Các di vật gồm chủ yếu là đồ đá và đồ gốm, đồ kim loại rất hiếm. Đồ đá đã phát hiện được các di vật như: tượng, khuôn đúc đồ trang sức, đồ trang sức, công cụ lao động. Đồ gốm thu được số lượng khá lớn, đa số là các mảnh vỡ của các loại hình bình kendi, bình-vò, nồi, cà ràng, nồi nấu kim loại, … Ngoài ra còn thu được một số đồ gốm Trung Quốc có niên đại từ thời Hán đến thời Tùy - Đường, đặc biệt là đồ gốm Tây Á (gốm Islam) có niên đại khoảng thế kỷ thứ VII - VIII và gốm Thái Lan, thế kỷ XI - XII.
Kết quả khai quật lần này đã mang lại những nhận thức mới về khu di tích như sau:
- Di tích Nền Chùa còn nhiều tiềm năng khai quật, nghiên cứu khảo cổ học
- Về niên đại, di tích Nền Chùa được cho là phát triển qua 2 giai đoạn: lớp văn hóa cư trú có niên đại khoảng từ thế kỷ II – III và lớp kiến trúc có niên đại từ thế kỷ IV - VII hoặc có thể kéo dài sang nửa đầu thế kỷ thứ VIII.
- Nền Chùa là khu di tích có quy mô to lớn, khu vực này từng là trung tâm dân cư, kinh tế và tôn giáo trong giai đoạn văn hóa Óc Eo phát triển.
- Vấn đề chứng minh Nền Chùa là di tích tiền cảng của thành phố cảng thị Óc Eo cần phải có thêm nhiều tư liệu khảo cổ, địa chất và môi trường cổ mới có thể khẳng định.
(Khảo cổ học số 1/2020)
Sưu tập 5 đĩa hoa sen vàng Cộng Vũ có kiểu dáng hoàn toàn tương tự như nhau, chỉ có khác nhau về kích thước, số lượng cánh sen và hoa văn trang trí. Hoa văn trang trí trên các đĩa này thể hiện nhiều đề tài khác nhau với các họa tiết cầu kỳ phức tạp mang tính thẩm mỹ cao và thể hiện rõ tính chất nghệ thuật Phật giáo.Các đĩa này đã được xác định đều được làm bằng vàng có chất lượng cao- loại chất liệu này trong các di tích khảo cổ học thuộc loại cực kỳ quý hiếm.
Dựa vào hoa văn trang trí trên đĩa vàng, bộ sưu tập này được cho là thuộc thời Lý. Sưu tập đĩa hoa sen vàng Cộng Vũ rất độc đáo, là duy nhất và có giá trị lịch sử văn hóa rất cao, phản ảnh nhiều khía cạnh quan trọng của lịch sử Đại Việt thời Lý.
(Khảo cổ học số 4/2020)
Kết quả các lần khai quật đã phát hiện được 14 di tích bếp lửa,7 mộ táng có di cốt người được chôn theo tư thế nằm nghiêng co hoặc ngồi bó gối. Về di vật, thu được 76.425 mảnh xương động vật và hàng chục vạn vỏ các loài nhuyễn thể; hàng nghìn mảnh phế liệu, đá nguyên liệu và 179 công cụ đá, nổi bật là nhóm công cụ kiểu văn hóa Hòa Bình như rìu hình bầu dục, rìu ngắn, hình đĩa, công cụ hình bàn là; ngoài ra còn có 1.276 mảnh gốm và 1 mũi tên đồng.
Dựa vào cấu trúc tầng văn hóa, hệ thống niên đại 14C cùng tổ hợp di vật có thể thấy hang C6-1 gồm 2 giai đoạn văn hóa:giai đoạn sớm tồn tại từ 7.000 đến 5.500 năm BP; giai đoạn muộn có niên đại từ 5.500 năm đến khoảng 4.000 năm BP.
Những kết quả nghiên cứu về hang C6-1 đã mang lại những nhận thức mới: 1- Lần đầu tiên giới khảo cổ học Việt Nam và Đông Nam Á biết đến một loại hình di tích khảo cổ hang động núi lửa; 2-Trong tiến trình lịch sử, trên đất Tây Nguyên thực sự đã tồn tại một giai đoạn trung kỳ Đá mới sau Hòa Bình. Các cư dân ở đây vẫn bảo lưu các yếu tố văn hóa Hòa Bình song đã xuất hiện các yếu tố mới dosự thích ứng của cư dân thời tiền sử với môi trường hoạt động núi lửa trên đất Tây Nguyên.
Landscape survey of a further 12 caves has contributed data to the spatial distribution of sites with archaeological (and natural) heritage potential, while the mapping of new marine notches has increased the number of data points for coastline reconstruction from that previously available. A high resolution DEM has been completed in a c. 1500 ha corridor across the core zone of the property that also contains the highest concentration of the project’s archaeological and palaeoenvironmental site locales. The approach taken using an off-the-shelf SUAV and the challenges overcome to map a tower karst environment have had the additional outcome of demonstrating both the utility and cost-efficiency of this method in heritage monitoring and management with presentations being made accordingly in colloquia. Online publication of collected GIS data has also begun.
(In Vietnam Archaeology 14/2019)
- Các công trình kiến trúc thời Lý đa dạng về loại hình, trong đó nổi bật lên 2 loại hình di tích chính: di tích kiến trúc cung điện và di tích kiến trúc chùa – tháp.
- Kỹ thuật xây dựng là một thành tựu nổi bật trong xây dựng kiến trúc thời Lý. Đặc sắc nhất là kỹ thuật ghép nối, kết hợp nhiều loại vật liệu khác nhau trên một công trình nhằm tăng độ bền vững, mỹ thuật của công trình.
- Vật liệu xây dựng kiến trúc thời Lý hết sức đa dạng, với nhiều loại được kết hợp với nhau: đá, gạch, sỏi, đất sét, sành, bao nung, gỗ và mang tính phố biến ở mọi công trình kiến trúc. Ngoài những vật liệu mang tính chất cung đình, còn có các vật liệu mang tính địa phương và tận dụng từ tự nhiên.
(Khảo cổ học, số 5/2020)
MỤC LỤC |
Trang |
|
|
NGUYỄN GIA ĐỐI Nguồn gốc và quá trình tiến triển của cơ tầng Đá mới sớm ở Tây Nguyên |
3 |
NGUYỄN TIẾN ĐÔNG Các loại hình cơ bản của giếng Champa cổ ở miền Trung |
14 |
NGUYỄN QUỐC MẠNH Đồ gốm có khắc các biểu tượng tôn giáo phát hiện tại Lung Lớn (khu di tích Óc Eo - Ba Thê) |
25 |
ĐỖ DANH HUẤN Bước đầu tìm hiểu về một số nghề thủ công thời Lý |
38 |
TRẦN ANH DŨNG Bình đồ bố cục và trang trí mái chùa thời Lý, Trần ở Tuyên Quang và vùng núi phía Bắc |
54 |
HÀ VĂN CẨN Gốm men ngọc thời Trần phát hiện tại địa điểm 62 - 64 Trần Phú (Ba Đình, Hà Nội) |
67 |
NGUYỄN THỊ THANH VÂN Nghiên cứu di tích mộ cổ Huổi Pa (Thanh Hóa) |
84 |
Thông tin hoạt động Khảo cổ học | 96 |
Mục lục Tạp chí Khảo cổ học năm 2020 | 97 |
MỤC LỤC |
Trang |
|
|
TRÌNH NĂNG CHUNG Mối quan hệ hai văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn ở miền núi Đông Bắc Việt Nam |
3 |
NGUYỄN GIA ĐỐI Tổng quan về cơ tầng Đá mới sớm ở Tây Nguyên |
13 |
NGUYỄN KHÁNH TRUNG KIÊN, NGUYỄN NHỰT PHƯƠNG Di tích đất đắp dạng tròn ở Đông Nam Bộ: Không gian phân bố, quy mô và niên đại |
23 |
HÀ THỊ SƯƠNG Gò Tháp - khu đô thị cổ của vương quốc Phù Nam |
36 |
NGUYỄN TIẾN ĐÔNG Di tích kiến trúc Champa Đồng Miễu, Phú Hòa, Phú Yên trong khung cảnh Khảo cổ học Champa |
47 |
BÙI VĂN LIÊM, PHẠM VĂN TRIỆU VÀ LƯU VĂN HÙNG Kiến trúc thời Đại La ở di tích đường hầm và bãi xe ngầm công trình nhà Quốc hội số 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội |
60 |
PHẠM VĂN TRIỆU, TỐNG TRUNG TÍN, NGUYỄN VĂN MẠNH VÀ PHẠM LÊ HUY Kiến trúc thời Lý: Tư liệu và nghiên cứu |
72 |
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN, NGUYỄN VĂN CƯỜNG Khai quật sáu con tàu cổ ở vùng biển Việt Nam góp phần nghiên cứu con đường tơ lụa trên biển Đông |
92 |
VĨNH BIỆT GIÁO SƯ LƯƠNG NINH |
100 |
MỤC LỤC |
Trang |
|
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG Hệ thống các di tích thời đại Đá thềm sông Lô và sông Gâm ở Tuyên Quang |
3 |
NGUYỄN KHẮC SỬ, NGUYỄN LÂN CƯỜNG, LA THẾ PHÚC, NGUYỄN TRUNG MINH, LƯƠNG THỊ TUẤT, LÊ XUÂN HƯNG VÀ VŨ TIẾN ĐỨC Khai quật hang động núi lửa C6-1 Krông Nô (Đắk Nông) - tư liệu và nhận thức mới về Tiền sử Tây Nguyên |
16 |
PHẠM VĂN TRIỆU, NGUYỄN VĂN MẠNH Di chỉ Vườn Đình Khuê Bắc (Đà Nẵng) - tư liệu và nhận thức mới |
31 |
LÊ THỊ LIÊN Bàn thêm về vai trò của di tích Ba Thê - Óc Eo (An Giang) trong sự phát triển của vương quốc Phù Nam |
46 |
TỐNG TRUNG TÍN Sưu tập 5 đĩa hoa sen vàng Cộng Vũ (Hưng Yên) thời Lý |
54 |
NGUYỄN QUANG BẮC, NGUYỄN HỮU TUẤN, NGUYỄN QUANG MIÊN, TRÌNH NĂNG CHUNG VÀ NGUYỄN QUANG DŨNG Về các điểm tụ kênh cổ vùng Tứ giác Long Xuyên |
60 |
BÙI VĂN HIẾU VÀ CỘNG SỰ Khảo sát khảo cổ học hàng hải vụng biển Bình Châu (Quảng Ngãi) |
78 |
Giới thiệu sách | 97 |
Sáng 21/12, tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An đã diễn ra Hội thảo khoa học "Di tích khảo cổ Làng Vạc: Giá trị lịch sử - Văn hóa". Hội thảo do Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức.
Tại hội thảo, tham luận của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã làm rõ thành tựu, kế hoạch nghiên cứu và khai quật di tích Làng Vạc; giá trị lịch sử văn hóa nổi bật của di tích; vị thế của Làng Vạc trong bối cảnh lịch sử văn hóa khu vực; mối quan hệ, vị trí của Làng Vạc trong thời Hùng Vương dựng nước. Bên cạnh đó, các tham luận còn nêu hiện trạng, hạn chế trong việc phát huy giá trị di tích, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; tiềm năng, cơ hội, thách thức và giải pháp bảo vệ, bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Quang cảnh di tích Làng Vạc và cuộc khai quật năm 1990 (nguồn: PGS.TS Bùi Văn Liêm)
Hội thảo Di tích khảo cổ Làng Vạc: Giá trị lịch sử - Văn hóa năm 2020 (nguồn: Bảo tàng Nhân học)
Giá trị lịch sử văn hóa nổi bật
Cuộc Hội thảo đã thu hút được 31 bài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, quản lý tập trung bàn thảo về giá trị của di tích và hướng bảo tồn gắn với phát huy giá trị.
Di chỉ khảo cổ học Làng Vạc là một trung tâm văn hóa Đông Sơn ở vùng bán sơn địa thuộc thị xã Thái Hòa (Nghệ An). Đến nay, Làng Vạc là một trong hai khu di tích Đông Sơn tiêu biểu, có khối hiện vật phong phú về loại hình. Đây là di tích phát hiện được nhiều mộ táng nhất của nền văn hóa Đông Sơn trên đất nước ta (gồm 300 ngôi mộ được phát hiện qua 5 lần thám sát, khai quật). Làng Vạc trở thành tên gọi của một trung tâm văn hóa Đông Sơn lớn trên lưu vực sông Cả với hơn 1.200 hiện vật phong phú, đa dạng bằng đồng, gốm, đá, thủy tinh, sắt như trống đồng, rìu xéo, dao găm cán tượng người… Đánh giá của các chuyên gia khảo cổ, Làng Vạc có thể sánh ngang với những di tích văn hóa Đông Sơn nổi tiếng ở lưu vực sông Hồng như Vinh Quang, Làng Cả...
Di sản Làng Vạc cách ngày nay 2.500 - 2.000 năm. Di chỉ khảo cổ học Làng Vạc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia ngày 13/9/1999.
Trình bày tham luận “Vị trí của Làng Vạc trong diễn trình tiền sơ sử lưu vực sông Lam/Cả”, GS.TS Lâm Thị Mỹ Dung (Trưởng bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) khẳng định, địa điểm văn hóa Đông Sơn quan trọng nhất ở lưu vực sông Cả là Làng Vạc. Làng Vạc cũng đại diện cho loại hình sông Cả, loại hình này đôi khi còn được gọi là loại hình Làng Vạc.
Di tích Làng Vạc được xác định gồm hai khu cư trú (Làng Vạc), mộ táng (xóm Đình), phân bố ở phía Đông và Tây của thung lũng Khe Vạc. Khu cư trú nằm ở phía Tây của thung lũng Khe Vạc, còn khu mộ táng ở rìa phía Đông. Ngôi mộ được đặt trên đồi, trên rìa thấp cạnh các ruộng lúa ngày nay. Làng Vạc là phức hợp di tích mộ táng cư trú trong thời gian vài trăm năm. Tại Làng Vạc, các nhà khai quật còn nhận diện được một lớp văn hóa Sơn Vi từ lớp dưới ở khu vực khai quật phía Đông năm 1990. Thung lũng Làng Vạc có một số địa điểm khác chứa đồ đá Sơn Vi. Như vậy, sự có mặt của cư dân văn hóa Sơn Vi giai đoạn hậu kỳ đá cũ ở đây là điều không thể bàn cãi.
Bảo tồn, phát huy giá trị di tích Làng Vạc
Trong điều kiện phát triển kinh tế -xã hội hiện nay, cũng như nhiều di sản khảo cổ học khác, di tích Làng Vạc đang chịu tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đặc biệt chưa có một nghiên cứu đánh giá tình trạng di tích, trữ lượng hiện còn của di tích, nguy cơ hiện hữu và tiềm ẩn…
PGS.TS Bùi Văn Liêm (Tổng Biên tập Tạp chí Khảo cổ học) cho rằng, qua những tư liệu về mộ táng Làng Vạc có thể thấy rõ những đặc trưng và tính chất của khu mộ táng Làng Vạc có sự đa dạng về táng tục với nhiều hình thức mai táng người chết, nhìn chung trong loại hình này vẫn phổ biến mộ đất - loại mộ phổ biến trong văn hóa Đông Sơn. Trong văn hóa Đông Sơn, Làng Vạc là di tích có số mộ vò/nồi lớn, tập trung nhất. Loại hình mộ vò nồi gốm của lưu vực sông Cả rất đa dạng, bên cạnh loại mộ nồi/vò chôn đứng giống như của vùng sông Mã còn có loại mộ nồi/vò hai, ba chiếc úp vào nhau chôn nằm ngang. Táng tục mộ nồi/vò gốm chôn đứng khá phổ biến trong các di tích Đông Sơn ở lưu vực sông Mã và cũng xuất hiện ở di tích Làng Cả, Gò De của loại hình sông Hồng, là đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, Nam Bộ.
"Cần đặt ra vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của di tích này. Bởi lẽ đây là khu di tích hiếm có của văn hóa Đông Sơn nói chung và Nghệ An nói riêng, có giá trị lịch sử văn hóa độc đáo và đặc sắc, đại diện cho một loại hình địa phương của văn hóa Đông Sơn" - Tổng Biên tập Tạp chí Khảo cổ học Bùi Văn Liêm nhấn mạnh.
Theo Giám đốc Sở Du lịch tỉnh Nghệ An Nguyễn Mạnh Cường, thời gian tới, để tiếp tục phát huy giá trị di tích khảo cổ học Làng Vạc cần gắn với phát triển du lịch miền Tây Nghệ An. Trong đó, cần tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, kết nối địa điểm di chỉ Làng Vạc khi giới thiệu hiện vật liên quan được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ An cũng như các bảo tàng về di chỉ khảo địa phương.
Ngoài ra, quan tâm đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng đáp ứng điều kiện đón khách du lịch, các dịch vụ phục vụ du khách. Đặc biệt cần chủ động kết nối Khu di tích Làng Vạc với các điểm đến như: Đền làng Lụi (xã Nghĩa Mỹ), Khu tưởng niệm Bác Hồ về thăm Đông Hiếu, đồi hoa xuân Thái Hòa cũng như điểm du lịch ở các địa phương lân cận (trang trại và đồi hoa ở Nghĩa Đàn, Khu du lịch sinh thái Mường Thanh Diễn Lâm ở Diễn Châu)… để thu hút khách du lịch... Cần đa dạng hóa hoạt động du lịch của di tích như: phối hợp với cơ quan, đơn vị, trường học tổ chức chương trình ngoại khóa về tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa của di chỉ Làng Vạc. Ngoài ra, khuyến khích người dân tham gia với vai trò là hướng dẫn viên khách du lịch tham quan di tích và làng nghề truyền thống tại địa phương.
Tổng kết hội thảo, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Nghệ An Trần Thị Mỹ Hạnh khẳng định, thông qua hội thảo đã đánh giá sâu sắc giá trị văn hóa đặc biệt, nổi bật của di tích Làng Vạc. Làng Vạc là trung tâm kinh tế chính trị khá quy mô thời Hùng Vương. Đặc trưng văn hóa Làng Vạc đã góp phần khẳng định nền văn minh Việt cổ thuộc thời đại Hùng Vương không chỉ tồn tại ở vùng sông Hồng, sông Mã mà còn tồn tại ở vùng sông Lam.
Đặc biệt, khi nhà Tây Hán đã đặt ách đô hộ nước ta, Làng Vạc vẫn là địa điểm văn hóa Đông Sơn của người Việt với các hiện vật như: trống đồng, vũ khí, dao găm... góp phần phát triển văn hóa Lạc Việt, không bị ảnh hưởng, đồng hóa. Di tích Làng Vạc cũng khẳng định quan hệ với nền văn hóa các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Trung Quốc...
Thời gian tới, để bảo vệ và phát huy di tích Làng Vạc, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Nghệ An cho rằng cần tiếp tục phối hợp với cơ quan nghiên cứu trong, ngoài nước thăm dò, khai quật, khảo cổ nhằm nhận diện đầy đủ về di tích; nghiên cứu, biên soạn, phát hành một số công trình chuyên biệt giới thiệu về di tích khảo cổ học Làng Vạc.
Cùng với đó cần khoanh vùng bảo vệ hiện trạng quy hoạch, tăng cường tuyên truyền, quảng bá về di tích Làng Vạc; xây dựng sản phẩm du lịch tham quan, trải nghiệm đặc thù gắn với phát triển du lịch sinh thái, các làng nghề, di tích lịch sử vùng phụ cận.
Tổng hợp: Nguyễn Thơ Đình