
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2024
- Số trang: 999tr
- Khổ sách: 17 x 24cm
Trong suốt hơn một ngàn năm phát triển lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử nhất định đều có những tác gia Hán Nôm ưu tú, tiêu biểu, xuất sắc. Bao thế hệ người Việt Nam vẫn còn rung động khi đọc những áng văn thơ bất hủ như Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi…
Ở mọi thời đại, chúng ta đều đạt được những thành tựu trên nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, văn học, sử học, giáo dục, ngoại giao… Mỗi lĩnh vực đều có những đỉnh cao đáng tự hào, những tác phẩm của các bậc thiên tài ấy một phần vẫn còn được lưu giữ.
Như vậy, rất cần có một cuốn từ điển, để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về các tác gia Hán Nôm Việt Nam một cách đầy đủ và mang tính hệ thống, cũng như cập nhật những thành tựu nghiên cứu mới về vấn đề này.

- Nxb: Đại học Quốc Gia Hà Nội - 2024
- Số trang: 467tr
- Khổ sách: 16 x 24cm
Cuốn sách "Chợ Việt Xưa: Khảo cứu từ tư liệu bi ký Hán Nôm" của tác giả Đỗ Thị Bích Tuyền là một tác phẩm nghiên cứu sâu sắc về lịch sử và văn hóa chợ ở Việt Nam. Tác phẩm này nằm trong bộ "Tùng thư Văn bia Việt Nam" – một dự án hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Dự án Vietnamica của châu Âu.
Cuốn sách không chỉ là một tập hợp các tư liệu quý giá từ bi ký Hán Nôm mà còn là một công trình nghiên cứu chi tiết, phân tích về vai trò và giá trị của chợ trong xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. Với hơn 160 tài liệu được khảo cứu, tác phẩm này cung cấp một góc nhìn toàn diện và sâu sắc về hoạt động kinh tế, văn hóa, và xã hội tại các chợ xưa.

- Nxb: Mỹ Thuật - 2023
- Số trang: 285tr
- Khổ sách: 16 x 24cm
Trước hết chúng ta cần hiểu rằng quy hoạch đô thị không phải là một sự đổi mới ở Đông Dương, vì nó thực sự đã tồn tại rất lâu trước khi thuật ngữ này được ra đời tương đối gần đây. Sách “Quy hoạch đô thị và kiến trúc ở Đông Dương” là một ấn phẩm mà trong đó bạn đọc sẽ dễ dàng tìm thấy các khái niệm, nguyên tắc quy hoạch và kiến trúc cơ bản bất di bất dịch vừa mang tính kế thừa vừa sáng tạo, kết hợp nhưng không lẫn lộn giữa nền văn minh Pháp quốc và truyền thống bản địa, từ những Đại học xá Hà Nội, những ngôi nhà dành cho sĩ quan đến những toà nhà quy hoạch ở Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, cảng sông và thành phố công nghiệp. Qua mỗi trang sách, những di sản kiến trúc nổi tiếng một thời được lấy cảm hứng từ những công trình đẹp nhất của nước Pháp nhưng vẫn hoàn toàn thích nghi với khí hậu và các điều kiện sống của mỗi vùng...
- Lời giới thiệu sách Tìm hiểu Quy hoạch và Kiến trúc Đông Dương trước 1945
- Quy hoạch đô thị và các quy hoạch thành phố ở Đông Dương Các cách thức quy hoạch đô thị
- Quy hoạch đô thị ở các nước thuộc địa
- Những điều kiện quy hoạch đô thị ở Đông Dương
- Các quy hoạch và cải tạo thành phố ở Đông Dương
- Những thành tựu trong quy hoạch Hà Nội trở thành một thành phố lớn nhất.
- Công trình quy hoạch đô thị ở Nam Định
- Những thành tựu quy hoạch đô thị tại Đà Lạt
- Quy hoạch vùng Sài Gòn - Chợ Lớn
- Những khu nghỉ dưỡng trên núi cao ở Đông Dương
- Các khu nghỉ dưỡng 159 Phnom-Penh thủ đô cao miền
- Kiến trúc Đông Dương
- Miền Bắc Đông Dương
- Cảng ngoài của vùng nước sâu ở Vịnh Hạ Long
- Nỗ lực của Pháp ở Đông Dương
- Xu hướng kiến trúc hiện đại ở miền Nam Nam Kỳ Vùng Sài Gòn - Chợ Lớn.
- Chợ Lớn
- Công trình xây dựng Đại học xá Hà Nội được bắt đầu một cách hiệu quả
- Kiến trúc tôn giáo
- Hai công trình mang dấu ấn ở Cao Miên

- Nxb: Xây dựng - 2023
- Số trang: 268tr
- Khổ sách: 19 x 27cm
Để đáp ứng được nhu cầu đó, cuốn Giáo trình Vật liệu xây dựng này được biên soạn nhằm mục đích: Thứ nhất, phục vụ cho việc giảng dạy và học tập cho các ngành kỹ thuật xây dựng bậc đại học.
Thứ hai, là nguồn tài liệu cần thiết cho các cán bộ kỹ thuật các ngành liên quan đến xây dựng tham khảo, tìm hiểu các tính chất, các yêu cầu kỹ thuật, quá trình sản xuất, những đặc điểm và phạm vi sử dụng... phục vụ cho việc sử dụng, thi công và giám sát chất lượng công trình.

- Nxb: Đại học Sư phạm - 2024
- Số trang: 347tr
- Khổ sách: 16 x 24cm
Lịch sử giáo dục nghệ thuật nói chung và lịch sử giáo dục nghệ thuật thị giác nói riêng ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ thời Pháp thuộc. Giáo dục nghệ thuật thị giác trên bình diện phổ thông và chuyên nghiệp đã được người Pháp thiết kế trong chương trình giáo dục thời thuộc địa đã để lại cho chúng ta một số bài học lịch sử và thành tựu to lớn. Giáo dục nghệ thuật thị giác trở thành một trong những nội dung quan trọng của giáo dục nghệ thuật.
Cuốn sách Mỹ thuật và nghệ thuật ứng dụng ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX từ góc nhìn giáo dục nghệ thuật cung cấp những văn bản nghị định, báo cáo, các bài báo cùng với những lời bàn, bình luận để giúp độc giả hình dung một cách khái quát, hệ thống về mỹ thuật và nghệ thuật ứng dụng Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX không chỉ với tư cách là một lĩnh vực nghệ thuật mà còn là một lĩnh vực đào tạo trong chương trình giáo dục ở thuộc địa.

- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2023
- Số trang: 367tr
- Khổ sách: 16 x 24cm
Cuốn sách gốm 3 chương:
Chương 1: Có 4 bài:
- Nghệ thuật hang đá Đôn Hoàng thời kỳ Thập lục Quốc và Bắc triều;
- Nghệ thuật hang Mạc Cao đầu thời Đường;
- Nghệ thuật hang Mạc Cao hậu kỳ thời Đường;
- Nghệ thuật hang Mạc Cao thời kỳ cuối.
Chương 2: Có 3 bài:
- Đặc điểm phong cách và thành tựu nghệ thuật bích họa Đôn Hoàng thời kỳ đầu;
- Nghiên cứu bích họa thời Tùy của hang Mạc Cao;
- Sơ lược về bích họa thời sơ Đường ở hang đá Đôn Hoàng
Chương 3: Có 2 bài:
- Sơ lược về bích họa thời sơ Đường ở hang đá Đôn Hoàng;
- Áo mũ và phục sức trong bích họa Đôn Hoàng

- Nxb: Xây dựng - 2023
- Số trang: 360tr
- Khổ sách: 20 x 24cm
Ngữ pháp Kiến trúc làm cho sinh viên cũng như đông đảo công chúng dễ hiểu rất nhiều thuật ngữ kiến trúc dùng để mô tả các công trình trên khắp thế giới qua mọi thời đại. Thay vì sử dụng phương pháp truyền thống của từ điển chú giải (từ vựng) xếp theo vần chữ cái A, B, G chúng tôi chọn cách giới thiệu các chương sách theo thứ tự niên đại. Mỗi chương trong đó có hàng loạt tranh khắc rất đẹp phù hợp với lời bình chú của những người có uy tín.
Sự tiếp cận theo niên đại của Ngữ pháp Kiến trúc tạo điều kiện cho độc giả có thể đặt các yếu tố ,các hình thức, các kĩ thuật và các phong cách vào bối cảnh của chúng một cách rõ ràng. Những đoạn mở đầu giới thiệu thực tế bối cảnh tôn giáo, xã hội, chính trị hoặc kinh tế, đồng thời cũng nói đến địa điểm, công dụng, vật liệu và gợi lại vai trò của người kiến trúc sư.
Cuốn sách này bao gồm một tập từ vựng các thuật ngữ với định nghĩa ngắn gọn về những yếu tố được trình bày và được phân tích trong lời văn nên có thể hiểu được nhanh nhất. Hơn nữa, cả một phần cuốn sách giới thiệu mười yếu tố mà tất cả các nước hoặc hầu như tất cả các nước đều sử dụng trong kiến trúc của mình, đó là mái vòm, cột, tháp, cuộn và dây cuốn, cửa đi và cửa chính, cửa sổ, trán tường và hồi nhà, mái nhà, vòm, cầu thang.
Ngữ pháp Kiến trúc bắt đầu từ kiến trúc Ai Cập, mô tả các phong cách cơ bản được sử dụng trong lịch sử. Mỗi phong cách đều được phân tích tỉ mỉ trong khuôn khổ các đề mục: những cái đó được mô tả tùy theo các trường hợp những kiểu nhà, các nước hoặc sự tiên hóa lịch sử.
Những tòa nhà được coi như tiêu biểu đặc biệt cho một phong cách nào đó, chẳng hạn như Parthenon là tiêu biểu cho kiến trúc Hy Lạp, hoặc Sainte - Sophie là tiêu biểu cho kiến trúc Byzantine được hưởng sự xử lý kỹ càng nhất. Sự phong phú của các thuật ngữ kiến trúc của một thời đại được phản ánh Ở độ dài của mỗi chương. Đối với những phong cách là đối tượng nghiên cứu chi tiết, nhất là các phong cách Cổ điển (Hy Lạp, La Mã) và Goth, một hệ thống thuật ngữ kiến trúc phức tạp đã được thiết lập từ rất lâu. Vậy nên chúng được xử lí sâu.
Về những phong cách khác như Trước CỔ điển, Trước Colomb thì được đề cập lướt qua, bởi vì chúng ít được biết đến và còn hơi khó hiểu đối với người không phải là chuyên gia kiến trúc.
Ở tất cả các chương đó, những minh họa được giới thiệu từ nền nhà đến đỉnh mái, các yếu tố và những nét đặc trưng của một phong cách. Trang trí đã được khai thác trong mọi trường hợp hoặc nó làm thành một bộ phận kết hợp vào kết quả kiến trúc đòi hỏi. Phong cách cuối cùng được đề cập trong cuốn Ngữ pháp Kiến trúc này là trào lưu Pittoresco (kiểu hội hoạ, đẹp như tranh) Ở cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Ngôn ngữ kiến trúc của cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX cũng giống như của các thế hệ trước, lặp lại những mô típ trước đây. Người ta tiếp tục sử dụng những thuật ngữ truyền thống không tiến triển, mà sự chú ý hướng về các vật liệu và những phương pháp xây dựng. Chẳng hạn như, chỉ cần hiểu những thuật ngữ của kiến trúc Goth để hệ thống hóa và mô tả các tòa nhà của phong cách Tân - Goth, hoặc những cái của kiến trúc Ai Cập để nắm được các chi tiết của trào lưu Tân - Ai Cập, vả lại cuốn Ngữ pháp Kiến trúc này không định mô tả mọi mặt của lịch sử kiến trúc thế giới. Việc đó đã có Ngài Banister Fletcher lâm trong cuốn Lịch sử Kiến trúc của ông xuất bản lần đầu tiên vào năm 1896 ^Sir Bannister Fletcher. A History of Architecture bản in lần thứ 19 năm 1987 dày 1600 trang - ND), nhưng nó vẫn còn là một cuốn sách tham khảo. Cuốn Ngữ pháp Kiến trúc này có tham vọng chủ yếu là vượt qua được cuốn từ vựng truyền thống.
Trong khi bổ sung vào từ điển kiến trúc mà vẫn là đối tượng cơ bản của tác phẩm này, trong bối cảnh lịch sử của nó, cuốn Ngữ pháp Kiến trúc cho phép đi đến những điều chủ yếu mà không trả nên quá phức tạp như một số' sách lịch sử kiến trúc có thể làm. Nhờ có quan điểm đó nó vẫn dễ tiếp cận đối với những ai tìm hiểu kiến trúc, đồng thời cũng nhằm phục vụ những người muốn mở rộng sự hiểu biết của mình.
Các minh họa là phương tiện trọng đại để thành công của cuốn Ngữ pháp Kiến trúc này.
Chúng cung cấp nhiều nét và từ vựng kiến trúc của thế kỉ XVIII và XIX, cùng như các công trình nghiên cứu khảo cổ học và địa hình. Những tranh ảnh, nhất là các tranh khắc trổ trên đồng hoặc trên thép, được cải biên cho thích hợp vì nhiều lí do. Độ chính xác và sự đúng đắn mà những minh hoạ ấy đạt được hoàn toàn phù hợp với mục tiêu mà Ngữ pháp Kiến trúc nhằm vào. Nói rộng ra, các minh họa đó chuyên đề một thời đại mà lần đầu tiên đông đảo công chúng quan tâm đến kiến trúc thế giới. Nhờ có sự tiến bộ về kĩ thuật in và sao chép nghệ thuật từ đầu thế' kỉ XIX, những tác phẩm minh họa được phân thành nhiều bản và được nhiều độc giả mới đông đảo hơn và luôn thay đổi tìm xem. Trong khi đi du lịch ra nước ngoài vẫn còn khá khó khăn và tốn kém trong thời buổi này, các tác phẩm địa hình tạo khả năng hiếm có cho việc nhìn thấy những phong cảnh và các tòa nhà ở những miền xa xôi. Nhiều minh họa của Ngữ pháp Kiến trúc cung cấp các tác phẩm thuộc loại đó bằng hình ảnh tương tự, lời văn bao gồm hầu như chỉ có những lời thuyết minh. Các minh họa ấy gợi lại sự quyến rũ mà những tòa nhà đó đều là nguồn cảm hứng của các kiến trúc sư, của những người không chuyên sáng suốt, các học giả, cũng như những ông chủ công trình của thời đại. Chúng cũng gợi ra ý tưởng nghiên cứu để biết về nghệ thuật và khoa học đang làm sôi nổi tất cả trong thế kỷ XXI. Cuối cùng, và không phải là điều kém giá trị hơn của chúng, các minh họa ấy làm cho cuốn Ngữ pháp Kiến trúc trở thành một vật rất đẹp.
Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, do đó, văn hóa Việt Nam là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”. Thống nhất ở bản sắc - bản lĩnh, trong nội dung và tính chất của nền văn hóa, còn đa dạng là đa dạng trước hết ở sắc thái địa phương và sắc thái tộc người. Cuốn sách trình bày các nội dung:
Chương mở đầu: VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ PHÂN VÙNG VĂN HÓA
Nội dung gồm 3 phần:
- Văn hóa và cách tiếp cận
- Lý thuyết và khái niệm về vùng văn hóa
- Lý do và vấn đề phân định vùng văn hóa
Phần I: ĐẶC TRƯNG VÀ SẮC THÁI VÙNG Ở VIỆT NAM
Chương 1: Phân định về vùng văn hóa ở Việt Nam. Gồm 2 vấn đề: Tổng quan về địa lý, lịch sử, văn hóa việt Nam; Phác thảo về phân vùng văn hóa Việt Nam
Chương 2: Đặc trưng và sắc thái của các vùng văn hóa ở Việt Nam. Gồm 6 vấn đề: Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; Vùng văn hóa Việt Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ; Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ; Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ; Vùng văn hóa Trường Sơn và Tây Nguyên; Vùng văn hóa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ
Phần II: ĐẶC TRƯNG VÀ SẮC THÁI VĂN HÓA TIỂU VÙNG Ở VIỆT NAM
Chương 1: Phân định về tiểu vùng văn hóa ở Việt Nam
Chương 2: Đặc trưng và sắc thái văn hóa các tiểu vùng ở châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
Chương 3: Đặc trưng và sắc thái văn hóa các tiểu vùng ở miền núi Việt Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
Chương 4: Đặc trưng và sắc thái văn hóa các tiểu vùng ở Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
Chương 5: Đặc trưng và sắc thái văn hóa các tiểu vùng ở duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
Chương 6: Đặc trưng và sắc thái văn hóa các tiểu vùng ở Trường Sơn và Tây Nguyên
Chương 7: Đặc trưng và sắc thái văn hóa các tiểu vùng ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngày 26/3, tại hiện trường khai quật thuyền cổ thuộc khu phố Công Hà (phường Hà Mãn, thị xã Thuận Thành), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp Viện Khảo cổ học tổ chức hội thảo đánh giá sơ bộ kết quả khai quật thuyền cổ.

Hội thảo với sự tham gia của các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học thảo luận đóng góp ý kiến tập trung vào hai vấn đề: Nhận định, đánh giá bước đầu về giá trị di tích; đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích thuyền cổ.
Báo cáo tại hiện trường, TS. Phạm Văn Triệu, Chủ trì Đoàn khai quật cho biết: Thuyền cổ phát hiện có kích thước chiều dài 16,2m, rộng 2,25m, sâu khoảng 2,15m, chia thành 6 khoang, đáy độc mộc, trên ghép ván bằng mộng và chốt gỗ.
Hai lòng thuyền được kết nối chắc chắn với nhau ở phần mũi. Kết cấu thuyền rất đặc biệt với liên kết kiên cố, kỹ thuật ghép mộng trình độ cao, toàn bộ đinh đóng thuyền bằng gỗ, hoàn toàn không có sự tham gia của kim loại.
Quan sát thực tế, nhiều người cho rằng loại gỗ đóng thuyền là gỗ Táu mật. Hiện chưa xác định chính xác niên đại vì còn chờ kết quả phân tích mẫu Carbon - C14 (sau khoảng 20-25 ngày) và các nghiên cứu liên quan.
Mặc dù chưa có kết luận chính thức, song qua nghiên cứu hiện trường và đối chiếu so sánh nhiều nguồn tư liệu, các nhà khoa học đánh giá đây là phát hiện vô cùng giá trị, quý hiếm, độc đáo nhất trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam.
Đây có thể là 1 thuyền 2 đáy (còn gọi thuyền hai lòng hay thuyền song thân), kết cấu thuyền cực kỳ độc đáo không chỉ phạm vi trong nước mà với cả thế giới.
Để xác định quy mô, cấu trúc tổng thể và tính chất sử dụng thuyền cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu toàn diện, mở rộng phạm vi khai quật, xác định không gian cảnh quan xung quanh, tìm hiểu mối liên hệ với không gian lân cận để nhận diện giá trị, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích phù hợp.
PGS. TS Tống Trung Tín - Chủ tịch Hội khảo cổ học Việt Nam nhấn mạnh, đây là 2 con thuyền chưa từng thấy ở Việt Nam, từ vật liệu, kỹ thuật, cách đóng tàu cho đến cấu trúc, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu, mở rộng để đánh giá thật sâu sắc, nhận diện giá trị của nó, đồng thời đưa ra giải pháp bảo tồn để biết được giá trị của lịch sử văn hóa Việt Nam.
PGS.TS Bùi Minh Trí - Trung tâm Khảo cổ học dưới nước (Viện Khảo cổ học) đề xuất bảo tồn tại chỗ đối với 2 chiếc thuyền cổ và đưa hình ảnh 3D tái hiện về di tích để phục vụ du khách, người dân.
Vị trí xuất lộ dấu tích thuyền cổ nằm trên dòng sông Dâu, là một nhánh của sông Thiên Đức - sông Đuống, chảy sát với bờ thành phía tây của thành Luy Lâu, cách thành Luy Lâu khoảng 1 km, cách chùa Dâu khoảng 600 m về phía Đông Bắc và cách chùa Tổ (thờ Phật Mẫu Man Nương) khoảng 500 m theo đường chim bay.
Hiện tại, phương án tối ưu nhất được các nhà khoa học gợi mở là bảo tồn cấp thiết tại chỗ, đồng thời tiếp tục mở rộng nghiên cứu.
Nguồn: Tổng hợp
215qdkhxh00010001.pdf