Một con linh dương, một hình đơn lẻ, một gia đình nắm vòng tay — Kanniga Premjai chiếu đèn pin qua một hang động để lộ rõ các bức tranh được tin rằng định niên đại đến thời tiền sử, một phát hiện tuyệt vời của các nhà khảo cổ Thái Lan. [Credit: AFP]
Trong nhiều tháng, Kanniga và nhóm nhỏ của cô đã băng qua Công viên Quốc gia Sam Roi Yot, cách Bangkok khoảng 4 tiếng về phía tây nam, theo chân một kiểm lâm cầm mã tấu khi anh rạch một con đường xuyên qua thảm thực vật đầy gai.
Họ đã tìm kiếm khoảng 40 hang động - không may mắn - trước khi họ vấp phải một hang động nằm trên một địa hình vách đá dốc đứng.
“Tôi hét lên khi chúng tôi tìm thấy những bức tranh", cô nói với AFP, chỉ ra những cụm hình màu gỉ sét trông giống như họ đang nắm tay nhau.
Những bức tường tối ban đầu che phủ các hình khắc, nhưng việc kiểm tra cẩn thận và sử dụng ứng dụng di động — đã làm lộ ra các hình vẽ.
Kanniga nói: “Chúng có từ thời tiền sử khoảng 2-3.000 năm tuổi.
Thái Lan đã phát hiện những ngôi đền và thành phố cổ, chẳng hạn như những tàn tích ở cố đô lịch sử Ayutthaya và phía bắc Chiang Mai - nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Nhưng việc tìm kiếm các bản vẽ hang động là thách thức hơn đối với Ngành Mỹ thuật Thái Lan thiếu nhân lực, thường là do yêu cầu phải đi bộ đầy gian khổ.
Noel Hidalgo Tan, chuyên gia của trung tâm khảo cổ và mỹ thuật khu vực Đông Nam Á, cho biết: “Phần lớn công việc chính của họ chỉ là bảo tồn những gì đã tìm thấy ... và điều đó đã chiếm rất nhiều thời gian”.
"Có rất nhiều nơi ở Thái Lan vẫn chưa được khám phá."
Mất hàng thế kỷ
Người dân địa phương thường mạo hiểm vào các hang động để thu thập phân chim - hoặc phân dơi dùng làm phân bón - nhưng có thể không để ý đến tác phẩm nghệ thuật trên tường, đó là lý do tại sao nhiệm vụ của Kanniga là "tìm kiếm mọi hang động và vách đá trong công viên này".
"Chúng tôi không biết mình sẽ vấp phải điều gì", nhà khảo cổ học 40 tuổi nói khi cô chui vào các khoang bên trong của hang động.
Mặc dù chúng không phải cổ nhất của Thái Lan - danh hiệu đó thuộc về các dấu mốc được cho là từ 5-11.000 năm tuổi được tìm thấy ở phía bắc - "Động đất sét" ủng hộ giả thuyết của Kanniga rằng khu vực Sam Roi Yot từng là nơi cư trú của người tiền sử.
Khám phá hang động là niềm đam mê của Kanniga, nhưng năm nay là năm đầu tiên trong sự nghiệp kéo dài gần hai thập kỷ mà cô có thể dành thời gian và nguồn lực cho nó.
Cô là một trong ba nhà khảo cổ học giám sát sáu tỉnh thuộc Sở Mỹ thuật Ratchaburi và trước đây đã dành thời gian đánh giá các di tích lịch sử để xác định tuổi và xuất xứ.
Cô nói: “Các nhà khảo cổ nước ngoài thường chuyên về một thứ, nhưng ở Thái Lan, chúng tôi cần phải làm mỗi thứ một chút.
Việc phát hiện ra các bức hoạ vào năm 2016 bởi các nhà chức trách đang quét nhanh chu vi của Sam Roi Yot đã thúc đẩy Kanniga tiến hành các nghiên cứu sâu hơn trong khu đất chưa được lập bản đồ của công viên.
Ngày nay, công viên quốc gia nổi tiếng với khách du lịch trong nước đến thăm các bãi biển gần đó và những người thích quan sát chim ở vùng đất ngập nước.
'Tìm thấy kho báu'
Tan, một chuyên gia cao cấp về nghệ thuật hang động và đá trong khu vực, cho biết bằng chứng cho thấy những người săn bắn hái lượm đã sống ở khu vực này khoảng 3.000 năm trước.
Công viên quốc gia Rou Yot ở Thái Lan [AFP]
Tan cho biết, mặc dù tiềm năng của khu vực này, nhưng phát hiện của các nhà khảo cổ rất khó để vượt qua vương quốc bởi vì hang động không thể dễ dàng biến thành địa điểm du lịch như các ngôi đền lịch sử.
"Như một cách để bảo tồn và bảo vệ chúng, bạn cần tạo ra doanh thu nhưng nó không thể thu được nhiều."
Nhưng Kanniga vẫn không nản lòng trước những thách thức, thúc đẩy hai nhà nghiên cứu tìm kiếm những phát hiện ẩn trong những hang động chưa được khám phá trong công viên.
“Khá thú vị, nhưng nó hơi đáng sợ, đặc biệt là khi chúng tôi đang leo núi", Chananchaita Kitcho nói với AFP.
Chàng trai 23 tuổi biết ơn vì họ đã thành công trong chuyến khám phá của mình, đặc biệt là vì những cuộc leo núi khó khăn đôi khi có thể cảm thấy vô ích.
"Đầu tiên chúng tôi bị lạc. Sau đó, chúng tôi tìm thấy hang động," cô nói đùa.
Kanniga nói rằng cô vẫn còn nổi da gà khi nhìn thấy những nét vẽ nguệch ngoạc trên lớp màu đất son kể chuyện.
Cô nói: "Khi bạn tìm thấy những bức tranh, giống như bạn đang tìm thấy một kho báu. Sức hấp dẫn của khảo cổ học là bạn không bao giờ cảm thấy nhàm chán."
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2020/10/cave-raiders-thai-archaeologists-hunt.html
Author: Dene-Hern Chen | Source: AFP [October 06, 2020]
Trong một vài thập kỉ qua, có nhiều sự quan tâm đến nguồn gốc và sự phát triển của các nền kinh tế tiền Colombia ở Amazon. Tuy nhiên, rất hiếm các di cốt người trong thời kỳ này đã hạn chế hiểu biết của chúng ta về sự đóng góp của thực vật, động vật trên cạn và cá vào khẩu phần ăn cá nhân và do đó, vai trò của chúng trong việc hỗ trợ tăng trưởng dân số và thay đổi văn hóa ở khu vực này trước khi tiếp xúc với châu Âu.
Nghiên cứu mới này, được công bố trên tạp chí Scientific Reports, đã sử dụng phân tích đồng vị bền (stable isotopic analysis)và Mô hình hỗn hợp Bayes để tái hiện lại chế độ ăn của những cư dân Brazil sống dọc theo bờ biển Amazon từ 1.000 đến 1.800 năm trước.
Mặc dù gần gũi với các nguồn tài nguyên biển và có bằng chứng đánh bắt cá, nhưng chế độ dinh dưỡng chủ yếu dựa trên thực vật và động vật trên cạn. Động vật có vú và thực vật trên cạn là nguồn cung cấp calo chính. Động vật trên cạn cũng là nguồn cung cấp protein chính trong khẩu phần, so với cá.
Colonese cho biết: “Các kết quả trên đặt ra câu hỏi về giả thuyết phổ biến rằng cá là thành phần kinh tế chính và là nguồn cung cấp protein lớn nhất trong các quần thể tiền Colombia sống gần các môi trường thủy sinh ở vùng thung lũng Amazonia”. Ông cũng cho biết thêm: kết quả trên cho thấy các quần thể người này đã dành những nỗ lực đáng kể cho việc săn bắn, quản lý rừng và trồng trọt.
"Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thông tin định lượng chưa từng có về mức độ mà các loại thực ăn khác biệt từ các hệ thống nông lâm kết hợp đáp ứng các yêu cầu về calo và protein của các quần thể dân số ở Amazon trong giai đoạn tiền Colombia, đồng thời chứng thực sự đồng thuận ngày càng tăng đó là các phương thức sinh kế đa dạng này đã thúc đẩy các biến đổi về văn hóa, nhân khẩu học và môi trường ở phía đông lưu vực sông Amazon trong giai đoạn Holocen muộn. "
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2020/10/diet-of-pre-columbian-societies-in.html
Source: Autonomous University of Barcelona [October 06, 2020]
Israel Antiquities Authority]
Nghiên cứu mới trên cũng cho thấy di chỉ này có thể đã tạo ra việc sử dụng lần đầu tiên trên thế giới một bộ máy mang tính cách mạng: lò nung. Nghiên cứu được thực hiện bởi Giáo sư Erez Ben-Yosef, Dana Ackerfeld và Omri Yagel thuộc Khoa Khảo cổ học Jacob M. Alkow và các nền văn minh Cận Đông cổ tại Đại học Tel Aviv, cùng Tiến sĩ Yael Abadi-Reiss, Talia Abulafia, và Dmitry Yegorov của Cơ quan Cổ vật Israel và Tiến sĩ Yehudit Harlavan thuộc Cơ quan Khảo sát Địa chất Israel. Các kết quả nghiên cứu đã được công bố trực tuyến trên Tạp chí Khoa học Khảo cổ học: Các Báo cáo.
Theo bà Abulafia, Chủ trì cuộc khai quật, đại diện cho Cơ quan Quản lý Cổ vật Israel: "Cuộc khai quật đã tiết lộ bằng chứng về sản xuất trong nước từ thời kỳ Đồng Đá (Chalcolithic period), khoảng 6.500 năm trước. Những phát hiện đáng ngạc nhiên này bao gồm một xưởng nhỏ để luyện đồng với các mảnh lò nung - một bộ phận gắn nhỏ bằng thiếc trong đó quặng đồng được nấu chảy - cũng như rất nhiều xỉ đồng. "
Mặc dù việc gia công kim loại đã có bằng chứng trong thời kỳ Đồng Đá, nhưng các công cụ sử dụng này vẫn được làm bằng đá. (Bản thân từ "chalcolithic" kết hợp của các từ Hy Lạp có nghĩa là "đồng" và "đá".) Phân tích các đồng vị của tàn tích quặng trong các mảnh lò cho thấy quặng thô được đưa đến vùng lân cận Neveh Noy từ Wadi Faynan , thuộc Jordan ngày nay, cách Beer Sheva hơn 100 km.
Israel Antiquities Authority
Trong thời kỳ Đồng Đá, khi đồng lần đầu tiên được tinh chế, quá trình này được thực hiện ở xa các mỏ, không giống như mô hình lịch sử phổ biến: các lò được xây dựng gần các mỏ vì do tính kinh tế và thực tiễn. Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng nguyên nhân là do việc bảo mật bí mật công nghệ.
"Điều quan trọng để hiểu rằng việc tinh luyện đồng là công nghệ cao của thời kỳ đó. Không có công nghệ nào phức tạp hơn công nghệ này trong toàn bộ thế giới cổ đại", GS Ben-Yosef nói. "Ném những cục quặng vào lửa sẽ khiến bạn chẳng đi đến đâu. Bạn cần có kiến thức nhất định để xây dựng những lò nung đặc biệt có thể đạt nhiệt độ rất cao trong khi vẫn duy trì mức oxy thấp."
Giáo sư Ben-Yosef lưu ý rằng khảo cổ khu vực Israel cho thấy bằng chứng của nền văn hóa Ghassulian. Văn hóa này được đặt tên cho Tulaylat al-Ghassul, địa điểm khảo cổ ở Jordan, nơi nền văn hóa lần đầu tiên được xác định. Nền văn hóa này, trải dài khắp khu vực từ Thung lũng Beer Sheva đến miền nam Lebanon ngày nay, rất khác lạ đối với những thành tựu nghệ thuật và các đồ tuỳ táng, là bằng chứng bởi những hiện vật bằng đồng được phát hiện tại Nahal Mishmar và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Israel ở Jerusalem.
Xỉ đồng được tìm thấy tại cuộc khai quật Neveh Noy ( Ảnh: Anat Rasiuk, Israel Antiquities Authority]
Theo Giáo sư Ben-Yosef, những người sống trong khu vực mỏ đồng này đã giao thương với các thành viên của nền văn hóa Ghassulian từ Beer Sheva và bán quặng cho họ, nhưng bản thân họ không có khả năng sản xuất công nghệ này. Ngay cả trong số các khu định cư Ghassulian dọc theo Wadi Beer Sheva, đồng đã được tinh chế bởi các chuyên gia trong các xưởng chuyên biệt. Một phân tích hóa học về tàn tích chỉ ra rằng mỗi phân xưởng đều có "công thức" đặc biệt riêng, không chia sẻ với các đối thủ cạnh tranh. Dường như trong giai đoạn đó, Wadi Beer Sheva có nhiều nước quanh năm, tạo nên vị trí thuận lợi cho việc nấu chảy đồng, ở đó các lò nung và các thiết bị khác được làm bằng đất sét.
Giáo sư Ben-Yosef lưu ý thêm rằng, ngay cả trong các khu định cư thời kỳ Đồng Đá sở hữu cả công cụ bằng đá và đồng, bí mật của kim loại có ánh kim vẫn được nắm giữ bởi rất ít thành viên của một tầng lớp ưu tú. "Vào đầu cuộc cách mạng luyện kim, bí mật về gia công kim loại được các chuyên gia giữ kín. Trên khắp thế giới, chúng tôi thấy các khu của thợ kim loại trong các khu định cư thời Chalcolithic, giống như khu phố mà chúng tôi tìm thấy ở Beer Sheva."
Nghiên cứu đã thảo luận câu hỏi về mức độ xã hội này đã được phân cấp hay phân tầng xã hội, vì xã hội chưa được đô thị hóa. Các nhà khoa học cho rằng những phát hiện từ Neveh Noy củng cố giả thuyết về sự phân tầng xã hội. Xã hội dường như bao gồm một tầng lớp ưu tú được xác định rõ ràng sở hữu chuyên môn và bí mật nghề nghiệp, họ bảo tồn sức mạnh của mình bằng cách trở thành nguồn độc quyền cho đồng ánh kim. Các hiện vật bằng đồng không được tạo ra để sử dụng, thay vào đó phục vụ một số mục đích nghi lễ và do đó có giá trị biểu trưng. Ví dụ, chiếc rìu đồng không được dùng làm rìu. Đó là một vật thể nghệ thuật và / hoặc tiêu biểu được mô phỏng theo đường nét của một chiếc rìu đá. Các đồ vật bằng đồng có lẽ được sử dụng trong các nghi lễ trong khi các đồ vật hàng ngày được sử dụng tiếp tục làm bằng đá.
Đại học Tel Aviv thí nghiệm để tái hiện công nghệ nấu chảy đồng 6.500 năm tuổi ở Beersheba, June 25, 2020
(Ảnh: Central Timna Valley Project]
Giáo sư Ben-Yosef cho biết: “Vào giai đoạn đầu tiên của quá trình sản xuất đồng của con người, các nồi nấu kim loại được sử dụng nhiều hơn lò nung”. "Chiếc bình gốm nhỏ này, trông giống như một cái chậu hoa, được làm bằng đất sét. Nó là một dạng lò than di động . Đây, tại công xưởng Neveh Noy được phát hiện bởi Cơ quan Cổ vật Israel, chúng tôi thấy rằng công nghệ này được xây dựng trên những lò luyện thật. Điều này cung cấp bằng chứng rất sớm về việc sử dụng lò trong luyện kim, đồng thời tăng khả năng đó là lò đã được phát minh ở vùng này.
GS. Ben-Yosef tiếp tục , “Cũng có thể lò nung được phát minh ở nơi khác, trực tiếp từ luyện kim dựa trên nồi nấu kim loại, bởi vì một số nhà khoa học coi những lò nung ban đầu không hơn gì những nồi nấu kim loại lớn được chôn trong đất, “ Cuộc tranh luận sẽ chỉ được giải quyết bằng những phát hiện trong tương lai, nhưng chắc chắn rằng Beer Sheva cổ đại đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng kim loại toàn cầu và vào thiên niên kỷ thứ năm trước Công nguyên, thành phố này là trung tâm kĩ nghệ cho cả khu vực này. "
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2020/10/6500-year-old-copper-workshop-uncovered.html
Bối cảnh khí hậu và dịch tễ học cho thấy bệnh ghẻ cóc do nhiễm xoắn khuẩn Treponema pallidum pertenue là nguyên nhân phổ biến nhất. Bằng chứng trên được phát hiện muộn nhất ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và là một ví dụ điển hình đầu tiên giai đoạn tiền Columbia trong khu vực này dựa vào chẩn đoán và định niên đại chính xác. Sinh thái biển, lối sống ít di động, và tỷ lệ sinh sản cao ở di chỉ Mán Bạc, tất cả đã tạo ra sự tương tác giữa các yếu tố sinh học và xã hội thuận lợi cho việc lây lan bệnh ghẻ cóc giữa các cư dân thuộc di chỉ này. Cùng với đó là sự mắc bệnh thiếu vitamin C (scurvy) ở cả hai cá thể trên chỉ ra rằng sự suy dinh dưỡng trong suốt quá trình chuyển tiếp nông nghiệp có thể trầm trọng hơn và biểu hiện bệnh ghẻ cóc ở cộng đồng này.
Mán Bạc là một di chỉ vùng quan trọng bởi vì nó nằm trong ranh giới giai đoạn chuyển tiếp Đá Mới của Đông Nam Á lục địa. Trong suốt bước chuyển này, khoảng 4000 năm cách đây, các cư dân nông nghiệp di cư từ miền nam Trung Quốc vào Đông Nam Á đã ảnh hưởng nhiều thay đổi trong phương thức sinh kế, dân số, và mang theo bệnh nhiễm trùng mới tiềm ẩn như là bệnh ghẻ cóc vào các cộng đồng nông nghiệp bản địa . Các phát hiện trình bày trên đây hi vọng sẽ là khởi đầu đánh giá lại về sự tồn tại các di cốt Đông Nam Á và minh họa tầm quan trọng của việc sử dụng tiêu chí chẩn đoán tin cậy về các trường hợp bệnh ghẻ cóc cho nghiên cứu tiếp theo.
Hình 1. Tư thế mộ và các đồ tuỳ táng: 05.MB.M20 (trái) 07.MB.M 29 (phải)
05.MB.M20 : nam 15-29 tuổi
07.MB. H2.M29: trẻ 7 tuổi.
Cả hai cá thể được chôn nằm thẳng, các xương tương đối tốt, ngoại trừ phần xương sọ của mộ M29 đã bị mất. (Ảnh :M.Oxenham).
Hình 2. Biểu hiện các tổn thương liên quan đến bệnh nhiễm khuẩn ở cá thể 05.MB. M20. Các xương còn lại được thể hiện bằng đường viền đen, các xương vắng mặt thể hiện bởi đường viền xám sáng. Phạm vi của nguyên bào xương được thể hiện bằng phần điền màu xám đen. ( Ảnh: M. Vlok).
Hình 3. Biểu hiện các tổn thương liên quan đến bệnh nhiễm khuẩn ở cá thể 07.MB. M29. Các xương còn lại được thể hiện bằng đường viền màu đen, các xương vắng mặt được thể hiện bằng đường xám sáng.Pham vi của các tổn thương nguyên bào xương được điền bằng màu xám đen. ( Ảnh: M. Vlok)
Hình 4. Sự biểu hiện các tổn thương liên quan đến bệnh dinh dưỡng ở cá thể 07.MB.M29. Các xương có mặt được thể hiện bằng đường màu đen, các xương vắng mặt được thể hiện bằng đường màu xám sáng. Pham vi của các tổn thương nguyên bào xương có thể liên quan đến bệnh dinh dưỡng được điền bằng màu xám đen.
Hình 5. Các tổn thương đại thể là các dấu hiệu chẩn đoán và chẩn đoán tin cậy cho bệnh ghẻ cóc ở M29 và M20. (Ảnh:M.Vlok)
Sinh lí bệnh học của bệnh ghẻ cóc ở cá thể M29 và M20
Sự có mặt của tổn thương gôm (gôm: tổn thương nổi cao hình bán cầu, to bằng hoặc hơn hạt ngô, tiến triển thường loét và để lại sẹo cũng giống như cục, nhưng phát triển hàng tháng và trải qua bốn giai đoạn: cứng, mềm, loét và thành sẹo) ở M29 và M20 là dấu hiệu chẩn đoán tin cậy cho bệnh ghẻ cóc ở cộng đồng sơ kì Đá mới, và do đó, đủ bằng chứng cho thấy bệnh ghẻ cóc giai đoạn Tiền Comlumbia bên ngoài châu Mĩ, và thể hiện các trường hợp cổ nhất trong vùng Châu Á – Thái Bình Dương.
Sự có mặt của dấu hiệu Hi - goumenakis ở M 29 được qui cho sự khởi phát muộn của dạng bẩm sinh bệnh gây ra bởi xoắn khuẩn được gợi ý cho khả năng truyền nhiễm qua nhau thai trong trường hợp này. Mặc dù hiếm gặp, nhưng sự lây nhiễm của ghẻ cóc qua nhau thai đã được ghi nhận (Engelhardt 1959).
Trẻ em thường không phát triển tổn thương gôm, nhưng chúng cũng được ghi nhận xảy ra đối với ghẻ cóc (Hackett 1951). Dựa trên tuổi của cá thể M 20, có thể sự nhiễm trùng ban đầu diễn ra trong cuối giai đoạn trẻ nhỏ bước sang thanh thiếu niên, do đó phù hợp về mặt dịch tễ học đối với tất các bệnh xoắn khuẩn.
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
- Melandri Vlok, Marc Oxenham, Kate Domett, Tran Thi Minh, Thi Mai Huong Nguyen, Hirofumi Matsumura, Hiep Hoang Trinh, Thomas Higham, Charles Higham, Nghia Truong Huu, Hallie Ruth Buckleya. Two Probable Cases of Infection with Treponema pallidum during the Neolithic Period in Northern Vietnam (ca. 2000–1500 B.C.). Bioarchaeology International, 2020; 4 (1): 15 DOI: 10.5744/bi.2020.1000
Xử lí các mộ táng tại di chỉ Mán Bạc, Ninh Bình, Việt Nam. Ảnh chụp bởi Đại học Otago, Newzealand.
Bệnh ghẻ cóc- được gây nên từ cùng một loài vi khuẩn gây bệnh giang mai (Treponema pallidum) - là một bệnh ở trẻ em gây ra các tổn thương da có tính lây nhiễm cao. Nó lây lan qua tiếp xúc từ người sang người và trong những trường hợp nặng có thể khiến người bệnh bị biến dạng xương nghiêm trọng. Mặc dù có thể dễ dàng chữa khỏi ở các giai đoạn đầu, nhưng các biến dạng xương không thể phục hồi được.
Nghiên cứu sinh Khoa Giải phẫu Đại học Otago, Melandri Vlok cho biết:
Căn bệnh này đã được loại trừ khỏi nhiều nơi trên thế giới nhưng vẫn còn phổ biến ở Tây Thái Bình Dương, ảnh hưởng đến khoảng 30.000 người. Một nỗ lực toàn cầu trước đây nhằm xóa bỏ căn bệnh nhiệt đới này đã thất bại ở rào cản cuối vào những năm 1950 và một nỗ lực mới đã bị hạn chế bởi sự bùng phát COVID-19
Luận án tiến sĩ của Melandri Vlok sử dụng khảo cổ học để làm sáng tỏ sự lây lan của dịch bệnh khi các quần thể người khác nhau tương tác lần đầu tiên. Mối quan tâm đặc biệt của Vlok là về cái mà cô gọi là "vùng ma sát" - ở đó những cư dân nông nghiệp cổ gặp những người săn bắn hái lượm.
Năm 2018, Vlok đã đến Việt Nam để nghiên cứu các di cốt người thuộc di chỉ Mán Bạc. Địa điểm Mán Bạc thuộc tỉnh Ninh Bình – phía bắc Việt Nam được khai quật vào năm 2005 và 2007 đã cung cấp một lượng thông tin quí cho các nhà khảo cổ học nhờ vai trò của nó trong bước chuyển từ săn bắn hái lượm sang trồng trọt ở khu vực Đông Nam Á lục địa.
Vlok cho biết: Các di cốt hiện nay đang được lưu giữ tại Viện Khảo cổ học Hà Nội, mặc dù đã được nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng chúng chưa được phân tích để tìm bằng chứng về bệnh ghẻ cóc.
Vlok cũng cho hay: Giáo sư hướng dẫn của cô tại Đại học Otago, nhà khảo cổ sinh học nổi tiếng - Giáo sư Hallie Buckley, đã suy nghĩ những gì mà bà nhìn thấy trên một bức ảnh về các di cốt Mán Bạc có thể là bệnh ghẻ cóc. Vì vậy, Hallie đã đi cùng Vlok và cùng làm việc với một nhóm chuyên gia nhiệt huyết thuộc Viện khảo cổ học, họ đã xác nhận những nghi ngờ của mình. Sau đó, Vlok tìm thấy một ví dụ thứ hai về căn bệnh này.
Điều này rất quan trọng, vì địa điểm Mán Bạc có niên đại 4000 năm trước. Cho đến nay, không có bằng chứng chắc chắn về bệnh ghẻ cóc ở châu Á thời tiền sử.Nghiên cứu của Vlok cho thấy rằng bệnh ghẻ cóc đã xuất hiện ở những người săn bắn hái lượm ở Việt Nam hiện đại bởi một nhóm dân nông nghiệp di cư từ Trung Quốc hiện đại về phía nam. Các cư dân săn bắn hái lượm này là hậu duệ của những người đầu tiên rời khỏi châu Phi và vào châu Á, họ là những người dần dần cũng sinh sống ở New Guinea, quần đảo Solomon và châu Úc.
Những cư dân nông nghiệp này đã ở Trung Quốc ít nhất 9000 năm nhưng phải đến khoảng 4000 năm trước, nghề nông mới được du nhập vào Đông Nam Á. Có thể đồng thời sự di chuyển của các cư dân này đã mang đến các bệnh trong đó có bệnh ghẻ cóc
Vlok cho biết khoảng thời gian mà căn bệnh này tồn tại trong khu vực có liên quan khi đề cập đến việc giải quyết mức độ khó như thế nào để diệt trừ nó.
"Vấn đề này rất quan trọng, bởi vì hiểu thêm về căn bệnh trên và sự tiến hóa của bệnh, điều này sẽ thay đổi cách chúng ta hiểu mối quan hệ của con người với nó, giúp chúng ta hiểu tại sao nó lại khó diệt trừ. Nếu nó tồn tại với chúng ta hàng nghìn năm, nó có thể đã phát triển rất phù hợp với con người. "
Đại dịch COVID-19 năm nay đã thu hút sự chú ý của mọi người vào các bệnh truyền nhiễm, và có những bài học cần rút ra từ quá khứ, Vlok nói.
“Khảo cổ học như trên là cách duy nhất để ghi lại thời gian một căn bệnh đã tồn tại với con người và thích nghi với chúng ta như thế nào. Hiện nay, với COVID-19, chúng tôi hiểu rằng virus đó có khả năng thích nghi với con người tuyệt vời như thế nào. Và xoắn khuẩn gây ghẻ cóc đã ở cùng chúng ta lâu hơn nhiều.”
"Vì vậy, điều này cho thấy điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta không hành động với những căn bệnh trên. Đó là một bài học về những gì các bệnh truyền nhiễm có thể gây ra cho một quần thể dân số nếu con người để chúng lây lan rộng rãi. Nó nhấn mạnh sự cần thiết phải can thiệp, bởi vì đôi khi những vi khuẩn, virus này rất giỏi trong việc thích nghi với con người, trong việc lây lan từ người sang người. "
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
2. https://www.sciencedaily.com/releases/2020/09/200921091535.htm
3. https://www.otago.ac.nz/news/news/otago744185.html
4.https://whatnext.pl/choroby-zakazne-towarzysza-nam-od-dawna/
5.https://israel.timesofnews.com/political/archaeology-uncovers-infectious-disease-spread.html
6.https://www.odt.co.nz/news/dunedin/ancient-bones-tell-timely-tale
7.https://www.express.co.uk/news/science/1338488/archaeology-news-research-how-ancient-pandemics-spread-coronavirus-news
8.https://revistagalileu.globo.com/Ciencia/noticia/2020/09/bacteria-que-causa-sifilis-ja-circulava-no-sudeste-asiatico-ha-4-mil-anos.html
9.https://es.digitaltrends.com/salud/evidencia-enfermedades-infecciosas/
10.https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2020/09/archaeology-uncovers-infectious-disease.html?utm_source=dlvr.it&utm_medium=twitter
Căn cứ Hướng dẫn số 147- HD/BTGTW ngày 25/8/2020 của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc Hướng dẫn báo chí tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm) hướng dẫn các đơn vị tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X (Đại hội) năm 2020 với các nội dung sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Tuyên truyền cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn Viện Hàn lâm nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước và tổ chức thành công Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, góp phần củng cố niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cách mạng cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Viện Hàn lâm, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của đất nước.
- Thông qua tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn thể đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Viện Hàn lâm phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; gắn tuyên truyền với các phong trào thi đua “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử, chính trị quan trọng của đất nước, của đơn vị.
- Công tác tuyên truyền cần đảm bảo đúng định hướng chính trị, tư tưởng; tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng; đảm bảo chất lượng, hiệu quả, tạo sức lan tỏa trong toàn Viện Hàn lâm.
II. NỘI DUNG
Nội dung tuyên truyền chia thành 03 đợt, căn cứ theo thời gian tổ chức Đại hội. Cụ thể là:
1. Tuyên truyền trước Đại hội
- Tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trong tình hình mới; các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo Đại hội ; tuyên truyền về vị trí, vai trò của thi đua yêu nước trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
- Tuyên truyền công tác chuẩn bị Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X.
2. Tuyên truyền trong Đại hội
- Tuyên truyền diễn biến và nội dung chính của Đại hội; giới thiệu các tập thể, cá nhân tiêu biểu tại Đại hội; chú trọng tuyên truyền những kinh nghiệm hay, bài học quý của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, điển hình tiên tiến.
- Tuyên truyền những kết quả nổi bật của các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng trên các lĩnh vực trong 05 năm 2015-2020; phương hướng, nhiệm vụ của phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai đoạn 2020-2025.
- Thông tin, tuyên truyền các hoạt động, sự kiện diễn ra trong thời gian tổ chức Đại hội.
3. Tuyên truyền sau Đại hội
- Tuyên truyền kết quả, thành công của Đại hội gắn với kết quả thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
- Tuyên truyền các hoạt động chào mừng thành công của Đại hội.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Căn cứ Kế hoạch tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020 của Viện Hàn lâm, các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm mở các chuyên trang, chuyên mục trên website của đơn vị, triển khai tổ chức công tác tuyên truyền Đại hội với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; Trung tâm Ứng dụng Công nghệ thông tin mở các chuyên trang, chuyên mục trên website của Viện Hàn lâm để tuyên truyền cho Đại hội một cách bài bản, khoa học.
- Ban Tổ chức - Cán bộ chủ động cung cấp các tài liệu tuyên truyền của Đại hội theo yêu cầu của Ban Tuyên giáo Trung ương để tuyên truyền trên website của đơn vị, của Viện Hàn lâm.
Trên đây là Kế hoạch tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020 của Viện Hàn lâm, đề nghị các đơn vị nghiêm túc triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, các đơn vị liên hệ với chuyên viên phụ trách công tác thi đua, khen thưởng Ban Tổ chức - Cán bộ (số điện thoại: 024.62663305) để được hướng dẫn.
Gửi kèm Hướng dẫn này là Đề cương tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X để các đơn vị triển khai tuyên truyền./.
Nơi nhận: - Chủ tịch Viện Hàn lâm (để b/c); - Các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm; - Lưu: VT, TCCB. |
KT. CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH Đặng Xuân Thanh (đã ký) |
http://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Huong-dan-tuyen-truyen-Dai-hoi-Thi-dua-yeu-nuoc-toan-quoc-lan-thu-X-nam-2020-o-Vien-Han-lam-Khoa-hoc-xa-hoi-Viet-Nam-26
Hướng tới Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020
Ngày 7/8/2020, Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Hướng dẫn số 145-HD/BTGTW về hướng dẫn tuyên truyền Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X năm 2020. Cổng thông tin điện tử Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đã giới thiệu toàn văn bản hướng dẫn. Chi tiết xem link đính kèm.https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Huong-toi-Dai-hoi-Thi-dua-yeu-nuoc-toan-quoc-lan-thu-X-nam-2020-25
- Nxb: Khoa học xã hội - 2020
- Khổ sách: 19x27 cm
- Số trang: 902 trang
Hội nghị Thông báo những phát hiện mới về Khảo cổ học là hoạt động khoa học hàng năm của ngành Khảo cổ học cả nước, là sự kiện nổi bật gắn với lịch sử hình thành và phát triển của khảo cổ học nước nhà hơn nửa thế kỷ qua. Hội nghị có ý nghĩa to lớn trong việc trao đổi thông tin khoa học, tranh luận học thuật, đánh giá giá trị di sản văn hóa, hướng tới hợp tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Như thường lệ, đây là cuốn kỷ yếu của Hội nghị thông báo Khảo cổ học năm 2019 do Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội. Nội dung gồm 360 bài viết của các tác giả khác nhau thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học trên toàn quốc trong năm 2019: gồm 95 bài viết về khảo cổ học Tiền sử, 206 bài tham luận về khảo cổ học Lịch sử, 43 bài viết về khảo cổ học Champa - Óc Eo, 11 bài viết về khảo cổ học dưới nước và có 5 bài viết về các hoạt động chung của các cơ quan nghiên cứu khảo cổ.
Xin trân trọng giới thiệu!
- Nxb: Khoa học xã hội - 2020
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 447 tr
Sách do Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Trung tâm tại Hà Nội tổ chức bản thảo và xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội vào những ngày đầu xuân Canh Tý 2020. Sách có kích thước: 16 x 24cm, 447 trang gồm bản text và hình ảnh minh họa.
Lịch sử Vương quốc Champa của Georges Maspero bằng tiếng Pháp, do nhà Xuất bản Van Oest (Brussels và Paris) tái bản lần thứ nhất vào năm 1928. So với bản đầu tiên được đăng tải nhiều kỳ trên T’oung Pao (tạp chí về Trung Quốc học) ở Hà Lan trong các năm từ 1910-1913, bản này có một số sửa chữa dựa trên những kết quả nghiên cứu mới. Vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, bản này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) chọn để dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, bản dịch đó mới chỉ dừng lại dưới dạng tư liệu tham khảo, phục vụ cho một đối tượng nghiên cứu hẹp, chưa được hoàn thiện và phổ biến rộng rãi.
Vương quốc Champa được viết và xuất bản bằng tiếng Pháp cách đây gần một thế kỷ nhưng các giá trị tư liệu về mặt lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, dân tộc học, khảo cổ học vẫn rất có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu và nghiên cứu về Champa.
Cuốn sách ngoài phần nội dung dịch chính còn có các lời tựa, lời giới thiệu, của hai cơ quan và đặc biệt, phần bản dịch tiếng Việt được gắn thêm Chương 1 của lần xuất bản đầu tiên (1909) vốn không có trong bản tái bản năm 1928 mà Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã dịch ra tiếng Việt. Trong bản dịch tiếng Việt lần này, phần chú thích cũng được đánh số thứ tự theo từng chương và đặt ở cuối mỗi chương.
Phần nội dung chính của cuốn sách gồm 10 chương:
Chương I: XỨ SỞ VÀ DÂN CƯ. Xứ sở, thực vật, động vật và dân cư. – Tôn giáo. – Đẳng cấp và thị tộc. – Vua và triều đình. – Các đơn vị hành chính và quan lại cấp tỉnh. – Lục quân và hải quân. – Thuế khóa. – Tư pháp. – Phong tục: Cưới xin và Ma chay. – Lịch và hội hè hàng năm. – Nông nghiệp và thương mại. – Tiền tệ. – Thủ công nghiệp. – Kiến trúc và đền đài. – Âm nhạc và văn học.
Chương II: NGUỒN GỐC. Truyền thuyết. – Sự giao thiệp đầu tiên với Trung Quốc. – Ҫri Mara và sự hình thành lãnh thổ. – Vương triều I (192-336). – Nước Lâm Ấp. – Vương triều II (336-420). – Bhadravarman I và ngôi đền trong thung lũng Mỹ Sơn.
Chương III: LÂM ẤP. Vương triều III (420-528). – Phạm Dương Mại và việc Đàn Hòa Chi chiếm đóng Champa (466). – Vương triều IV (529-757). – Ҫambhuvarman và chiến dịch của Lưu Phương (605). – Xây lại đền Mỹ Sơn.
Chương IV: NƯỚC HOÀN VƯƠNG VÀ BÁ QUYỀN CỦA PANDURANGA. Vương triều V (758-859). – Virapura, Kinh đô Champa. – Những cuộc xâm lấn của Mã Lai năm 774 và 787.
Chương V: VƯƠNG QUỐC CHAMPA. Vương triều VI: "Vương triều Indrapura" (875-991). – Indrapura thủ đô của Champa. – Rajendravarman II, vua Khmer (945-946) xâm lược Champa. – Lê Hoàn, vua Đại Cồ Việt chinh phạt Indrapura (982). – Vương triều VII, vương triều thứ nhất ở Vijaya (991-1044). – Vijaya, thủ đô của Champa (1000). – Phật Mã, vua Đại Cồ Việt chinh phạt Vijaya (1044).
Chương VI: NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH VỚI ĐẠI VIỆT. Vương triều VIII (1044-1074). – Rudravarman III bị vua Lý Thánh Tông bắt làm tù binh (1069). – Ba tỉnh phía Bắc nhập vào Đại Việt (1069). – Vương triều IX (1074-1139). – Harivarman IV cất quân đi đánh Cao Miên
Chương VII: NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH VỚI KHMER. Vương triều X: 1139-1145. – Vương triều XI: 1147. – Suryavarman II, vua Khmer, ở Cao Miên. – Jaya Indravarman IV đánh Cao Miên, 1172. – Cao Miên xâm lăng và nước Champa bị chia làm hai tiểu quốc. – Suryavarman tái lập và thống nhất. – Champa là một tỉnh của Khmer, 1203-1220. – Jaya Parameҫvaravarman II khôi phục lại Vương triều XI, 1220.
Chương VIII: NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH VỚI NGUYÊN MÔNG. Vương triều XI (tiếp). – Indravarman VI và người Nguyên Mông, 1278-1285. – Jaya Sinhavarman III nhường cho Đại Việt hai châu Ô, Lý, 1306.
Chương IX: THỜI KỲ CỰC THỊNH. Sự suy vong của Vương triều XI. – Jaya Sinhavarman IV và Chế Năng. Vương triều XII: 1318. – Triều vua Chế Bồng Nga, 1360-1390.
Chương X: SUY TÀN VÀ DIỆT VONG. Vương triều XIII (1390-1458). – Jaya Sinhavarman V. –- Mahã-Vijaya và việc người Đại Việt chiếm thành Vijaya (1446). – Vương triều XIV (1458-1471). – Lê Thánh Tông xâm lược Champa (1471).
Phần phụ lục giới thiệu về tên phả các triều vua Champa; bài dẫn luận của G.Maspero trong cuốn Vương quốc Champa (xuất bản năm 1910); bài giới thiệu cuốn Vương quốc Champa (xuất bản năm 1928) của Louis Finot và đặc biệt là các hình ảnh minh họa được Georges Maspero in trong bản tiếng Pháp năm 1928.
Xin trân trọng giới thiệu!
- Nxb: Khoa học xã hội - 2019
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 568 tr
Tây Sơn Thượng đạo là tên gọi vùng đất phía trên đèo An Khê, gồm toàn bộ thị xã An Khê và địa bàn các huyện Kbang, Kông Chro, Đak Pơ ngày nay.
Đây chính là vùng đất khởi phát của phong trào Tây Sơn do ba an hem Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, sau gần hai thập kỷ, đã phát triển thành một phong trào nông dân rộng lớn, lật đổ các tập đoàn thống trị ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, xóa bỏ sự chia cắt đất nước, đập tan các cuộc xâm lược của phong kiến Xiêm và Mãn Thanh, làm nên một sự nghiệp đáng tự hào, đồng thời cũng đặt ra cho hậu thế nhiều vấn đề, nhiều khoảng trống trong nghiên cứu, mà một trong số đó là Tây Sơn Thượng đạo, “một hiện tượng lịch sử hết sức đặc biệt”
Cuối năm 2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Tây Sơn Thượng đạo trong khởi nghĩa Tây Sơn”.
Cuốn sách được xuất bản trên cơ sở tuyển chọn các bài viết gửi tới hội thảo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Nội dung cuốn sách gồm 2 phần:
Phần thứ nhất: Vai trò của Tây Sơn Thượng đạo đối với khởi nghĩa Tây Sơn
Phần thứ hai: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Tây Sơn Thượng đạo.