Tác giả: Nguyễn Đình Thi, Trần Quốc Bảo, Tôn Thất Đại và nnk
- Nxb: Xây dựng - 2024
- Số trang: 446tr
- Khổ sách: 19 x 27cm
            Để đáp ứng tài liệu học tập phục vụ cho sinh viên ngành kiến trúc, quy hoạch cũng như các ngành nghệ thuật khác. Bộ môn Lý thuyết và lịch sử kiến trúc, Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng biên soạn cuốn “Giáo trình Lịch sử kiến trúc” nhằm cung cấp cho sinh viên kiến thức về lịch sử kiến trúc thế giới và Việt Nam. Đồng thời thông qua lịch sử kiến trúc giúp sinh viên đúc kết được những bài học về trường phái, phong cách kiến trúc và các kiến thức văn hóa, xã hội bổ trợ cho việc nghiên cứu phát triển ý tưởng trong sáng tác đồ án kiến trúc của mình.

Cuốn giáo trình lịch sử kiến trúc được bố cục thành hai phần:

Phần thứ nhất giới thiệu về lịch sử kiến trúc thế giới, gồm 6 chương:

Chương 1: Kiến trúc thời kỳ nguyên thủy và các nền văn minh cổ đại.

Chương 2: Kiến trúc phương Tây thời Trung thế kỷ và thời Phục Hưng.

Chương 3: Kiến trúc phương Tây Cận đại.

Chương 4: Kiến trúc Hiện đại.

Chương 5: Kiến trúc Hậu hiện đại và Hiện đại mới.

Chương 6: Kiến trúc cổ châu Á.

Phần thứ hai giới thiệu về lịch sử kiến trúc Việt Nam, gồm 2 chương:

Chương 7: Kiến trúc cổ Việt Nam.

Chương 8: Kiến trúc Việt Nam Hiện đại.
Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

- Tác giả: Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang
Nxb: Thế giới - 2022
Số trang: 20 tr
- Khổ sách: 20 x 20cm
 
Trấn Tuyên Quang thời Trần  (1226-1400) và đạo Tuyên Quang thừa tuyên thời Lê (1428 - 1788) phía Bắc giáp hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Với vị thế là cửa ngõ của vùng núi phía Bắc, Tuyên Quang là đầu mối giao thương lớn và quan trọng nhất. Vùng Tây Bắc với núi cao hiểm trở nên việc giao thương trực tiếp từ Trung Quốc sang Việt Nam bằng đường bộ và đường sông đều rất khó khăn. Việc giao thương được tiến hành theo con đường nội địa từ vùng xuôi lên. Hầu hết địa điểm phát hiện những đồ sứ thương mại thời Minh tập trung ở huyện Sơn Dương, trong đó sông Lô, sông Phó Đáy, sông Gâm và sông Năng trên tuyến giao thông đường thủy đã đóng góp lớn vào việc giao thương.
Theo tuyến giao thương đó, cùng với các hàng hóa khác, đồ sứ thời Trần, Lê sơ và thời Mạc đã được bán ở vùng núi phía Bắc. Đồ sứ thời Minh, sau khi nhập khẩu vào Đại Việt được vận chuyển lên đây cùng với những đồ sứ Việt Nam có nguồn gốc xuất xứ từ các lò gốm ở Thăng Long, Nam Định và Hải Dương. Các cảng sông ở Tuyên Quang như Thọ Vực, Lâm Xuyên, Sơn Dương, Yên Hoa và Na Hang đóng vai trò quan trọng trong trung chuyển đồ sứ từ Thăng Long lên vùng cao.
Đồ sứ thương mại thời Minh phát hiện được ở Tuyên Quang đều nằm ở trong khoảng niên đại từ đầu thế kỷ XV đến XVII. Đồ sứ thời Minh được bán ở vùng cao, qua các phát hiện ở Tuyên Quang đều là sản phẩm của các lò gốm dân gian Trung Quốc, không thấy có đồ sứ của lò Cảnh Đức Trấn.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Trần Anh Dũng, Lý Mạnh Thắng
- Nxb: Thế giới - 2023
- Số trang: 48 tr
- Khổ sách: 20 x 20cm
 
Tuyên Quang là một châu/ trấn trọng yếu lớn nhất ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam thời Lý Trần, là địa phương có nhiều kiến trúc phật giáo thời Lý, Trần. Hiện tại, đã tìm thấy 37 di tích chùa, tháp thời Lý Trần. Đây là số lượng chùa tháp chắc hẳn còn ít hơn nhiều so với thực tế. Tại các di tích này, qua các cuộc khai quật và điều tra thám sát khảo cổ học đã tìm thấy hàng nghìn vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc dùng để xây dựng và trang trí chùa, tháp.
Giá trị lịch sử văn hóa của vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc thời Lý, Trần ở tỉnh Tuyên Quang là đã phản ánh sự phát triển và phạm vi ảnh hưởng của phật giáo lên vùng cửa ngõ của Tây Bắc, phản ánh phần nào lịch sử của Tuyên Quang thời Lý, Trần với sự gắn kết chặt chẽ giữa triều đình trung ương và các địa phương phản ánh hệ tư tưởng chung, lấy phật giáo làm quốc giáo ở thời Lý, Trần; phản ánh sự giao thương giữa miền xuôi và miền núi, phản ánh một văn hóa dân tộc thống nhất, đó là văn hóa và văn minh Đại Việt thời Lý, Trần đã được trải rộng khắp cả nước, trong đó Tuyên Quang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa văn minh này.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Trần Anh Dũng, Lý Mạnh Thắng, Nguyễn Đức Bình
- Nxb: Thế giới - 2023
- Số trang: 196 tr
- Khổ sách: 14,8 x 21cm
 
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Đồ sứ thời Lê ở Tuyên Quang trong tiến trình gốm sứ Việt Nam thời Lê. Nội dung chương nêu khái quát về Tuyên Quang và vùng Tây Bắc Việt Nam, đồ sứ Tuyên Quang trong nền cảnh gốm sứ Việt Nam thời Lê, trung tâm gốm sứ Hải Dương, gốm sứ Hải Dương giao thương nước ngoài và trong nước.
Chương 2: Các loại hình đồ sứ thời Lê ở Tuyên Quang. Nội dung chương gồm 7 phần: tổng quan về đồ sứ thời Lê ở Tuyên Quang; các loại hình đồ sứ còn dáng thời Lê thế kỷ XV; các loại hình đồ sứ còn dáng thời Lê thế kỷ XVI; các loại hình đồ sứ còn dáng thời Mạc; các loại hình đồ sứ còn dáng thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII; các loại hình đồ sứ còn dáng thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII; mảnh vỡ đồ sứ thời Lê ở các di tích.
Chương 3: Một số vấn đề lịch sử - văn hóa thời Lê - Mạc ở Tuyên Quang qua đồ gốm sứ. Nội dung chương gồm 2 phần: giá trị lịch sử của đồ sứ thời Lê ở Tuyên Quang và giá trị văn hóa của đồ sứ thời Lê ở Tuyên Quang.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

Sáng 06/12/2024, Sở Văn hoá và Thể theo Hà Nội đã tổ chức Hội nghị Báo cáo kết quả sơ bộ khai quật khảo cổ tại phía tây gò Vườn Chuối (Hoài Đức, thành phố Hà Nội) để lấy ý kiến các nhà khoa học về công tác khai quật khảo cổ học ở nửa phía tây và bảo vệ nửa phía đông di chỉ khảo cổ Vườn Chuối.

Tại Hội nghị, Đoàn khai quật đã trình bày chi tiết các kết quả khai quật nghiên cứu nửa phía tây di chỉ Vườn Chuối đã và đang thực hiện năm 2024.
Thực hiện Quyết định số 520/QĐ-BVHTTDL ngày 06/03/2024 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về việc khai quật khảo cổ tại phía Tây gò Vườn Chuối - từ cuối tháng 3/2024, Viện Khảo cổ học đã phối hợp với Bảo tàng Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ quan liên quan tiến hành khai quật với tổng diện tích 6.000m2.

hnmo_1.jpg
Khu vực khai quật phía tây Di chỉ Vườn Chuối. Ảnh: Đoàn khai quật

Cuộc khai quật phía tây Di chỉ Vườn Chuối đã triển khai 60 hố khai quật, mỗi hồ có diện tích 100m², và bước đầu đã có những phát hiện quan trọng:

Thứ nhất, Phát hiện mặt bằng khu cư trú thời tiền Đông Sơn.
Di tích nằm ở vị trí cao nhất của gò Vườn Chuối, cấu trúc hình lòng chảo với rìa ngoài cao hơn bên trong khoảng 0,5m. Nhận định ban đầu về sự hình thành di tích có thể người xưa lợi dụng địa hình dương là những gò đất tự nhiên cũng như những địa hình âm dưới chân gò và giữa các gò và đã vượt thổ ở khu vực xung quanh tạo khu cư trú ở bên trong và một vòng hào bảo vệ rộng khoảng 10m và sâu khoảng 2,5 - 3m bao quanh bên ngoài. Di tích có chiều dài bắc - nam khoảng 90m, rộng đông - tây 35m và còn tiếp tục mở rộng sang phía đông di chỉ. Đất đắp là đất sét màu nâu vàng thường thấy trên các gò đất tự nhiên ở khu vực này. Bên trong di tích là dấu tích các giai đoạn văn hoá Tiền Đông Sơn. Sườn ngoài của di tích là nơi chôn cất người chết, ở góc tây bắc mật độ chôn cất rất cao tạo thành một bãi mộ tiền Đông Sơn nằm tập trung với ít nhất hai giai đoạn cắt phá nhau.


Khu vực cư trú sớm ở phía bắc Di chỉ Vườn Chuối. Ảnh: Đoàn khai quật
 

Khả năng di tích được hình thành trong giai đoạn Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm, là lớp cư dân đầu tiên đến cư trú ở khu vực này. Đây là phát hiện rất quan trọng trong lịch sử nghiên cứu thời đại Kim khí ở miền Bắc Việt Nam, giúp chúng ta có những hiểu biết rõ hơn về cách thức xử lý các không gian cư trú nhằm ứng phó với những hiểm nguy từ môi trường tự nhiên cũng như xã hội cổ đại. Đồng thời, việc xây dựng công trình quy mô như trên cũng phần nào phản ánh về một xã hội có tổ chức và phân công lao động ở trình độ khá cao.
Thứ hai, làm rõ khu mộ táng có niên đại kéo dài từ giai đoạn Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm đến giai đoạn muộn của văn hoá Đông Sơn.
Đến nay đã phát hiện hơn 70 mộ táng tiền Đông Sơn và 40 mộ táng Đông Sơn, chia thành 2 giai đoạn mộ Đông Sơn sớm và mộ Đông Sơn muộn. Trong đó, một đặc điểm quan trọng là mộ táng tiền Đông Sơn có tục nhổ răng cửa ở người trưởng thành nhưng đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn thì không còn thấy tục lệ này.
Hệ thống di cốt trong các mộ táng thuộc các giai đoạn khác nhau vẫn còn được bảo tồn khá tốt, hứa hẹn sẽ đưa đến những hiểu biết sâu hơn khi triển khai nghiên cứu về nhân chủng học, di truyền, bệnh lý, vận động, chế độ dinh dưỡng... của người Việt cổ trong thời đại Kim khí ở miền Bắc Việt Nam.

hnmo_2.jpg
Mộ táng, di cốt và dấu vết của tục nhổ răng cửa trên di cốt tiền Đông Sơn. Ảnh: Đoàn khai quật

Đợt khai quật này cũng cho thấy di tích đã nhiều lần bị xâm phạm, đào trộm trong những năm qua.

hnmo_3.jpg
Khu mộ Đông Sơn bị đào trộm. Ảnh: Đoàn khai quật
hnmo_4.jpg
Đồ tùy táng trong mộ Đông Sơn giai đoạn sớm. Ảnh: Đoàn khai quật

Thứ ba, phát hiện dấu tích vật chất của công trình kiến trúc liên quan đến nhà ở của người Đông Sơn lần đầu được tìm thấy tại Vườn Chuối.
 Kết quả khai quật đã bước đầu nhận diện khả năng người Đông Sơn cư trú trong các ngôi nhà dài kiểu/tương tự như những ngôi nhà dài của một số tộc người Trường Sơn - Tây Nguyên vẫn còn sử dụng cho đến gần đây. Phát hiện này mở ra triển vọng mới về việc tìm hiểu kiến trúc nhà ở thường nhật trong một ngôi làng Việt cổ thời Đông Sơn, cũng như cách thức bố trí không gian cư trú trong làng.

Kiến trúc nhà ở thời Đông Sơn tại phía bắc Di chỉ Vườn Chuối. Tư liệu: Đoàn khai quật

Khẳng định giá trị và Kiến nghị
Kết quả thu được qua đợt khai quật từ tháng 3/2024 đến nay đã bổ sung tư liệu khẳng định Vườn Chuối là một ngôi làng đã được con người thời đại Kim khí khai phá, làm chủ một cách lâu dài, phát triển liên tục từ giai đoạn Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm đến Đông Sơn và hậu Đông Sơn - cách đây từ 4000 đến 2000 năm. Những kết quả khai quật - nghiên cứu đã góp phần cung cấp đầy đủ chứng cứ hiện vật về sự có mặt của con người từ rất sớm trên khu vực Hà Nội ngay nay. Hơn nữa còn chứng minh nguồn gốc bản địa và lịch sử các nhóm người dân tộc Việt từ thời tiền sơ sử, chứng minh rõ dần thời đại “Hùng Vương dựng nước” bằng các chứng cứ khảo cổ học.
Địa điểm Vườn Chuối là di chỉ cư trú - mộ táng phát triển liên tục qua nhiều giai đoạn từ tiền Đông Sơn đến Đông Sơn. Địa tầng di chỉ Vườn Chuối tồn tại nhiều lớp văn hóa trải qua các giai đoạn Phùng Nguyên muộn - Đồng Đậu sớm, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn và hậu Đông Sơn chứng minh giá trị lịch sử văn hóa quan trọng của di chỉ Vườn Chuối. Đây là di chỉ khảo cổ hiếm và quý về/trong thời đại Kim khí ở cả khu vực miền Bắc Việt Nam.
Trong thời gian tới, việc tiếp tục nghiên cứu và chỉnh lý nghiên cứu chuyên sâu hứa hẹn sẽ đến thêm nhiều tư liệu quan trọng trong nghiên cứu nhận diện về giai đoạn Kim khí ở khu vực Hà Nội nói riêng và miền bắc Việt Nam nói chung. Đoàn khai quật đề nghị UBND TP Hà Nội và Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội sớm cho phép triển khai giai đoạn chỉnh lý, đồng thời đẩy nhanh việc công nhận Di chỉ Vườn Chuối là Di tích cấp Thành phố và thực hiện kế hoạch bảo quản, bảo tồn và phát huy giá trị di tích.


Các đại biểu thảo luận tại Hội nghị

Các ý kiến thảo luận tại Hội nghị đánh giá cao kết quả đạt được của cuộc khai quật 6.000m2 tại nửa phía tây di chỉ Vườn Chuối. Bên cạnh đó, các thảo luận tại Hội nghị đều nhấn mạnh cần đẩy nhanh việc công nhận Di chỉ Vườn Chuối là Di tích cấp Thành phố và thực hiện kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế, du lịch của thành phố Hà Nội./.

Tin bài: Nguyễn Thơ Đình

Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An với hai giá trị nổi bật toàn cầu văn hóa và thiên nhiên không thể tách rời làm nên tính độc đáo nổi bật của Quần thể Danh thắng Tràng An mà không Di sản UNESCO nào ở Việt Nam có được. Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt với mà tạo hóa ban tặng cho Tràng An trở nên ý nghĩa hơn khi nó mang trong mình các giá trị văn hóa đặc sắc được tiếp nối liên tục từ thời tiền sử, lịch sử và cho đến tận ngày nay. Ngược lại, văn hóa, lịch sử nơi đây cũng mang giá trị nổi bật hơn bởi nó nằm trong lòng cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của Tràng An. Đây cũng là một trong những lý do mà bên cạnh các nghiên cứu về “tự nhiên” ở Tràng An như địa chất, địa mạo, địa lý, môi trường, các nghiên cứu về “xã hội” như văn hóa, lịch sử, khảo cổ của vùng đất này luôn được chú trọng.
 
Nghiên cứu Khảo cổ học Tiền sử ở hang động Tràng An
Khảo cổ học Cảnh quan (Landscape Archaeology)là một chuyên ngành khảo cổ nghiên cứu về địa điểm diễn ra các hoạt động của con người[1], về sự tác động qua lại của con người đối với cảnh quan tự nhiên, môi trường, các nguồn tài nguyên và các loại địa hình nơi họ sinh sống. Các phương pháp nghiên cứu chính của Khảo cổ học Cảnh quan có thể kể đến là: khảo sát địa hình, chụp ảnh viễn thám, phân tích cảnh quan và khai quật khảo cổ có chọn lọc. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ kỹ thuật tiên tiến, các phương pháp nghiên cứu mới đã và đang được ứng dụng mạnh mẽ trong Khảo cổ học Cảnh quan như: lập bản đồ kỹ thuật số (digital mapping, GIS), các công nghệ địa - vật lý và viễn thám như Lidar. Các kết quả nghiên cứu của Khảo cổ học Cảnh quan có thể đóng góp hữu ích cho công tác quản lý, quy hoạch cảnh quan môi trường cũng như phát triển du lịch ở các di tích.
Dưới góc độ Khảo cổ học lịch sử, từ lâu Tràng An nói chung và Hoa Lư nói riêng đã được quan tâm nghiên cứu. Từ những năm 1963-1964 đến nay, nhiều đợt khai quật khảo cổ học đã được tiến hành nhưng chủ yếu tập trung vào các nghiên cứu kiến trúc trong khu vực trung tâm của kinh đô Hoa Lư (Thành Ngoại và Thành Nội). Tuy nhiên, lịch sử cảnh quan của Cố đô Hoa Lư, một yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị nổi bật của Kinh đô này lại chưa được quan tâm đúng mức.
Trong hơn 10 năm qua, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An đã tiến hành các nghiên cứu ở Hoa Lư nói riêng và Tràng An nói chung theo hướng Khảo cổ học Cảnh quan. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng những kết quả ban đầu đã có thể cho chúng ta một phác họa tổng thể về cảnh quan của toàn bộ khu vực Kinh đô Hoa Lư thế kỷ X-XI. Thành Ngoại và Thành Nội, nơi mà hầu hết các nghiên cứu khảo cổ học Hoa Lư đã tập trung nghiên cứu chỉ là khu vực trung tâm, là nơi ở và làm việc của vua, hoàng tộc và có thể của quan lại, quân đội cao cấp. Nơi cư trú của các tầng lớp dân cư còn lại, cũng là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế - xã hội của kinh đô là một không gian rộng hơn được bao quanh bởi dãy núi Tràng An ở phía Tây, sông Hoàng Long ở phía Bắc, sông Đáy ở phía Đông và sông Vân ở phía Nam. Như vậy có nghĩa là, phạm vi của kinh đô Hoa Lư ở thế kỷ X-XI gần như trùng khớp với phạm vi của Quần thể Danh thắng Tràng An.
Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay tham quan Khu Du lịch sinh thái Tràng An
Nghiên cứu về Khảo cổ học Cảnh quan ở Hoa Lư mới chỉ là bước đầu và còn rất nhiều vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu hơn nữa. Đã đến lúc cần quan tâm đến Khảo cổ học Cảnh quan ở Hoa Lư một cách sâu sắc và toàn diện hơn nhằm trả lời những câu hỏi lớn như: Cảnh quan tự nhiên (các dãy núi, dòng sông, thung lũng…) và cảnh quan xã hội (tường thành nhân tạo, sông ngòi nhân tạo, khu vực cư trú…) của Hoa Lư khi nó là kinh đô của nước Đại Cồ Việt có diện mạo cụ thể ra sao? Các hoạt động quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội… đã diễn ra ở đâu và tác động qua lại giữa chúng đối với cảnh quan thiên nhiên nơi đây? Vấn đề sử dụng cảnh quan thiên nhiên (núi, sông, thung lũng, nguồn nước, nguồn đất…) trong việc xây dựng, quy hoạch và quản lý Kinh đô Hoa Lư? Những minh chứng cụ thể bằng thông tin từ các dữ liệu khảo cổ học? Đặc biệt, biển đã có vai trò như thế nào đối với sự hình thành, phát triển và suy thoái của đô thị Hoa Lư?
Trả lời được những câu hỏi trên, sẽ có thể có được một bức tranh tương đối toàn diện và cụ thể về cảnh quan tự nhiên và xã hội của Kinh đô Hoa Lư trên một khu vực gần như trùng khớp với không gian của Di sản UNESCO Tràng An. Từ đó, các chiến lược quảng bá, phát triển du lịch dựa trên các giá trị nổi bật về cảnh quan lịch sử của Cố đô Hoa Lư có thể được phác dựng và khai thác.
Triển vọng nghiên cứu và khai thác du lịch cảnh quan ở Hoa Lư là rất lớn nếu đẩy mạnh các nghiên cứu Khảo cổ học Cảnh quan ở khu vực này, các kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp dữ liệu cho khá nhiều các sản phẩm du lịch nhằm khai thác giá trị độc đáo, nổi bật của lịch sử cảnh quan nơi đây. Việc kết hợp giữa đẩy mạnh nghiên cứu sâu rộng về Khảo cổ học Cảnh quan với việc khai thác phát triển du lịch dựa trên những kết quả nghiên cứu đã đạt được cần tiến hành đồng bộ. Một số các sản phẩm du lịch có thể khai thác như:
- Tour du lịch: Khám phá các vòng thành Hoa Lư; Tham quan các thung trũng, nhỏ và khép kín như Thung Bin, Thong Bái, Thung Mậu… nằm trong khu vực trung tâm của Hoa Lư và có nhiều truyền thuyết liên quan đến lịch sử hai triều Đinh - Lê; Tham quan các đền, chùa có niên đại từ thời Đinh - Lê tìm hiểu nét độc đáo của các di tích gắn với cảnh quan trũng thấp của Hoa Lư khi nó còn là kinh đô ở thế kỷ X-XI;
 
 
Tham quan bằng đường sông ở Danh thắng Tam Cốc - Bích Động
- Hiking và trekking: Tổ chức các chương trình hiking và trekking qua các khu vực cảnh quan đẹp mắt và có giá trị khảo cổ, du khách có thể hình dung ra được diện mạo của Kinh đô Hoa Lư thế kỷ X, được gọi là kinh đô đá: lấy núi là thành, sông suối là đường đi;
- Camping và picnic: Tạo ra các khu vực camping và picnic để du khách có thể tận hưởng không khí trong lành và yên bình của vùng đất khảo cổ. Đây là cơ hội tuyệt vời để tận hưởng cảnh quan đẹp, thư giãn và thưởng thức các món ăn ngon của địa phương;
- Các Chương trình giáo dục và hướng dẫn được tổ chức để giúp du khách hiểu rõ hơn về di sản khảo cổ và giá trị lịch sử, văn hóa của vùng đất Hoa Lư. Các chuyên gia khảo cổ có thể cung cấp thông tin và giải thích chi tiết về các di tích, giúp du khách có trải nghiệm thú vị và sâu sắc về Quần thể danh thắng Tràng An.
Hướng nghiên cứu Khảo cổ học Cảnh quan kết hợp khai thác du lịch  trên đây có thể là một nét đặc sắc nổi bật của du lịch tại Quần thể dảnh thắng Tràng An mà không di sản nào ở Việt Nam có được - Một di sản luôn gắn liền với các hoạt động nghiên cứu khoa học chuyên sâu và khai thác được thế mạnh này để phát triển du lịch. Hướng đi này hứa hẹn đem lại nhiều giá trị phát triển bền vững cho du lịch ở Di sản Tràng An./.
Tin bài: Võ Thị Phương Thúy và Phạm Sinh Khánh

[1] Bruno David and Julian Thomas (Eds.), Handbook of Landscape Archaeology, Routledge, USA, 2016.
Những thay đổi khí hậu cổ đại đã tạo ra những con đường mới và những bước tiến trong quá trình tiến hóa đầu tiên của con người.
Khi nghĩ về quá trình tiến hóa của con người,  chúng ta dễ dàng tập trung vào các cột mốc sinh học—công cụ, lửa và sự xuất hiện của Homo sapiens. Nhưng nếu câu chuyện về hành trình của tổ tiên loài người trên khắp thế giới được viết nên bởi môi trường thì sẽ như thế nào? Một nghiên cứu gần đây, "Sự khô cằn giữa kỷ Pleistocene và sự thay đổi cảnh quan thúc đẩy sự phân tán của loài người khu vực Palearctic" khám phá cách những thay đổi sâu rộng của khí hậu trong suốt giai đoạn giữa Pleistocene (khoảng 1,25–0,7 triệu năm trước) đã định hình nên cảnh quan của khu vực Âu Á và, ngược lại , định hướng cho  những cuộc di cư đầu tiên của con người.
 
Bước ngoặt trong khí hậu Trái đất và lịch sử loài người
Sự chuyển đổi khí hậu giai đoạn giữa Pleistocene  (MPT) đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong các chu kỳ băng hà của Trái đất, chuyển từ mô hình các kỷ băng hà kéo dài 41.000 năm sang các chu kỳ dài hơn nhiều là 100.000 năm. Sự thay đổi này đã mang lại sự làm mát đáng kể, khô cằn rõ rệt hơn và sự biến đổi của các hệ sinh thái. Những khu rừng trước đây bao phủ phần lớn lục địa Á-Âu đã nhường chỗ cho đồng cỏ rộng mở, sa mạc và đồng bằng đất hoàng thổ (bùn lắng do gió thổi).
Tại sao điều này lại quan trọng đối với quá trình tiến hóa của loài người? Những môi trường sống thay đổi này đặt ra cả thách thức và cơ hội cho con người thời kỳ đầu (hominin). Nghiên cứu nhấn mạnh rằng những áp lực môi trường này có thể đã thúc đẩy tổ tiên của chúng ta khám phá những vùng đất mới, thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt hơn và đổi mới theo những cách sẽ định hình sự sống còn của họ.

EASM và EAWM lần lượt biểu diễn gió mùa mùa hè và mùa đông Đông Á. Các ngôi sao màu đỏ chỉ ra vị trí của các dãy hoàng thổ cuối thế Pliocen từ lưu vực Tarim và Tajikistan. KMD và CHM: Karamaidan (nghiên cứu này) và các phần hoàng thổ Chashmanigar từ phía nam Tajikistan. Các vòng tròn đặc màu đỏ biểu diễn sự phân bố không gian của các hồ sơ đồng vị cacbon được tham chiếu trong văn bản. Các vòng tròn đặc màu xanh biểu diễn sự phân bố không gian của các hồ sơ phấn hoa ở Âu Á. LN: Trầm tích hồ Lop Nor ở lưu vực Tarim. SG-1 và SG-3: Các lõi khoan trầm tích hồ từ phía tây lưu vực Qaidam. JY: Các trầm tích hang động Jinyuan từ bán đảo Liêu Đông. CP và NHW: Trầm tích sông-hồ từ đồng bằng Bắc Kinh và lưu vực Nihewan ở Bắc Trung Quốc. TJ: Lõi Thiên Tân-G3 ở đồng bằng Bắc Trung Quốc. DP02: Lõi khoan sa mạc Badain Jaran. CZ: Trầm tích sông-hồ từ cao nguyên hoàng thổ Trung Quốc (CLP). YY và CN: Các phần đất hoàng thổ Yanyu và Chaona trong CLP. ZG: Các trầm tích hồ từ lưu vực Zoige ở Đông Nam Tây Tạng. TP: Tenaghi Philippon, Hy Lạp
 
Theo dõi cổ khí hậu qua các trầm tích hoàng thổ
Một trong những khía cạnh hấp dẫn nhất của nghiên cứu nằm ở dữ liệu : các phân tích đồng vị carbon có độ phân giải cao từ các trầm tích hoàng thổ ở Trung Á và tây bắc Trung Quốc. Hoàng thổ, về cơ bản là các hạt mịn được gió mang đi, giống như một hộp thời gian cho các điều kiện môi trường cổ.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng khi sự chuyển đổi khí hậu giai đoạn giữa Pleitocene tiến triển, mức đồng vị carbon thay đổi đáng kể, phản ánh  lượng mưa thấp hơn và thảm thực vật mỏng đi. Ở một số khu vực, lượng mưa giảm tới 200 mm. Đây không chỉ là hiện tượng cục bộ; mà là sự tái cấu trúc hệ sinh thái trên toàn lục địa, tạo ra các môi trường sống mở rộng lớn có lợi cho việc di cư.
Các tác giả lưu ý rằng "Dữ liệu đồng vị carbon cho thấy sự thay đổi giữa thời kỳ Pleistocene độc ​​đáo như thế nào trong việc định hình lại thảm thực vật và môi trường sống trên khắp khu vực Âu Á".
 
Cảnh quan định hình hành trình
Cùng với biến đổi khí hậu là những biến đổi địa chất. Các con sông tạo ra các kênh đào sâu hơn, tạo thành các ruộng bậc thang vừa là thách thức vừa là đường sống cho con người thời kỳ đầu. Sự mở rộng của cảnh quan sa mạc-hoàng thổ đã tạo ra các rào cản nhưng cũng là các con đường, dẫn dắt người hominin vào các hành lang di cư cụ thể.
Ví dụ, các vùng sa mạc rộng lớn ở Trung Á, như sa mạc Taklimakan, đã trở thành những nơi cố định trong thời kỳ này. Tuy nhiên, các hệ thống sông như sông Hoàng Hà ở tây bắc Trung Quốc cũng mở rộng, cung cấp nước ngọt và tài nguyên, vốn rất quan trọng cho sự sống còn của con người.
 
 
Đổi mới trước sự thay đổi
Những điều kiện khắc nghiệt của thời kỳ giữa Pleistocene không chỉ liên quan đến sự sống còn mà còn là chất xúc tác cho sự đổi mới. Nghiên cứu này liên kết thời kỳ biến động môi trường này với những tiến bộ công nghệ đáng kể, bao gồm các công cụ Acheulean, đặc trưng bởi rìu cầm tay và các dụng cụ cắt khác. Những công cụ đó phổ biến khắp Âu Á trong thời kỳ này, phản ánh khả năng thích nghi và sự khéo léo của các loài người.
Điều thú vị là bằng chứng khảo cổ học cho thấy sự hiện diện của con người ở một số khu vực nhất định, như Trung Á, tăng lên và giảm đi tùy thuộc vào điều kiện khí hậu. "Cánh cửa cơ hội" do các thời kỳ gian băng mang lại cho phép các loài người di chuyển và định cư tạm thời ở các vùng lãnh thổ mới.
 
 
 Nguồn tham khảo: https://www.anthropology.net/p/how-climate-shaped-early-human-journeys
 Người dich: MT
 
- Tác giả: Viện Khảo cổ học
- Nhà xb: Khoa học xã hội - 2024
- Số trang: 1358tr
- Khổ: 19x27cm
Cuốn sách thông báo các phát hiện mới về khảo cổ học trên toàn quốc trong năm 2023, bao gồm 456 bài viết được chia thành các phần: 10 bài về các hoạt động chung của các cơ quan nghiên cứu khảo cổ Trung ương và địa phương, 75 bài khảo cổ học tiền sử, 54 bài khảo cổ học Sơ sở và Nhà nước sớm, 253 bài khảo cổ học lịch sử, 49 bài khảo cổ học Champa-Óc Eo và 15 bài khảo cổ học dưới nước.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
Tác giả: Trương Khởi Chi (Chủ biên)
- Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội
- Năm xb: 2021
- Khổ sách: 16 x 24
- Số trang: 661 trang
Sách Mười lăm bài giảng về Lịch sử Trung Quốc ra đời vào tháng 1 năm 2003, do Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh xuất bản, tới nay đã qua 11 năm. Năm 2014, các chuyên gia chấp bút cho sách này đã bắt đầu công tác bổ sung, sửa chữa, tới trung tuần tháng 6 thì kết thúc. 15 bài giảng bao gồm: 1/ Tìm kiếm một cách khoa học khởi nguồn của văn minh Trung Quốc; 2/ Xã hội cổ đại Trung Quốc và sự thay đổi triều đại; 3/ Nhìn xuyên suốt các đời “thịnh thế” ở thời Hán, Đường, Thanh; 4/ Giao thông của Trung Quốc thời cổ đại và sự truyền bá văn hóa; 5/ Quan hệ dân tộc trong lịch sử Trung Quốc; 6/ Chế độ chính trị, tuyển quan và pháp luật của Trung Quốc thời cổ đại; 7/ Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp của Trung Quốc thời cổ đại; 8/ Tư tưởng quân sự và chế độ quân sự của Trung Quốc thời cổ đại; 9/ Đời sống xã hội phong phú, nhiều màu sắc của Trung Quốc thời cổ đại; 10/ Diễn biến tư tưởng của Trung Quốc thời cổ đại; 11/ Kho báu văn học nghệ thuật của Trung Quốc thời cổ đại; 12/ Sự hình thành và phát triển của sử học Trung Quốc thời cổ đại; 13/ Suy nghĩ về khoa học kỹ thuật của Trung Quốc thời cổ đại; 14/ Những vấn đề mới trong lịch sử Trung Quốc thời cận đại; 15/ Tiến trình theo đuổi sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa đầy gập ghềnh của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
 Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9401895
Số người đang online: 9