hệ gen cổ đó là cư dân thời đại Đồ Đồng khu vực Âu - Á được đặc trưng bởi sự di cư dân số quy mô lớn, sự hòa huyết và thay thế (Allentoft et al., 2015; Haak et al., 2015), đi kèm với những thay đổi kinh tế và xã hội được mô tả sâu sắc ở khía cạnh khảo cổ học (Anthony, 2007; Kristiansen và Larsson, 2005). Theo những phát hiện của nhóm nghiên cứu, có thể thấy rằng sự bùng phát bệnh dịch hạch có thể được tạo điều kiện thuận lợi bởi các sự kiện dân số tăng, tập trung cao. Tuy nhiên, dữ liệu của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng Y. pestis đã không thích nghi hoàn toàn như một mầm bệnh động vật có vú từ bọ chét cho đến đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, gây ra các đại dịch bệnh dịch hạch trong lịch sử. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy rằng chủng Y. pestis truyền qua bọ chét mang tính độc, gây ra đại dịch hạch thể hạch lịch sử tiến hóa từ dòng Y. pestis ít độc hơn đã nhiễm vào quần thể dân số cổ từ lâu trước khi có ghi nhận bằng chứng lịch sử về sự bùng phát bệnh dịch hạch.
Nguồn tham khảo:
https://www.cell.com/fulltext/S0092-8674(15)01322-7
Người dịch: Minh Trần
Các nhà khoa học nghiên cứu các hóa thạch được thu thập cách đây 35 năm đã xác định chúng là loài bọ cạp cổ nhất, một loài động vật thời tiền sử khoảng 437 triệu năm trước và có khả năng hô hấp ở đại dương cổ và trên đất liền.
Phát hiện này cung cấp thông tin mới về cách động vật này chuyển từ đời sống dưới biển sang sống hoàn toàn trên cạn: Hệ thống hô hấp và tuần hoàn của loài bọ cạp này gần giống với bọ cạp hiện đại ngày nay - chỉ sống trên cạn - và hoạt động tương tự như hệ hô hấp và tuần hoàn của cua móng ngựa, sống chủ yếu ở dưới nước, nhưng có khả năng di chuyển vào đất liền trong thời gian ngắn.
Các nhà nghiên cứu đã đặt tên cho loài bọ cạp mới này là Parioscorpio. Tên chi có nghĩa là "bọ cạp tiên sinh" và tên loài có nghĩa là "thợ săn". Họ đã phác thảo những phát hiện trên trong một nghiên cứu được công bố ngày 16/1/2020 trên tạp chí Scientific Reports.
Loren Babcock, tác giả của nghiên cứu này- giáo sư khoa học trái đất tại Đại học bang Ohio cho biết: "Chúng tôi đang nghiên cứu loài bọ cạp cổ nhất được biết đến - thành viên cổ nhất được biết đến của dòng arachnid, là một trong những sinh vật trên cạn thành công nhất trong lịch sử Trái đất".
"Hơn thế nữa, điều quan trọng hơn đó là chúng tôi đã xác định được một cơ chế mà động vật thực hiện quá trình chuyển đổi quan trọng từ môi trường biển sang môi trường sống trên cạn. Điều này cung cấp mô hình cho các loại động vật khác trong đó bao gồm động vật có xương sống đã thực hiện quá trình chuyển đổi đó . Đó là một phát hiện đột phá. "
Hóa thạch (bên trái) được phát hiện ở Wisconsin năm 1985. Các nhà khoa học đã phân tích nó và phát hiện các cơ quan hô hấp và tuần hoàn của loài động vật cổ này (ở giữa) gần giống hệt với các cơ quan này ở bọ cạp hiện đại (hình bên phải). Ảnh chụp bởi Andrew Wendruff .
Hóa thạch "bọ cạp thợ săn" được khai quật vào năm 1985 từ một địa điểm ở Wisconsin, nơi từng là một hồ nhỏ dưới chân một vách đá trên đảo. Chúng vẫn chưa được nghiên cứu trong một bảo tàng tại Đại học Wisconsin trong hơn 30 năm cho đến khi một trong các nghiên cứu sinh của Babcock, Andrew Wendruff - hiện là trợ giảng giáo sư tại Đại học Otterbein ở Westerville - quyết định nghiên cứu chi tiết hóa thạch này.
Wendruff và Babcock ngay lập tức nhận ra các hóa thạch này là bọ cạp. Tuy nhiên, ban đầu, họ không chắc những hóa thạch này gần với tổ tiên của arachnid như thế nào. Loài bọ cạp được biết đến sớm nhất vào thời điểm đó đã được tìm thấy ở Scotland và có niên đại khoảng 434 triệu năm trước. các nhà cổ sinh vật học biết đến bọ cạp là một trong những động vật đầu tiên sống trên cạn toàn toàn.
Hóa thạch Wisconsin được các nhà nghiên cứu xác định già hơn từ 1 triệu đến 3 triệu năm so với hóa thạch từ Scotland. Họ đã tìm ra tuổi con bọ cạp này từ các hóa thạch khác trong cùng một dạng. Những hóa thạch đó đến từ những sinh vật mà các nhà khoa học cho rằng đã sống từ 436,5 đến 437,5 triệu năm trước, trong thời kỳ đầu của thời kỳ Silurian, thời kỳ thứ ba trong kỷ Cổ sinh Paleozoic
Bà Wendruff nói : "Mọi người thường nghĩ rằng chúng tôi sử dụng phương pháp định niên đại carbon để xác định tuổi của hóa thạch, nhưng điều đó không hiệu quả đối với một hóa thạch cổ này", . "Nhưng chúng tôi định niên đại bằng nền tro - và khi không có tro núi lửa, chúng tôi sử dụng những vi hóa thạch này và tương quan với những năm khi những sinh vật đó ở trên Trái đất. Đó là niên đại tương đối một chút”.
Hóa thạch Wisconsin - từ một hệ tầng chứa hóa thạch được gọi là Waukesha Biota - cho thấy các đặc điểm điển hình của một con bọ cạp, nhưng phân tích chi tiết cho thấy một số đặc điểm mà trước đây không biết ở bất kỳ bọ cạp nào, chẳng hạn như các đoạn cơ thể bổ sung và vùng đuôi "ngắn" " tất cả đều làm sáng tỏ tổ tiên của nhóm này.
Wendruff nghiên cứu các hóa thạch trên dưới kính hiển vi và chụp các bức ảnh chi tiết về các hóa thạch này với độ phân giải cao từ các góc khác nhau. Các mảnh nội tạng của loài này, được bảo quản trong đá, bắt đầu nổi lên. Ông đã xác định các phần phụ, một buồng nơi con vật sẽ cất giữ nọc độc của nó, và - quan trọng nhất - phần còn lại của hệ thống hô hấp và tuần hoàn của nó.
Con bọ cạp này dài khoảng 2,5 cm - có kích thước tương đương với nhiều con bọ cạp trên thế giới hiện nay. Babcock cho biết: điều này cho thấy mối liên hệ tiến hóa quan trọng giữa cách tổ tiên của loài bọ cạp cổ xưa thở dưới nước và cách bọ cạp hiện đại thở trên cạn. Về mặt bên trong, hệ thống tuần hoàn hô hấp có cấu trúc giống như trong bọ cạp ngày nay.
"Hoạt động bên trong của hệ tuần hoàn - hô hấp ở loài động vật này, có hình dạng, giống hệt như của loài nhện và bọ cạp chỉ hít thở không khí", Babcock nói. "Nhưng nó cũng cực kỳ giống với những gì chúng ta nhận ra ở động vật chân đốt biển như cua móng ngựa. Vì vậy, có vẻ như loài bọ cạp này, chủng này, phải được thích nghi trước với cuộc sống trên cạn, nghĩa là chúng có khả năng hình thái để thực hiện quá trình chuyển đổi đó , ngay cả trước khi lần đầu tiên, chúng đặt chân lên cạn.”
. “Các nhà cổ sinh trong nhiều năm đã tranh luận về cách thức động vật di chuyển từ biển vào đất liền. Một số hóa thạch cho thấy dấu vết bò trên cát có thể có tuổi đời lên tới 560 triệu năm, nhưng những dấu vết này có thể đã được tạo ra trong bọt biển thời tiền sử - có nghĩa là rất khó để biết liệu động vật sống trên đất liền hay trong đại dương cổ.
Nhưng với những con bọ cạp thời tiền sử này, Wendruff nói, có rất ít nghi ngờ về khả năng tồn tại trên cạn của chúng bởi vì những điểm tương đồng với bọ cạp hiện đại trong hệ thống hô hấp và tuần hoàn.
Nguồn tham khảo:Ohio State University. "Fossil is the oldest-known scorpion: Researchers think it was one of the first animals to spend time on land." ScienceDaily. ScienceDaily, 16 January 2020. <www.sciencedaily.com/releases/2020/01/200116121903.htm>.
https://news.osu.edu/fossil-is-the-oldest-known-scorpion/
Người dịch:Minh Trần
Các nhà khoa học đã phát hiện ra hóa thạch bọ cạp cổ nhất - là một trong những động vật đầu tiên trên cạn - một hóa thạch được phát hiện ở Wisconsin
Phát hiện này cung cấp thông tin mới về cách động vật này chuyển từ đời sống dưới biển sang sống hoàn toàn trên cạn: Hệ thống hô hấp và tuần hoàn của loài bọ cạp này gần giống với bọ cạp hiện đại ngày nay - chỉ sống trên cạn - và hoạt động tương tự như hệ hô hấp và tuần hoàn của cua móng ngựa, sống chủ yếu ở dưới nước, nhưng có khả năng di chuyển vào đất liền trong thời gian ngắn.
Các nhà nghiên cứu đã đặt tên cho loài bọ cạp mới này là Parioscorpio. Tên chi có nghĩa là "bọ cạp tiên sinh" và tên loài có nghĩa là "thợ săn". Họ đã phác thảo những phát hiện trên trong một nghiên cứu được công bố ngày 16/1/2020 trên tạp chí Scientific Reports.
Loren Babcock, tác giả của nghiên cứu này- giáo sư khoa học trái đất tại Đại học bang Ohio cho biết: "Chúng tôi đang nghiên cứu loài bọ cạp cổ nhất được biết đến - thành viên cổ nhất được biết đến của dòng arachnid, là một trong những sinh vật trên cạn thành công nhất trong lịch sử Trái đất".
"Hơn thế nữa, điều quan trọng hơn đó là chúng tôi đã xác định được một cơ chế mà động vật thực hiện quá trình chuyển đổi quan trọng từ môi trường biển sang môi trường sống trên cạn. Điều này cung cấp mô hình cho các loại động vật khác trong đó bao gồm động vật có xương sống đã thực hiện quá trình chuyển đổi đó . Đó là một phát hiện đột phá. "
Hóa thạch (bên trái) được phát hiện ở Wisconsin năm 1985. Các nhà khoa học đã phân tích nó và phát hiện các cơ quan hô hấp và tuần hoàn của loài động vật cổ này (ở giữa) gần giống hệt với các cơ quan này ở bọ cạp hiện đại (hình bên phải). Ảnh chụp bởi Andrew Wendruff .
Hóa thạch "bọ cạp thợ săn" được khai quật vào năm 1985 từ một địa điểm ở Wisconsin, nơi từng là một hồ nhỏ dưới chân một vách đá trên đảo. Chúng vẫn chưa được nghiên cứu trong một bảo tàng tại Đại học Wisconsin trong hơn 30 năm cho đến khi một trong các nghiên cứu sinh của Babcock, Andrew Wendruff - hiện là trợ giảng giáo sư tại Đại học Otterbein ở Westerville - quyết định nghiên cứu chi tiết hóa thạch này.
Wendruff và Babcock ngay lập tức nhận ra các hóa thạch này là bọ cạp. Tuy nhiên, ban đầu, họ không chắc những hóa thạch này gần với tổ tiên của arachnid như thế nào. Loài bọ cạp được biết đến sớm nhất vào thời điểm đó đã được tìm thấy ở Scotland và có niên đại khoảng 434 triệu năm trước. các nhà cổ sinh vật học biết đến bọ cạp là một trong những động vật đầu tiên sống trên cạn toàn toàn.
Hóa thạch Wisconsin được các nhà nghiên cứu xác định già hơn từ 1 triệu đến 3 triệu năm so với hóa thạch từ Scotland. Họ đã tìm ra tuổi con bọ cạp này từ các hóa thạch khác trong cùng một dạng. Những hóa thạch đó đến từ những sinh vật mà các nhà khoa học cho rằng đã sống từ 436,5 đến 437,5 triệu năm trước, trong thời kỳ đầu của thời kỳ Silurian, thời kỳ thứ ba trong kỷ Cổ sinh Paleozoic
Bà Wendruff nói : "Mọi người thường nghĩ rằng chúng tôi sử dụng phương pháp định niên đại carbon để xác định tuổi của hóa thạch, nhưng điều đó không hiệu quả đối với một hóa thạch cổ này", . "Nhưng chúng tôi định niên đại bằng nền tro - và khi không có tro núi lửa, chúng tôi sử dụng những vi hóa thạch này và tương quan với những năm khi những sinh vật đó ở trên Trái đất. Đó là niên đại tương đối một chút”.
Hóa thạch Wisconsin - từ một hệ tầng chứa hóa thạch được gọi là Waukesha Biota - cho thấy các đặc điểm điển hình của một con bọ cạp, nhưng phân tích chi tiết cho thấy một số đặc điểm mà trước đây không biết ở bất kỳ bọ cạp nào, chẳng hạn như các đoạn cơ thể bổ sung và vùng đuôi "ngắn" " tất cả đều làm sáng tỏ tổ tiên của nhóm này.
Wendruff nghiên cứu các hóa thạch trên dưới kính hiển vi và chụp các bức ảnh chi tiết về các hóa thạch này với độ phân giải cao từ các góc khác nhau. Các mảnh nội tạng của loài này, được bảo quản trong đá, bắt đầu nổi lên. Ông đã xác định các phần phụ, một buồng nơi con vật sẽ cất giữ nọc độc của nó, và - quan trọng nhất - phần còn lại của hệ thống hô hấp và tuần hoàn của nó.
Con bọ cạp này dài khoảng 2,5 cm - có kích thước tương đương với nhiều con bọ cạp trên thế giới hiện nay. Babcock cho biết: điều này cho thấy mối liên hệ tiến hóa quan trọng giữa cách tổ tiên của loài bọ cạp cổ xưa thở dưới nước và cách bọ cạp hiện đại thở trên cạn. Về mặt bên trong, hệ thống tuần hoàn hô hấp có cấu trúc giống như trong bọ cạp ngày nay.
"Hoạt động bên trong của hệ tuần hoàn - hô hấp ở loài động vật này, có hình dạng, giống hệt như của loài nhện và bọ cạp chỉ hít thở không khí", Babcock nói. "Nhưng nó cũng cực kỳ giống với những gì chúng ta nhận ra ở động vật chân đốt biển như cua móng ngựa. Vì vậy, có vẻ như loài bọ cạp này, chủng này, phải được thích nghi trước với cuộc sống trên cạn, nghĩa là chúng có khả năng hình thái để thực hiện quá trình chuyển đổi đó , ngay cả trước khi lần đầu tiên, chúng đặt chân lên cạn.”
. “Các nhà cổ sinh trong nhiều năm đã tranh luận về cách thức động vật di chuyển từ biển vào đất liền. Một số hóa thạch cho thấy dấu vết bò trên cát có thể có tuổi đời lên tới 560 triệu năm, nhưng những dấu vết này có thể đã được tạo ra trong bọt biển thời tiền sử - có nghĩa là rất khó để biết liệu động vật sống trên đất liền hay trong đại dương cổ.
Nhưng với những con bọ cạp thời tiền sử này, Wendruff nói, có rất ít nghi ngờ về khả năng tồn tại trên cạn của chúng bởi vì những điểm tương đồng với bọ cạp hiện đại trong hệ thống hô hấp và tuần hoàn.
https://news.osu.edu/fossil-is-the-oldest-known-scorpion/
Người dịch:Minh Trần
- Tác giả: Trần Hồng Liên
- Nxb: Hà Nội - 2008
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 217 tr
- Hình thức bìa: mềm
Chùa Giác Lâm là một ngôi chùa được xây dựng từ hơn hai trăm năm nay, đó là một ngôi chùa có mặt sớm ở đất Gia Định (1774), được thành lập từ thế kỷ XVIII ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, là tổ đình của phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn Nguyên ở Nam Bộ, chùa Giác Lâm là nơi lưu giữ hài cốt của tổ Phật Ý (thuộc đời 35 của dòng phái)
Với bề dày lịch sử của nó, chùa Giác Lâm đã để lại nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc tôn giáo.
Chương 1: Chùa Giác Lâm, quá trình hình thành và phát triển
Chương 2: Chùa Giác Lâm, di tích lịch sử - văn hóa. Chương này đề cập đến các vấn đề như: kiến trúc chùa, tháp; Tượng thờ, hoành phi, bao lam, phù điêu, liễn đối, đồ thờ - pháp khí.
Chương 3: Chùa Giác Lâm trong bối cảnh các chùa ở Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
- Nxb: Hà Nội - 2008
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 217 tr
- Hình thức bìa: mềm
Chùa Giác Lâm là một ngôi chùa được xây dựng từ hơn hai trăm năm nay, đó là một ngôi chùa có mặt sớm ở đất Gia Định (1774), được thành lập từ thế kỷ XVIII ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, là tổ đình của phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn Nguyên ở Nam Bộ, chùa Giác Lâm là nơi lưu giữ hài cốt của tổ Phật Ý (thuộc đời 35 của dòng phái)
Với bề dày lịch sử của nó, chùa Giác Lâm đã để lại nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc tôn giáo.
Chương 1: Chùa Giác Lâm, quá trình hình thành và phát triển
Chương 2: Chùa Giác Lâm, di tích lịch sử - văn hóa. Chương này đề cập đến các vấn đề như: kiến trúc chùa, tháp; Tượng thờ, hoành phi, bao lam, phù điêu, liễn đối, đồ thờ - pháp khí.
Chương 3: Chùa Giác Lâm trong bối cảnh các chùa ở Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Khoa Lịch sử - Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 658 tr
Cuốn sách được xuất bản nhân kỷ niệm 55 năm thành lập (1956-2011) của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nội dung cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả, các nhà nghiên cứu, các giảng viên đã và đang công tác ở Khoa Lịch sử, được chia thành các phần sau:
- Việt Nam trong tảng nền lịch sử - văn hóa khu vực
- Việt Nam và thế giới: Những tương đồng và dị biệt
- Việt Nam trong các mối quan hệ khu vực và thế giới
Xin trân trọng giới thiệu!
Cuốn sách được xuất bản nhân kỷ niệm 55 năm thành lập (1956-2011) của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nội dung cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả, các nhà nghiên cứu, các giảng viên đã và đang công tác ở Khoa Lịch sử, được chia thành các phần sau:
- Việt Nam trong tảng nền lịch sử - văn hóa khu vực
- Việt Nam và thế giới: Những tương đồng và dị biệt
- Việt Nam trong các mối quan hệ khu vực và thế giới
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Trang
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9037358
Số người đang online: 21