Mục lục  

Trang

 
NGUYỄN ĐỨC TÂM
Lịch sử Nam Trường Sơn kỷ Neogen - Đệ Tứ: Biến đổi môi trường, động thực vật và lịch sử hình thành loài người
3
TRÌNH NĂNG CHUNG
Văn hóa Hòa Bình ở miền núi Đông Bắc Việt Nam
14
BÙI VĂN LIÊM, NGUYỄN NGỌC QUÝ VÀ HOÀNG VĂN HẠNH
Di tích Đền Thắm trong bối cảnh tiền sơ sử Bắc Kạn
33
LÊ NGỌC HÂN
Đặc trưng gốm men thời Lý qua các cuộc khai quật tại khu vực chính điện Kính Thiên
44
LÊ ĐÌNH PHỤNG
Phế tích kiến trúc Champa qua tư liệu khảo cổ học
52
NGUYỄN DOÃN VĂN
La thành (Thăng Long) trong hệ thống các kinh thành cổ Việt Nam qua tư liệu khảo cổ học
78
ĐẶNG HỒNG SƠN, KIỀU ĐÌNH SƠN VÀ                    ĐỖ MINH NGHĨA
Di tích Đền An Sinh (Quảng Ninh) nhận thức qua                  tư liệu lịch sử và khảo cổ học
89
contents  

Page

 
NGUYỄN ĐỨC TÂM
History of Southern Trường Sơn in Neogene - quaternary ages: Enviromental, faunal and floral changes and human formation
3
TRÌNH NĂNG CHUNG
Hòa Bình culture in Northeastern moutainous area of Việt Nam
14
BÙI VĂN LIÊM, NGUYỄN NGỌC QUÝ AND      HOÀNG VĂN HẠNH
Đền Thắm site in Pre - protohistorical context of Bắc Kạn
33
LÊ NGỌC HÂN
Characteristics of Lý - period glazed ceramics from the excavations at Kính Thiên palace
44
LÊ ĐÌNH PHỤNG
Champa architectural ruins from archaeological data
52
NGUYỄN DOÃN VĂN
Đại La citadel (Thăng Long) in the system of ancient imperial citadels in Việt Nam through archaeological data
78
ĐẶNG HỒNG SƠN, KIỀU ĐÌNH SƠN AND               ĐỒ MINH NGHĨA
An Sinh temple site (Quảng Ninh) perception from historical and archaeological data
89

Sáng 21/12, UBND thành phố Hải Phòng và Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) tổ chức hội nghị báo cáo kết quả khai quật bãi cọc Cao Quỳ tại xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Đây được coi là trận địa trong cuộc chiến chống quân Nguyên của quân dân nhà Trần năm 1288.

khai quat bai coc cao quy: them nhieu tu lieu ve chien thang bach dang hinh 1
Thành phố Hải Phòng và Viện Khảo cổ học tổ chức hội nghị báo cáo kết quả, khai quật bãi cọc Cao Quỳ.

Trên cơ sở phát hiện của người dân xã Liên Khê (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) về 2 thân cây gỗ nằm trong lòng đất thuộc vùng đê bao sông Đá Bạc, Viện Khảo cổ học (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã tổ chức 2 đợt khảo sát và phát hiện 9 cọc gỗ có niên đại khoảng 1270 - 1430.

Cuối tháng 11 vừa qua, được sự cho phép của Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch, Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo tàng Hải Phòng tiến hành khai quật khảo cổ tại khu vực cánh đồng Cao Quỳ thuộc xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên.

khai quat bai coc cao quy: them nhieu tu lieu ve chien thang bach dang hinh 2
27 cọc gỗ có niên đại thế kỷ 13 - 15 được phát hiện tại bãi cọc Cao Quỳ (xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng).

Kết quả khai quật 950m2, với 3 hố khai quật đã phát hiện 27 cọc gỗ được đóng thẳng đứng hoặc nghiêng trong khu vực chứa nhiều bùn lẫn cát mịn, mang tính chất địa tầng của trầm tích lòng sông và ven bờ. Các cọc có đường kính 26 - 46 cm, phân bố so le nhau, trên các cọc có mộng ngoàm dùng để buộc dây kéo. Kết quả giám định C14 cho thấy, các cọc gỗ này có niên đại thế kỷ 13 - 15. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn phát hiện 24 hố đất đen, phần lớn là các hố chôn cọc, cùng một số chứng tích sắt và đất sét.

Từ kết quả khai quật khảo cổ và niên đại tuyệt đối mẫu cọc gỗ được phát hiện, kết hợp với các nguồn tư liệu lịch sử, bước đầu, các nhà khoa học cho rằng, di tích bãi cọc Cao Quỳ có liên quan đến trận chiến chống quân Nguyên trên sông Bạch Đằng vào năm 1288.

khai quat bai coc cao quy: them nhieu tu lieu ve chien thang bach dang hinh 3
Các cọc được đóng thẳng đứng hoặc nghiêng, so le nhau, có đường kính 26-46 cm; trên một số cọc lớn có mộng ngoàm.

Tiến sĩ Bùi Văn Hiếu, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ dưới nước, Viện Khảo cổ học Việt Nam khẳng định, di tích bãi cọc Cao Quỳ có thể là một thế trận địa có niên đại vào cuối thế kỷ 13, nhiều khả năng liên quan đến trận chiến chống quân Nguyên năm 1288 của quân dân nhà Trần.

"Trận địa này dùng để chặn giặc không cho chúng tiến vào sông Giá, buộc phải đi vào sông Bạch Đằng và rơi vào trận địa mai phục của chúng ta ở Bãi cọc Yên Giang và Đồng Vạn Muối, Đồng Mã Ngựa ở Quảng Yên (Quảng Ninh). Để hiểu rõ hơn về quy mô, tính chất, diện mạo của chiến trường bãi cọc Cao Quỳ, chúng tôi đề xuất cần tiến hành điều tra, khảo sát và quy hoạch, bảo tồn bãi cọc", Tiến sĩ Bùi Văn Hiếu cho hay./.

Thanh Nga/VOV-Đông Bắc

- Tác giả: Tống Trung Tín - Nguyễn Lân Cường
- Nxb: Khoa học xã hội
-  Khổ sách: 24 x 29 cm
- Số trang: 239 tr
Cuốn sách do GS.Tống Trung Tín (Nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam) và PGS.TS Nguyễn Lân Cường (Nguyên cán bộ Khảo cổ học, Tổng thư ký Hội Khảo cổ học Việt Nam) đồng chủ biên. Sách được công bố nhân dịp quần thể di tích An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương được Thủ tướng Chính phủ công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt năm 2016, hệ thống bia ma nhai động Kính Chủ được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2017 và chào mừng Đại hội Hội Khảo cổ học Việt Nam lần thứ 3 (2018 - 2023).
Kinh Môn là vùng đất cổ, có nhiều di tích, danh lam, thẳng cảnh nổi tiếng. Cả huyện có 172 di tích lớn nhỏ, trong đó có 01 quần thể di tích quốc gia đặc biệt An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương, 15 di tích cấp quốc gia, 15 di tích cấp tỉnh.
Đáng chú ý ở quần thể di tích quốc gia đặc biệt là Đền Cao An Phụ nơi An Sinh Vương Trần Liễu đã lập trang ấp sinh sống và thác tại đây, là phụ thân của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn 3 lần chiến thắng quân Nguyên - Mông. Tiếp đến là chùa Nhẫm Dương, nơi Thánh Tổ Thủy Nguyệt khai sáng, tu hành và đắc đạo, cùng tổ đệ nhị là Chân Dung hòa thượng làm nên trung tâm thiền phái Tào Động đầu tiên của nước ta. Các hang đá quanh chùa còn là nơi tìm thấy hàng ngàn cổ vật quý giá như xương hóa thạch, đồ gốm, tiền đồng v.v..
Nội dung cuốn sách tập hợp nhiều bài viết chất lượng của các nhà nghiên cứu khác nhau về khảo cổ, lịch sử, văn hóa v.v.. kèm theo nhiều hình ảnh minh họa sống động.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Nhung
 
In lần thứ sáu - với 3 ngôn ngữ: Việt, Anh và Pháp.                                                                                         
Tác giả:              Nguyễn Văn Kự
Lời giới thiệu:          PGS. Cao Xuân Phổ
Sách dày 144 trang, khổ 21x23 cm, in trên giấy Couché 
với 170 ảnh đen trắng, 25 bản vẽ các đền tháp cổ Chămpa
 của
nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier (1871 – 1949).
Một bản đồ Di tích C
hăm tại Việt Nam.
Nhà xuất 
bản Thế Giới, Hà Nội, 2019.
Giá:
 198.000đ
    Nội dung sách giới thiệu về tài năng của các thế hệ người Chăm “đã xây dựng nên một nền văn hóa riêng rất     cao không thua kém bất kỳ nền văn hóa cao đẹp nào thời cổ đại và trung cổ ở Đông Nam Á. Nền văn hóa đó là một thà
nh phần khăng khít của văn hóa Việt Nam ngày nay”[1] (Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông).
Phần mở đầu sách là bài giới thiệu của PGS. Cao Xuân Phổ,  lời nói đầu của tác giả qua các lần xuất bản.
Phần tiếp theo giới thiệu khái quát các đền tháp Chăm còn lại nằm rải rác suốt dải đất miền Trung từ Thừa Thiên Huế, Quảng Nam tới Bình Thuận và Tây Nguyên, có niên đại từ thế kỷ VII-XVI đó là: Tháp Mỹ Khánh (tỉnh Thừa Thiên Huế); Khu Đền - Tháp Mỹ Sơn tỉnh Quảng Nam (năm 1999 được
 Hội đồng Di sản Thế Giới công nhận là Di sản Văn hóa Thế Giới), khu đền tháp Phật giáo Đồng Dương và nhiều tháp Chăm khác như: Tháp Bằng An, Tháp Chiên Đàn, Tháp Khương Mỹ (tỉnh Quảng Nam); Tháp Phú Lốc, Tháp Cánh Tiên, Tháp Thủ Thiện, Tháp Bánh Ít, Tháp Bình Lâm, Tháp Hưng Thạnh, Tháp Dương Long (tỉnh Bình Định); Tháp Nhạn (tỉnh Phú Yên); Tháp Bà Nha Trang (Pô Nagar, tỉnh Khánh Hòa), Tháp Hòa Lai, Tháp Pô Klông Garai, tháp Pô Rômê (tỉnh Ninh Thuận); Tháp Phú Hài, Tháp Pô Đam (tỉnh Bình Thuận); tháp Yang Prông (tỉnh Đăk lăk), thành Đồ Bàn (tỉnh Bình Định). Tiếp theo đó là  những tác phẩm điêu khắc Chăm tuyệt vời có niên đại từ thế kỷ II đến thế kỷ XVI được thể hiện sinh động với những chủ đề về tín ngưỡng, tôn giáo, con người, động vật, hoa lá…: tượng Phật Đồng Dương, đài thờ Mỹ Sơn E1, Nữ thần Devi (Hương Quế), Bồ tát Tara, Đài thờ Trà Kiệu (năm hiện vật trên đã được nhà nước Việt Nam công nhận là bảo vật Quốc gia vào năm 2012), rồi bia Võ Cạnh, thần Siva, Thần Ganesa, vũ nữ Trà Kiệu, Vương miện Vua, Vương miện Hoàng hậu Chăm, và những con vật mang tính huyền thoại như Sư tử, chim thần Garuda… với các phong cách kế tiếp nhau từ thời kỳ đầu Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Tháp Mẫm, Yang Mun và Pô Rômê.
 
Phần kết cuốn sách là: Người Chăm ở Việt Nam, giới thiệu cuộc sống hiện tại, hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, vui chơi giải trí, … của người Chăm trong cả nước đang chung sức cùng các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam tươi đẹp, phồn vinh, hạnh phúc.
Di sản Văn hóa Chăm – cuốn sách là kho tư liệu ảnh hết sức quý giá cho những ai muốn khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu về Văn hóa Chăm.
 

[1] Phạm Huy Thông, Cao Xuân Phổ, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long. Điêu khắc Chăm (các ngữ Việt, Anh, Nhật), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, trang 16.

Xin trân trọng giới thiệu!
(Nếu mọi người có nhu cầu mua sách này thì liên hệ tác giả hoặc qua sđt của Đ/c:Ngô Thị Nhung: 0973.944.857)
Ngô Thị Nhung

Ngày 22-11, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp UBND tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa: khai quật, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị”. Hội thảo nhằm thông báo những kết quả khai quật, nghiên cứu mới nhất về di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa; trao đổi, thảo luận, tiến tới đánh giá thống nhất giá trị khu di tích, phục vụ việc xây dựng hồ sơ khoa học trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa.

Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa: khai quật, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị”

Toàn cảnh Hội thảo

Múa Óc Eo

Một số hiện vật đặc sắc của nền văn hóa Óc Eo

Ban Tổ chức hội thảo đã nhận được 42 tham luận từ các nhà nghiên cứu, quản lý di sản văn hóa thuộc các viện nghiên cứu, trường đại học, các bộ, ngành và cơ quan quản lý di sản văn hóa ở địa phương.

Chủ đề bài viết được quan tâm nghiên cứu bao gồm: kết quả khai quật và nhận thức mới trong quá trình thực hiện Đề án “Nghiên cứu khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (văn hóa Óc Eo Nam Bộ)”; các nghiên cứu về cổ môi trường; nghiên cứu tính chất đô thị cổ của Óc Eo; các kết quả nghiên cứu so sánh và phân tích mẫu…

Theo PGS.TS Bùi Chí Hoàng (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, Phó Chủ nhiệm Đề án), các chủ đề nghiên cứu đã góp phần cập nhật và bổ sung vào những nhận thức khoa học liên quan đến văn hóa Óc Eo một cách rõ nét hơn qua các nguồn tư liệu mới trong những năm gần đây, đặc biệt là các kết quả đạt được trong quá trình thực hiện dề án từ năm 2017 đến nay.

Phát biểu tại hội thảo, GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Trưởng Ban Chỉ đạo - Chủ nhiệm Đề án cho biết: “Đến nay một diện tích đủ lớn của nền văn hóa Óc Eo đã được khai quật, các di tích và di vật được xuất lộ bước đầu làm lộ diện một nền văn hóa khảo cổ đã từng tồn tại cách đây khoảng 2.000 năm trên mảnh đất Tây Nam Bộ. Độ rộng không gian mà nền văn hóa này lan tỏa, cùng với chiều sâu thời gian lịch sử mà nền văn hóa này tồn tại, cũng như sự phong phú và độc đáo của các giá trị văn hóa của các di tích và di vật của nền Văn hóa Óc Eo cho phép chúng ta tự hào về sự quyết liệt của ý chí, sức sáng tạo của khối óc cũng như sự khéo léo của bàn tay, sự tinh tế về tâm hồn của bao thế hệ ông cha ta gửi gắm nơi đây. Căn cứ vào các kết quả khai quật và nghiên cứu được thực hiện trong thế kỷ 20 và thập niên đầu thế kỷ 21, trong địa bàn rộng lớn mà nền văn hóa Óc Eo lan tỏa, hai vị trí được xác định có vị trí hết sức quan trọng, đó là khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) là một đô thị hoặc cảng thị, một trung tâm kinh tế-văn hóa lớn của văn hóa Óc Eo - Phù Nam và khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) được xem như một “tiền cảng” quan trọng, là nơi xuất, nhập khẩu các loại hàng hóa cho đô thị cổ Óc Eo và các thị tứ thời bấy giờ trong vùng tứ giác Long Xuyên”.

Ông Lê Văn Nưng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang khẳng định việc phối hợp để tăng cường nguồn lực đầu tư nghiên cứu, bảo tồn thật tốt di tích, đồng thời hướng tới xây dựng hồ sơ văn hóa Óc Eo trình UNESCO ghi danh di sản văn hóa thế giới cho Óc Eo - Ba Thê là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh An Giang hiện nay. Thời gian qua, tỉnh An Giang đã tăng cường các nguồn lực đầu tư và cùng với các cơ quan khoa học, tiếp tục nghiên cứu, bảo tồn di tích văn hoá Óc Eo. Nhận thức đầy đủ những giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo - Ba Thê, tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chỉ thị về việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa..Những hoạt động này nhằm nâng cao nhận thức và sự chung tay, góp sức của cộng đồng dân cư địa phương trong việc bảo vệ, phát huy những giá trị của nền văn hóa Óc Eo bởi họ cũng chính là những chủ nhân thực sự của di sản này.

Tin: Nguyễn Thơ Đình

 
Trân trọng kính mời Quý Thầy, Cô, các Nhà nghiên cứu và mọi người quan tâm tới dự buổi tọa đàm khoa học với chủ đề: “Exploring Prehistoric Technology at the Trang An Landscape Complex” and “Collecting and Analyzing 2D Photogrammetric Data for Archaeological Research
Diễn giả: NCS.Benjamin Utting, Đại học Cambridge, London, Vương Quốc Anh.
Thời gian: 14h00’ ngày 25 tháng 11 năm 2019 (Thứ Hai). 
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học, 61 Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội. 
Trân trọng kính mời!
 
Trân trọng kính mời quý Thầy, Cô, các nhà nghiên cứu, các Chi đoàn thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và mọi người quan tâm tới dự buổi Tọa đàm khoa học với chủ đề: "Kiến trúc cổ bằng gỗ ở Việt Nam ".
Diễn giả: TS. Nguyễn Hồng Kiên
Thời gian: 09h00’ ngày 28 tháng 11 năm 2019 (Thứ Năm).
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học, 61 Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Chi đoàn Viện Khảo cổ học trân trọng kính mời!
Ngô Nhung
- Tác giả: Phạm Đức Mạnh
- Nxb: Đồng Nai - 2019
-  Khổ sách: 16 x 24cm
- Số trang: 613 tr

Cuốn sách được xuất bản nhân kỷ niệm 320 năm hình thành và phát triển Biên Hòa - Đồng Nai (1698 - 2018). Là tập hợp một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của PGS.TS Phạm Đức Mạnh (Giảng viên cao cấp, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhâ văn - Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh).

Nội dung cuốn sách ngoài phần mở đầu và phần kết luận, gồm 3 phần chính, với 31 chuyên đề:
Phần 1, tác giả giới thiệu đôi nét về điều kiện tự nhiên và những tố chất môi trường sinh thái dung dưỡng con người và văn hóa nguyên thủy Nam Bộ.
Phần 2 và 3 giới thiệu về các di tích và di vật tiêu biểu cho các thời kỳ Khảo cổ học thời đại Đá, thời đại Kim khí và thời đại Lịch sử ở Đồng Nai và vùng ven, với các hệ thống dẫn liệu khảo cổ liên quan đến hoạt động cư trú và sáng tạo văn hóa của các tập thể người cổ từ buổi đầu Đá cũ đến những làng cổ làm nông, săn bắn, hái lượm lâm thủy sản và hoạt động thủ công, những nghĩa địa mai táng người chết trong mộ đất, mộ chum vò gốm, các kho tàng chôn đồ đồng trong họng núi lửa, mộ cự thạch thời Kim khí và những thành quách, những quần thể lăng tẩm hợp chất dành cho quý tộc Nguyễn ở Biên Hòa, Cù lao Phố, Long Thành, Nhơn Trạch thời kỳ lịch sử Trung đại và Cận đại.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Trần lâm Biền
- Nxb: Thế giới - 2019
-  Khổ sách: 21 x 24cm
- Số trang: 183 tr
 
Đồ thờ là sản phẩm văn hóa hữu thể, chứa đựng những ước vọng truyền đời của tổ tiên, qua nó như qua thần linh để cầu nguồn hạnh phúc trần gian. Ở Việt Nam, đồ thờ mang vẻ đẹp tâm linh thánh thiện, phản ánh tâm thức của người nông dân trồng lúa nước. Thông qua đồ thờ, chúng ta có thể tìm về bản thể chân như thuộc vẻ đẹp của người xưa, để con người nhờ đó mà nâng cao thêm được tinh thần yêu nước, yêu quê hương xứ sở, yêu quý lẽ nhân bản, đồng thời có ý thức trọng được đẹp của cả đạo và đời.

Công trình này chủ yếu dừng lại trong không gian của người Kinh ở châu thổ Bắc Bộ và trong thời quân chủ chuyên chế bản địa (từ thế kỷ XI - XX), nhằm tạo nên được một mô hình (mang tính giả định) để trình bày một cách tạm coi là hệ thống, tạo điều kiện biết về đồ thờ của người Việt trên phương diện niên đại, mỹ thuật và ý nghĩa.

Nội dung chính của cuốn sách gồm 2 phần:
Phần 1: Một số vần đề liên quan đến đồ thờ: phần này tập trung về những sự kiện thuộc lịch sử và xã hội có khả năng chi phối tới văn hóa, đặc biệt là về đồ thờ. Trong đó đồ thờ của người Việt thường lệ thuộc vào các di tích liên quan, mà các di tích này bị lệ thuộc chặt chẽ vào thành phần cơ bản của dân tộc, đến các thần linh dân dã và các tôn giáo.
Phần 2: Đồ thờ trong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của người Việt: phần này chia thành 2 phần nhỏ: Đồ thờ nhân dạng và những đồ thờ trong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng cổ truyền.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
- Năm xb: 2019
- Nxb: Ban Quản lý công viên Địa chất Lý Sơn - Sa Huỳnh
 
Công viên địa chất Lý Sơn - Sa Huỳnh (tiền thân là công viên địa chất Lý Sơn) được thành lập cuối năm 2015 với tư cách là một công viên cấp tỉnh. Trải qua quá trình nhiều năm xây dựng, đến nay diện mạo của một công viên địa chất toàn cầu đang từng bước định hình và phát triển.

Công viên có diện tích trên 4.600 km2, trong đó trên 2.000 km2 đất liề trải dài trên địa bàn của 9 huyện, thành phố, tích hợp những giá trị di sản địa chất kỳ thú, văn hóa đặc sắc và sinh học đa dạng, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển du lịch của miền đất Ấn - Trà.

Công viên địa chất Lý Sơn - Sa Huỳnh sẽ được hoàn chỉnh và đệ trình lên Unesco vào cuối tháng 11 năm 2019 để xem xét công nhận là công viên địa chất toàn cầu.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9024605
Số người đang online: 22