Các hiện vật lạ 10,000 tuổi ở địa điểm Jordan liên quan đến thờ cúng, được tìm thấy cùng các di cốt.
Các hiện vật đá lửa Enigmatic được khai quật tại một ngôi làng thời đồ Đá mới ở phía bắc Jordan không phải là công cụ, các nhà khảo cổ học đã kết luận. Các hiện vật có hình cây vĩ cầm có niên đại cách đây gần 10.000 năm thực sự có thể là những bức tượng nhỏ có hình dạng thô sơ đại diện cho những người thân đã khuất, và có khả năng là một phần của một sự thờ cúng tổ tiên phức tạp liên quan đến nghi thức chôn cất.
Những bức tượng độc đáo này là một phần của cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm rộng lớn hơn ở khu vực Cận Đông đi kèm với bình minh của nông nghiệp, nơi đặt con người, thay vì động vật, vào trung tâm của hình chạm, đồ khắc tiền sử, đó là kết luận của nhóm các nhà khảo cổ học Tây Ban Nha đã công bố trên tạp chí Antiquity.

Ảnh chụp bởi Juan José Ibáñez et al / The Kharaysin archaeological crew / Antiquity
Các bức tượng nhỏ này hiện được báo cáo từ phía Jordan trong hồ sơ khảo cổ học về thời kỳ sử dụng đá lửa làm vật liệu. Nghệ thuật Đá cũ và Đá mới trước đó bao gồm một số đại diện con người, thường được chạm khắc bằng ngà voi hoặc đá vôi. Chỉ một ví dụ là những bức tượng thần vệ nữ châu Âu có từ hơn 30.000 năm trước. Nhưng hình ảnh nhân học này có kích thước và số lượng mờ nhạt so với các đại diện của động vật, đặc biệt là những cảnh động vật ngoạn mục tô điểm cho các hang động của tổ tiên săn bắn - hái lượm ở châu Âu.
Tuy nhiên, ở vùng Cận Đông, nếu có nghệ thuật hang động cổ, nó vẫn chưa được bảo tồn và nghệ thuật trên đá được tìm thấy trên khắp khu vực, bao gồm cả câu đố của người Negev, cho đến nay vẫn chưa thể định niên đại.
Điều hoàn toàn khác biệt.
Hơn 100 hiện vật đá lửa khía kép đã xuất lộ từ năm 2016 giữa các tàn tích nhà ở được tại di chỉ Kharaysin, 40 km về phía bắc của thủ đô Jordan, Amman. Khu vực cư trú cổ có diện tích 25 ha và bị chiếm đóng vào những thời điểm khác nhau từ cuối thiên niên kỷ 9 trước Công nguyên đến đầu thiên niên kỷ 7 trước Công nguyên.
Các nhà khảo cổ tìm thấy những hiện vật đá lửa khó hiểu này, có kích thước từ 1 -5 cm (0,4 đến 2 inch) trong các lớp có niên đại C từ 9.500 - 10.000 năm trước, theo Juan Jose Ibanez, nhà khảo cổ học thuộc Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Tây Ban Nha, người đứng đầu nghiên cứu cho biết.
“Các công cụ đá lửa từ thời kỳ này được chuẩn hóa rất nhiều: liềm, dao v.v., nhưng đây là một thứ hoàn toàn mới”.
Các rãnh đôi khi được chạm khắc vào các công cụ đá lửa để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cán, nghĩa là sử dụng dây thừng để gắn đá vào tay cầm để tạo ra các công cụ mạnh hơn, đòn bẩy như rìu hoặc giáo, ông lưu ý. Nhưng đây không phải là trường hợp ở đây vì phần cuối của hiện vật phẳng và tầy, thiếu độ sắc nét và nhọn cần thiết để làm cho bất kỳ vật nào trong số này trở nên hữu ích.
Sau khi phát hiện các hiên vật này, một trong những người khai quật cho rằng những hiện vật đá lửa này có thể là mô tả hình người. Với một chút trí tưởng tượng, các vết khắc được khắc vào các cạnh của hiện vật dường như tạo ra hình dạng cách điệu của một hình người với đầu, vai và thân dưới.
Theo ông Ibanez: “Ban đầu chúng tôi rất hoài nghi nhưng bây giờ phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng đây là kết luận hợp lý nhất, .
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu khoảng một nửa số đá lửa bí ẩn này dưới kính hiển vi, tìm kiếm dấu vết hao mòn và vết xước trên đá - và hầu như không tìm thấy. Việc thiếu mài mòn cho thấy các hiện vật này không có bất kỳ ứng dụng thực tế nào trong cuộc sống hàng ngày, nghiên cứu được công bố trên Antiquity .
Các nhà khảo cổ cũng so sánh các hiện vật này với các bức tượng Đá mới muộn hơn từ một địa điểm khác ở Jordan mô tả rõ hơn hình dạng con người, và thấy chúng chia sẻ tỷ lệ tương tự trong việc thể hiện các bộ phận cơ thể khác nhau, tiếp tục củng cố lý thuyết bức tượng.
Đối với một chuyên gia về đá lửa, chỉ mất khoảng nửa phút để tạo ra hiện vật như vậy, nhưng điều đó không làm mất đi ý nghĩa quan trọng của phát hiện này, Avi Gopher, nhà khảo cổ học Đại học Tel Aviv nói.
Các biểu diễn hình người trong đá lửa là một hiện tượng thực sự độc đáo chưa được biết đến từ bất kỳ địa điểm nào trong giai đoạn này, theo Gopher, một chuyên gia về thời kỳ đồ Đá mới không tham gia vào nghiên cứu. “Đây là một sự mô phỏng đơn giản của một hình người, nhưng nó cũng rất rõ ràng - mọi người sẽ đọc nó như thế.”
Các hiện vật Kharaysin cũng có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau: một nhóm trong đó phần thân dưới của bức tượng giả định có cùng chiều rộng với phần thân trên, và nhóm thứ hai trong đó hông rộng hơn vai. Đây có thể là một cách phân biệt giữa miêu tả nam và nữ, mặc dù giả thuyết này vẫn cần nghiên cứu thêm, Ibanez nói.
Về những chức năng mà những bức tượng này có thể có, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng hầu hết các hiện vật được tìm thấy tại một nghĩa trang nhỏ, cho thấy chúng là một phần của táng tục được tổ chức ở đó.
10 ngôi mộ mà các nhà khảo cổ học đào được ở khu vực này nhắc nhở chúng ta rằng, ở thời đồ Đá mới, mọi người khó có thể mong đợi được yên nghỉ khi họ đã chết. Nghiên cứu về bộ xương cho thấy nhiều ngôi mộ đã được mở lại sau khi chôn cất ban đầu để loại bỏ một số xương, đặc biệt là hộp sọ và xương hàm dưới.
Trong một số trường hợp, các nhà khảo cổ tìm thấy xương khớp một phần trong các mộ bị xáo trộn, một số mộ cải táng.
Các táng thức phổ biến trên khắp vùng Cận Đông trong thời kỳ đồ Đá mới, thời điểm mà người dân ở khu vực này lần đầu tiên bắt đầu thuần hóa cây trồng và động vật.
Tại Kharaysin, Ibanez và nhóm của ông đã tìm thấy 3 hộp sọ được chèn vào bức tường của một trong những ngôi nhà trong ngôi làng cổ.
Hầu hết các học giả ngày nay tin rằng những hành vi này liên quan đến tín ngưỡng tổ tiên phát sinh song song với thuở bình minh của nông nghiệp. Khi con người trên khắp vùng Cận Đông ngày càng từ bỏ lối sống hái lượm và định cư vào các cộng đồng nông nghiệp lâu dài, một lượng lớn tài nguyên và thời gian đã được đầu tư vào việc chăm sóc cây trồng, xây dựng nhà cửa và chăn nuôi.
Điều này có nghĩa là các cộng đồng lớn hơn được hình thành và cần thiết để tạo ra ý thức về bản sắc được chia sẻ, đồng thời có thể đóng góp yêu sách của họ đối với vùng đất mà họ đã bỏ hoang rất nhiều. Và cách tốt nhất để thực hiện cả hai mục tiêu đó là xác định tổ tiên chung của họ và liên quan quyền sở hữu ban đầu của họ trên khu vực, Ibanez lưu ý.
“Đây là ngôi nhà của tôi bởi vì cha tôi đã xây dựng nó - vì vậy tôi giữ cha tôi ở bên trong bức tường để chứng minh điều đó”, là cách nhà khảo cổ học tổng kết.
Tín ngưỡng tổ tiên thời đồ Đá mới và sự khởi đầu của nông nghiệp cũng có khả năng kết nối với một cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm, trong đó các bức tượng Kharaysin có thể là một ví dụ điển hình. Mặc dù thời kỳ đồ Đá mới và sự khởi đầu của thời kỳ đồ Đá mới, động vật là trọng tâm chính của các nghệ sĩ tiền sử, tuy nhiên điều này bắt đầu thay đổi khoảng 11.000 năm trước, khi các mô tả về con người bắt đầu trở nên thường xuyên và chiếm ưu thế hơn.
Mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn tại sao sự thay đổi này xảy ra, nhiều học giả cho rằng nó có thể liên quan đến tầm quan trọng ngày càng tăng của tín ngưỡng tổ tiên - và nhu cầu khắc họa và tôn kính người quá cố - cũng như sức mạnh đối với thiên nhiên mà nhân loại có được khi thuần hóa cây trồng và động vật.
Các hiện vật từ Kharaysin sẽ là ví dụ đầu tiên được biết đến về các bức tượng nhỏ được làm từ đá lửa ở thời kỳ đồ Đá mới ở vùng Cận Đông, nhưng tính trung tâm của hình dạng con người là rõ ràng trên khắp khu vực dưới các hình thức khác nhau: từ các đặc điểm hình học của các khối đá nguyên khối ở Gotbekli Tepe, các hộp sọ gắn trên tường nói trên, đến các bức tượng người làm bằng đất sét và thạch cao.
Những biến thể về một chủ đề cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cách các nền văn hóa thời đại đồ Đá mới tiếp xúc với nhau trên những khoảng cách rộng lớn, Ibanez lưu ý. Sự liên kết các cộng đồng nông nghiệp sớm đã hình thành một mạng lưới toàn khu vực, trong đó không chỉ các hiện vật được giao thương qua hàng trăm km mà cả những ý tưởng mới có thể được chia sẻ và thích nghi với từng thực tế địa phương, Ibanez nói.
“Chúng tôi nghĩ rằng sự đổi mới là thứ xuất hiện ở một nơi và sau đó lan rộng, nhưng bây giờ chúng tôi biết rằng các cộng đồng vùng Cận Đông đang phát minh ra những thứ mới và sau đó lan truyền chúng vào trong một mạng lưới, theo ông Ibanez. Khu vực này là nơi phát tán trong đó mọi thứ đang diễn ra theo cùng một hướng nhưng với đặc thù địa phương. Họ đã phát minh ra nông nghiệp, chăn nuôi và sống định cư. Tất cả họ đều đang làm những điều tương tự sẽ thay đổi loài người, nhưng họ đang làm những điều này theo cách riêng của họ
Nguồn tham khảo: https://www.haaretz.com/archaeology/.premium-10-000-year-old-artifacts-from-jordan-tied-to-cult-that-dug-up-the-dead-1.8973438
Người dịch: Minh Trần
Những bức tượng độc đáo này là một phần của cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm rộng lớn hơn ở khu vực Cận Đông đi kèm với bình minh của nông nghiệp, nơi đặt con người, thay vì động vật, vào trung tâm của hình chạm, đồ khắc tiền sử, đó là kết luận của nhóm các nhà khảo cổ học Tây Ban Nha đã công bố trên tạp chí Antiquity.

Ảnh chụp bởi Juan José Ibáñez et al / The Kharaysin archaeological crew / Antiquity
Các bức tượng nhỏ này hiện được báo cáo từ phía Jordan trong hồ sơ khảo cổ học về thời kỳ sử dụng đá lửa làm vật liệu. Nghệ thuật Đá cũ và Đá mới trước đó bao gồm một số đại diện con người, thường được chạm khắc bằng ngà voi hoặc đá vôi. Chỉ một ví dụ là những bức tượng thần vệ nữ châu Âu có từ hơn 30.000 năm trước. Nhưng hình ảnh nhân học này có kích thước và số lượng mờ nhạt so với các đại diện của động vật, đặc biệt là những cảnh động vật ngoạn mục tô điểm cho các hang động của tổ tiên săn bắn - hái lượm ở châu Âu.
Tuy nhiên, ở vùng Cận Đông, nếu có nghệ thuật hang động cổ, nó vẫn chưa được bảo tồn và nghệ thuật trên đá được tìm thấy trên khắp khu vực, bao gồm cả câu đố của người Negev, cho đến nay vẫn chưa thể định niên đại.
Điều hoàn toàn khác biệt.
Hơn 100 hiện vật đá lửa khía kép đã xuất lộ từ năm 2016 giữa các tàn tích nhà ở được tại di chỉ Kharaysin, 40 km về phía bắc của thủ đô Jordan, Amman. Khu vực cư trú cổ có diện tích 25 ha và bị chiếm đóng vào những thời điểm khác nhau từ cuối thiên niên kỷ 9 trước Công nguyên đến đầu thiên niên kỷ 7 trước Công nguyên.
Các nhà khảo cổ tìm thấy những hiện vật đá lửa khó hiểu này, có kích thước từ 1 -5 cm (0,4 đến 2 inch) trong các lớp có niên đại C từ 9.500 - 10.000 năm trước, theo Juan Jose Ibanez, nhà khảo cổ học thuộc Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Tây Ban Nha, người đứng đầu nghiên cứu cho biết.
“Các công cụ đá lửa từ thời kỳ này được chuẩn hóa rất nhiều: liềm, dao v.v., nhưng đây là một thứ hoàn toàn mới”.
Các rãnh đôi khi được chạm khắc vào các công cụ đá lửa để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cán, nghĩa là sử dụng dây thừng để gắn đá vào tay cầm để tạo ra các công cụ mạnh hơn, đòn bẩy như rìu hoặc giáo, ông lưu ý. Nhưng đây không phải là trường hợp ở đây vì phần cuối của hiện vật phẳng và tầy, thiếu độ sắc nét và nhọn cần thiết để làm cho bất kỳ vật nào trong số này trở nên hữu ích.
Sau khi phát hiện các hiên vật này, một trong những người khai quật cho rằng những hiện vật đá lửa này có thể là mô tả hình người. Với một chút trí tưởng tượng, các vết khắc được khắc vào các cạnh của hiện vật dường như tạo ra hình dạng cách điệu của một hình người với đầu, vai và thân dưới.
Theo ông Ibanez: “Ban đầu chúng tôi rất hoài nghi nhưng bây giờ phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng đây là kết luận hợp lý nhất, .
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu khoảng một nửa số đá lửa bí ẩn này dưới kính hiển vi, tìm kiếm dấu vết hao mòn và vết xước trên đá - và hầu như không tìm thấy. Việc thiếu mài mòn cho thấy các hiện vật này không có bất kỳ ứng dụng thực tế nào trong cuộc sống hàng ngày, nghiên cứu được công bố trên Antiquity .
Các nhà khảo cổ cũng so sánh các hiện vật này với các bức tượng Đá mới muộn hơn từ một địa điểm khác ở Jordan mô tả rõ hơn hình dạng con người, và thấy chúng chia sẻ tỷ lệ tương tự trong việc thể hiện các bộ phận cơ thể khác nhau, tiếp tục củng cố lý thuyết bức tượng.
Đối với một chuyên gia về đá lửa, chỉ mất khoảng nửa phút để tạo ra hiện vật như vậy, nhưng điều đó không làm mất đi ý nghĩa quan trọng của phát hiện này, Avi Gopher, nhà khảo cổ học Đại học Tel Aviv nói.
Các biểu diễn hình người trong đá lửa là một hiện tượng thực sự độc đáo chưa được biết đến từ bất kỳ địa điểm nào trong giai đoạn này, theo Gopher, một chuyên gia về thời kỳ đồ Đá mới không tham gia vào nghiên cứu. “Đây là một sự mô phỏng đơn giản của một hình người, nhưng nó cũng rất rõ ràng - mọi người sẽ đọc nó như thế.”
Các hiện vật Kharaysin cũng có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau: một nhóm trong đó phần thân dưới của bức tượng giả định có cùng chiều rộng với phần thân trên, và nhóm thứ hai trong đó hông rộng hơn vai. Đây có thể là một cách phân biệt giữa miêu tả nam và nữ, mặc dù giả thuyết này vẫn cần nghiên cứu thêm, Ibanez nói.
Về những chức năng mà những bức tượng này có thể có, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng hầu hết các hiện vật được tìm thấy tại một nghĩa trang nhỏ, cho thấy chúng là một phần của táng tục được tổ chức ở đó.
10 ngôi mộ mà các nhà khảo cổ học đào được ở khu vực này nhắc nhở chúng ta rằng, ở thời đồ Đá mới, mọi người khó có thể mong đợi được yên nghỉ khi họ đã chết. Nghiên cứu về bộ xương cho thấy nhiều ngôi mộ đã được mở lại sau khi chôn cất ban đầu để loại bỏ một số xương, đặc biệt là hộp sọ và xương hàm dưới.
Trong một số trường hợp, các nhà khảo cổ tìm thấy xương khớp một phần trong các mộ bị xáo trộn, một số mộ cải táng.
Các táng thức phổ biến trên khắp vùng Cận Đông trong thời kỳ đồ Đá mới, thời điểm mà người dân ở khu vực này lần đầu tiên bắt đầu thuần hóa cây trồng và động vật.
Tại Kharaysin, Ibanez và nhóm của ông đã tìm thấy 3 hộp sọ được chèn vào bức tường của một trong những ngôi nhà trong ngôi làng cổ.
Hầu hết các học giả ngày nay tin rằng những hành vi này liên quan đến tín ngưỡng tổ tiên phát sinh song song với thuở bình minh của nông nghiệp. Khi con người trên khắp vùng Cận Đông ngày càng từ bỏ lối sống hái lượm và định cư vào các cộng đồng nông nghiệp lâu dài, một lượng lớn tài nguyên và thời gian đã được đầu tư vào việc chăm sóc cây trồng, xây dựng nhà cửa và chăn nuôi.
Điều này có nghĩa là các cộng đồng lớn hơn được hình thành và cần thiết để tạo ra ý thức về bản sắc được chia sẻ, đồng thời có thể đóng góp yêu sách của họ đối với vùng đất mà họ đã bỏ hoang rất nhiều. Và cách tốt nhất để thực hiện cả hai mục tiêu đó là xác định tổ tiên chung của họ và liên quan quyền sở hữu ban đầu của họ trên khu vực, Ibanez lưu ý.
“Đây là ngôi nhà của tôi bởi vì cha tôi đã xây dựng nó - vì vậy tôi giữ cha tôi ở bên trong bức tường để chứng minh điều đó”, là cách nhà khảo cổ học tổng kết.
Tín ngưỡng tổ tiên thời đồ Đá mới và sự khởi đầu của nông nghiệp cũng có khả năng kết nối với một cuộc cách mạng nghệ thuật và khái niệm, trong đó các bức tượng Kharaysin có thể là một ví dụ điển hình. Mặc dù thời kỳ đồ Đá mới và sự khởi đầu của thời kỳ đồ Đá mới, động vật là trọng tâm chính của các nghệ sĩ tiền sử, tuy nhiên điều này bắt đầu thay đổi khoảng 11.000 năm trước, khi các mô tả về con người bắt đầu trở nên thường xuyên và chiếm ưu thế hơn.
Mặc dù chúng ta không thể biết chắc chắn tại sao sự thay đổi này xảy ra, nhiều học giả cho rằng nó có thể liên quan đến tầm quan trọng ngày càng tăng của tín ngưỡng tổ tiên - và nhu cầu khắc họa và tôn kính người quá cố - cũng như sức mạnh đối với thiên nhiên mà nhân loại có được khi thuần hóa cây trồng và động vật.
Các hiện vật từ Kharaysin sẽ là ví dụ đầu tiên được biết đến về các bức tượng nhỏ được làm từ đá lửa ở thời kỳ đồ Đá mới ở vùng Cận Đông, nhưng tính trung tâm của hình dạng con người là rõ ràng trên khắp khu vực dưới các hình thức khác nhau: từ các đặc điểm hình học của các khối đá nguyên khối ở Gotbekli Tepe, các hộp sọ gắn trên tường nói trên, đến các bức tượng người làm bằng đất sét và thạch cao.
Những biến thể về một chủ đề cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cách các nền văn hóa thời đại đồ Đá mới tiếp xúc với nhau trên những khoảng cách rộng lớn, Ibanez lưu ý. Sự liên kết các cộng đồng nông nghiệp sớm đã hình thành một mạng lưới toàn khu vực, trong đó không chỉ các hiện vật được giao thương qua hàng trăm km mà cả những ý tưởng mới có thể được chia sẻ và thích nghi với từng thực tế địa phương, Ibanez nói.
“Chúng tôi nghĩ rằng sự đổi mới là thứ xuất hiện ở một nơi và sau đó lan rộng, nhưng bây giờ chúng tôi biết rằng các cộng đồng vùng Cận Đông đang phát minh ra những thứ mới và sau đó lan truyền chúng vào trong một mạng lưới, theo ông Ibanez. Khu vực này là nơi phát tán trong đó mọi thứ đang diễn ra theo cùng một hướng nhưng với đặc thù địa phương. Họ đã phát minh ra nông nghiệp, chăn nuôi và sống định cư. Tất cả họ đều đang làm những điều tương tự sẽ thay đổi loài người, nhưng họ đang làm những điều này theo cách riêng của họ
Nguồn tham khảo: https://www.haaretz.com/archaeology/.premium-10-000-year-old-artifacts-from-jordan-tied-to-cult-that-dug-up-the-dead-1.8973438
Người dịch: Minh Trần
Bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis (vi khuẩn hình que họ Enterobacteriaceae) gây ra và lây trực tiếp qua tiếp xúc giữa người với người (bệnh dịch hạch thể viêm phổi) hoặc qua bọ chét như một vec tơ thông thường (bệnh dịch hạch thể hạch hoặc thể máu) (Treille và Yersin, 1894).
Lịch sử biết đến 3 đại dịch về bệnh dịch hạch: (1) Đại dịch đầu tiên, bắt đầu với Bệnh dịch hạch Justinian (541 - 544 sau Công nguyên), nhưng tiếp tục không liên tục cho đến năm 750 sau Công nguyên; (2) Đại dịch thứ hai, bắt đầu với Cái Chết Đen (Black Death) ở châu Âu (1347 - 1351) và bao gồm các đợt liên tiếp, như Đại dịch hạch lớn (Great Plague) (1665 - 1666 ), cho đến thế kỷ 18.
Đại dịch thứ ba, xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm 1850 và bùng phát ở đó trong một trận dịch lớn vào năm 1894 trước khi lan rộng khắp thế giới như một loạt dịch bệnh cho đến giữa thế kỷ 20 (Bos et al., 2011; Cui et al., 2013; Drancourt và cộng sự, 1998; Harbeck và cộng sự, 2013; Parkhill và cộng sự, 2001; Perry và Fetherston, 1997; Wagner và cộng sự, 2014). Sự lan rộng trước đó như Bệnh dịch hạch ở Athens (430 - 427 trước Công nguyên) và Bệnh dịch hạch Antonine (165 - 180 AD) cũng có thể xảy ra, nhưng không có bằng chứng trực tiếp nào cho phép tự tin quy kết cho vi khuẩnY. pestis (Drancourt và Raoult, 2002; McNeill, 1976).

Bệnh dịch hạch ở khu vực Âu - Á giai đoạn đồ Đồng (3000 BC- 800BC).


(A) Bản đồ khu vực Âu - Á chỉ ra vị trí, niên đại C và văn hóa chứa các mẫu xương răng được xác định là nhiễm Y.pestis.
(B) Mộ số 4 thuộc di chỉ Bulanovo. Ảnh chụp bởi Mikhail V. Khalyapin
Năm 2015, Tiến sĩ. Simon Rasmussen, trung tâm phân tích di truyền, Đại học kĩ thuật Đan Mạch, cùng các nhà di truyền,nhân chủng học Đại học Copahagen, Đan Mạch và nhóm nhà nghiên cứu Nga, Anh, Mỹ qua phân tích ADN trên răng người cổ của 101 cá thể thuộc Châu Âu và châu Á giai đoạn Đồ Đồng có niên đại từ 2800 năm - 5000 năm, cho thấy 7 cá thể mang cấu trúc gen của Yersinia pestis (Y.pestis). Bằng việc giải mã bộ gen, nhóm nghiên cứu thấy rằng các chủng vi khuẩn cổ gây bệnh dịch hạch này là cơ sở cho tất cả vi khuẩn Yersinia pestis được biết cho đến nay. Ước tính tuổi của tổ tiên gần đây nhất của tất cả Y. pestis khoảng 5.783 năm dựa vào đồng hồ phân tử hiệu chỉnh. Hơn nữa, bằng cách sử dụng dữ liệu ADN cổ được đánh dấu tạm thời, họ có thể rút ra chuỗi thời gian để bắt các phân tử yếu tố gây bệnh và hệ thống tránh miễn dịch tạo điều kiện cho sự tiến hóa từ một loại vi khuẩn ít độc lực hơn với tiềm năng gây bệnh, như Y. pseudotuberculosis (vi khuẩn gây sốt phan ban đỏ), một trong những vi khuẩn nguy hiểm nhất mà con người từng gặp phải.
Từ những phát hiện trên , nhóm nghiên cứu kết luận rằng tổ tiên của các chủng Y. pestis còn tồn tại vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên và được lan rộng khắp Âu - Á từ ít nhất là đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Sự xuất hiện của bệnh dịch hạch ở các cư dân Âu - Á thời đại Đồ Đồng mà họ đã lấy mẫu (7 trong số 101 cá thể) cho thấy rằng đây là bệnh đặc hữu ở khu vực Âu - Á và phổ biến sớm hơn ít nhất 3.000 năm so với lịch sử ghi chép. Tuy nhiên, dựa trên sự vắng mặt của các gen độc tố với chuột (gen ytm), không giống như các chủng Y. pestis sau này chịu trách nhiệm cho đại dịch thứ nhất đến đại dịch thứ ba, các chủng Y. pestis cổ này không có khả năng gây ra bệnh dịch hạch thể hạch, mà chỉ gây ra bệnh dịch hạch thể phổi và thể máu. Những bệnh dịch sớm này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm dân số vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên (Hinz et al., 2012; Shennan et al., 2013).
Cùng với các minh họa gần đây về các hệ gen cổ đó là cư dân thời đại Đồ Đồng khu vực Âu - Á được đặc trưng bởi sự di cư dân số quy mô lớn, sự hòa huyết và thay thế (Allentoft et al., 2015; Haak et al., 2015), đi kèm với những thay đổi kinh tế và xã hội được mô tả sâu sắc ở khía cạnh khảo cổ học (Anthony, 2007; Kristiansen và Larsson, 2005). Theo những phát hiện của nhóm nghiên cứu, có thể thấy rằng sự bùng phát bệnh dịch hạch có thể được tạo điều kiện thuận lợi bởi các sự kiện dân số tăng, tập trung cao. Tuy nhiên, dữ liệu của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng Y. pestis đã không thích nghi hoàn toàn như một mầm bệnh động vật có vú từ bọ chét cho đến đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, gây ra các đại dịch bệnh dịch hạch trong lịch sử. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy rằng chủng Y. pestis truyền qua bọ chét mang tính độc, gây ra đại dịch hạch thể hạch lịch sử tiến hóa từ dòng Y. pestis ít độc hơn đã nhiễm vào quần thể dân số cổ từ lâu trước khi có ghi nhận bằng chứng lịch sử về sự bùng phát bệnh dịch hạch.
Nguồn tham khảo:
https://www.cell.com/fulltext/S0092-8674(15)01322-7
Người dịch: Minh Trần
Lịch sử biết đến 3 đại dịch về bệnh dịch hạch: (1) Đại dịch đầu tiên, bắt đầu với Bệnh dịch hạch Justinian (541 - 544 sau Công nguyên), nhưng tiếp tục không liên tục cho đến năm 750 sau Công nguyên; (2) Đại dịch thứ hai, bắt đầu với Cái Chết Đen (Black Death) ở châu Âu (1347 - 1351) và bao gồm các đợt liên tiếp, như Đại dịch hạch lớn (Great Plague) (1665 - 1666 ), cho đến thế kỷ 18.
Đại dịch thứ ba, xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm 1850 và bùng phát ở đó trong một trận dịch lớn vào năm 1894 trước khi lan rộng khắp thế giới như một loạt dịch bệnh cho đến giữa thế kỷ 20 (Bos et al., 2011; Cui et al., 2013; Drancourt và cộng sự, 1998; Harbeck và cộng sự, 2013; Parkhill và cộng sự, 2001; Perry và Fetherston, 1997; Wagner và cộng sự, 2014). Sự lan rộng trước đó như Bệnh dịch hạch ở Athens (430 - 427 trước Công nguyên) và Bệnh dịch hạch Antonine (165 - 180 AD) cũng có thể xảy ra, nhưng không có bằng chứng trực tiếp nào cho phép tự tin quy kết cho vi khuẩnY. pestis (Drancourt và Raoult, 2002; McNeill, 1976).

Bệnh dịch hạch ở khu vực Âu - Á giai đoạn đồ Đồng (3000 BC- 800BC).


(A) Bản đồ khu vực Âu - Á chỉ ra vị trí, niên đại C và văn hóa chứa các mẫu xương răng được xác định là nhiễm Y.pestis.
(B) Mộ số 4 thuộc di chỉ Bulanovo. Ảnh chụp bởi Mikhail V. Khalyapin
Năm 2015, Tiến sĩ. Simon Rasmussen, trung tâm phân tích di truyền, Đại học kĩ thuật Đan Mạch, cùng các nhà di truyền,nhân chủng học Đại học Copahagen, Đan Mạch và nhóm nhà nghiên cứu Nga, Anh, Mỹ qua phân tích ADN trên răng người cổ của 101 cá thể thuộc Châu Âu và châu Á giai đoạn Đồ Đồng có niên đại từ 2800 năm - 5000 năm, cho thấy 7 cá thể mang cấu trúc gen của Yersinia pestis (Y.pestis). Bằng việc giải mã bộ gen, nhóm nghiên cứu thấy rằng các chủng vi khuẩn cổ gây bệnh dịch hạch này là cơ sở cho tất cả vi khuẩn Yersinia pestis được biết cho đến nay. Ước tính tuổi của tổ tiên gần đây nhất của tất cả Y. pestis khoảng 5.783 năm dựa vào đồng hồ phân tử hiệu chỉnh. Hơn nữa, bằng cách sử dụng dữ liệu ADN cổ được đánh dấu tạm thời, họ có thể rút ra chuỗi thời gian để bắt các phân tử yếu tố gây bệnh và hệ thống tránh miễn dịch tạo điều kiện cho sự tiến hóa từ một loại vi khuẩn ít độc lực hơn với tiềm năng gây bệnh, như Y. pseudotuberculosis (vi khuẩn gây sốt phan ban đỏ), một trong những vi khuẩn nguy hiểm nhất mà con người từng gặp phải.
Từ những phát hiện trên , nhóm nghiên cứu kết luận rằng tổ tiên của các chủng Y. pestis còn tồn tại vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên và được lan rộng khắp Âu - Á từ ít nhất là đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Sự xuất hiện của bệnh dịch hạch ở các cư dân Âu - Á thời đại Đồ Đồng mà họ đã lấy mẫu (7 trong số 101 cá thể) cho thấy rằng đây là bệnh đặc hữu ở khu vực Âu - Á và phổ biến sớm hơn ít nhất 3.000 năm so với lịch sử ghi chép. Tuy nhiên, dựa trên sự vắng mặt của các gen độc tố với chuột (gen ytm), không giống như các chủng Y. pestis sau này chịu trách nhiệm cho đại dịch thứ nhất đến đại dịch thứ ba, các chủng Y. pestis cổ này không có khả năng gây ra bệnh dịch hạch thể hạch, mà chỉ gây ra bệnh dịch hạch thể phổi và thể máu. Những bệnh dịch sớm này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm dân số vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên (Hinz et al., 2012; Shennan et al., 2013).
Cùng với các minh họa gần đây về các hệ gen cổ đó là cư dân thời đại Đồ Đồng khu vực Âu - Á được đặc trưng bởi sự di cư dân số quy mô lớn, sự hòa huyết và thay thế (Allentoft et al., 2015; Haak et al., 2015), đi kèm với những thay đổi kinh tế và xã hội được mô tả sâu sắc ở khía cạnh khảo cổ học (Anthony, 2007; Kristiansen và Larsson, 2005). Theo những phát hiện của nhóm nghiên cứu, có thể thấy rằng sự bùng phát bệnh dịch hạch có thể được tạo điều kiện thuận lợi bởi các sự kiện dân số tăng, tập trung cao. Tuy nhiên, dữ liệu của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng Y. pestis đã không thích nghi hoàn toàn như một mầm bệnh động vật có vú từ bọ chét cho đến đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, gây ra các đại dịch bệnh dịch hạch trong lịch sử. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy rằng chủng Y. pestis truyền qua bọ chét mang tính độc, gây ra đại dịch hạch thể hạch lịch sử tiến hóa từ dòng Y. pestis ít độc hơn đã nhiễm vào quần thể dân số cổ từ lâu trước khi có ghi nhận bằng chứng lịch sử về sự bùng phát bệnh dịch hạch.
Nguồn tham khảo:
https://www.cell.com/fulltext/S0092-8674(15)01322-7
Người dịch: Minh Trần
Các nhà khoa học nghiên cứu các hóa thạch được thu thập cách đây 35 năm đã xác định chúng là loài bọ cạp cổ nhất, một loài động vật thời tiền sử khoảng 437 triệu năm trước và có khả năng hô hấp ở đại dương cổ và trên đất liền.
Các nhà khoa học đã phát hiện ra hóa thạch bọ cạp cổ nhất - là một trong những động vật đầu tiên trên cạn - một hóa thạch được phát hiện ở Wisconsin
Phát hiện này cung cấp thông tin mới về cách động vật này chuyển từ đời sống dưới biển sang sống hoàn toàn trên cạn: Hệ thống hô hấp và tuần hoàn của loài bọ cạp này gần giống với bọ cạp hiện đại ngày nay - chỉ sống trên cạn - và hoạt động tương tự như hệ hô hấp và tuần hoàn của cua móng ngựa, sống chủ yếu ở dưới nước, nhưng có khả năng di chuyển vào đất liền trong thời gian ngắn.
Các nhà nghiên cứu đã đặt tên cho loài bọ cạp mới này là Parioscorpio. Tên chi có nghĩa là "bọ cạp tiên sinh" và tên loài có nghĩa là "thợ săn". Họ đã phác thảo những phát hiện trên trong một nghiên cứu được công bố ngày 16/1/2020 trên tạp chí Scientific Reports.
Loren Babcock, tác giả của nghiên cứu này- giáo sư khoa học trái đất tại Đại học bang Ohio cho biết: "Chúng tôi đang nghiên cứu loài bọ cạp cổ nhất được biết đến - thành viên cổ nhất được biết đến của dòng arachnid, là một trong những sinh vật trên cạn thành công nhất trong lịch sử Trái đất".
"Hơn thế nữa, điều quan trọng hơn đó là chúng tôi đã xác định được một cơ chế mà động vật thực hiện quá trình chuyển đổi quan trọng từ môi trường biển sang môi trường sống trên cạn. Điều này cung cấp mô hình cho các loại động vật khác trong đó bao gồm động vật có xương sống đã thực hiện quá trình chuyển đổi đó . Đó là một phát hiện đột phá. "
Hóa thạch (bên trái) được phát hiện ở Wisconsin năm 1985. Các nhà khoa học đã phân tích nó và phát hiện các cơ quan hô hấp và tuần hoàn của loài động vật cổ này (ở giữa) gần giống hệt với các cơ quan này ở bọ cạp hiện đại (hình bên phải). Ảnh chụp bởi Andrew Wendruff .
Hóa thạch "bọ cạp thợ săn" được khai quật vào năm 1985 từ một địa điểm ở Wisconsin, nơi từng là một hồ nhỏ dưới chân một vách đá trên đảo. Chúng vẫn chưa được nghiên cứu trong một bảo tàng tại Đại học Wisconsin trong hơn 30 năm cho đến khi một trong các nghiên cứu sinh của Babcock, Andrew Wendruff - hiện là trợ giảng giáo sư tại Đại học Otterbein ở Westerville - quyết định nghiên cứu chi tiết hóa thạch này.
Wendruff và Babcock ngay lập tức nhận ra các hóa thạch này là bọ cạp. Tuy nhiên, ban đầu, họ không chắc những hóa thạch này gần với tổ tiên của arachnid như thế nào. Loài bọ cạp được biết đến sớm nhất vào thời điểm đó đã được tìm thấy ở Scotland và có niên đại khoảng 434 triệu năm trước. các nhà cổ sinh vật học biết đến bọ cạp là một trong những động vật đầu tiên sống trên cạn toàn toàn.
Hóa thạch Wisconsin được các nhà nghiên cứu xác định già hơn từ 1 triệu đến 3 triệu năm so với hóa thạch từ Scotland. Họ đã tìm ra tuổi con bọ cạp này từ các hóa thạch khác trong cùng một dạng. Những hóa thạch đó đến từ những sinh vật mà các nhà khoa học cho rằng đã sống từ 436,5 đến 437,5 triệu năm trước, trong thời kỳ đầu của thời kỳ Silurian, thời kỳ thứ ba trong kỷ Cổ sinh Paleozoic
Bà Wendruff nói : "Mọi người thường nghĩ rằng chúng tôi sử dụng phương pháp định niên đại carbon để xác định tuổi của hóa thạch, nhưng điều đó không hiệu quả đối với một hóa thạch cổ này", . "Nhưng chúng tôi định niên đại bằng nền tro - và khi không có tro núi lửa, chúng tôi sử dụng những vi hóa thạch này và tương quan với những năm khi những sinh vật đó ở trên Trái đất. Đó là niên đại tương đối một chút”.
Hóa thạch Wisconsin - từ một hệ tầng chứa hóa thạch được gọi là Waukesha Biota - cho thấy các đặc điểm điển hình của một con bọ cạp, nhưng phân tích chi tiết cho thấy một số đặc điểm mà trước đây không biết ở bất kỳ bọ cạp nào, chẳng hạn như các đoạn cơ thể bổ sung và vùng đuôi "ngắn" " tất cả đều làm sáng tỏ tổ tiên của nhóm này.
Wendruff nghiên cứu các hóa thạch trên dưới kính hiển vi và chụp các bức ảnh chi tiết về các hóa thạch này với độ phân giải cao từ các góc khác nhau. Các mảnh nội tạng của loài này, được bảo quản trong đá, bắt đầu nổi lên. Ông đã xác định các phần phụ, một buồng nơi con vật sẽ cất giữ nọc độc của nó, và - quan trọng nhất - phần còn lại của hệ thống hô hấp và tuần hoàn của nó.
Con bọ cạp này dài khoảng 2,5 cm - có kích thước tương đương với nhiều con bọ cạp trên thế giới hiện nay. Babcock cho biết: điều này cho thấy mối liên hệ tiến hóa quan trọng giữa cách tổ tiên của loài bọ cạp cổ xưa thở dưới nước và cách bọ cạp hiện đại thở trên cạn. Về mặt bên trong, hệ thống tuần hoàn hô hấp có cấu trúc giống như trong bọ cạp ngày nay.
"Hoạt động bên trong của hệ tuần hoàn - hô hấp ở loài động vật này, có hình dạng, giống hệt như của loài nhện và bọ cạp chỉ hít thở không khí", Babcock nói. "Nhưng nó cũng cực kỳ giống với những gì chúng ta nhận ra ở động vật chân đốt biển như cua móng ngựa. Vì vậy, có vẻ như loài bọ cạp này, chủng này, phải được thích nghi trước với cuộc sống trên cạn, nghĩa là chúng có khả năng hình thái để thực hiện quá trình chuyển đổi đó , ngay cả trước khi lần đầu tiên, chúng đặt chân lên cạn.”
. “Các nhà cổ sinh trong nhiều năm đã tranh luận về cách thức động vật di chuyển từ biển vào đất liền. Một số hóa thạch cho thấy dấu vết bò trên cát có thể có tuổi đời lên tới 560 triệu năm, nhưng những dấu vết này có thể đã được tạo ra trong bọt biển thời tiền sử - có nghĩa là rất khó để biết liệu động vật sống trên đất liền hay trong đại dương cổ.
Nhưng với những con bọ cạp thời tiền sử này, Wendruff nói, có rất ít nghi ngờ về khả năng tồn tại trên cạn của chúng bởi vì những điểm tương đồng với bọ cạp hiện đại trong hệ thống hô hấp và tuần hoàn.
Nguồn tham khảo:Ohio State University. "Fossil is the oldest-known scorpion: Researchers think it was one of the first animals to spend time on land." ScienceDaily. ScienceDaily, 16 January 2020. <www.sciencedaily.com/releases/2020/01/200116121903.htm>.
https://news.osu.edu/fossil-is-the-oldest-known-scorpion/
Người dịch:Minh Trần

Phát hiện này cung cấp thông tin mới về cách động vật này chuyển từ đời sống dưới biển sang sống hoàn toàn trên cạn: Hệ thống hô hấp và tuần hoàn của loài bọ cạp này gần giống với bọ cạp hiện đại ngày nay - chỉ sống trên cạn - và hoạt động tương tự như hệ hô hấp và tuần hoàn của cua móng ngựa, sống chủ yếu ở dưới nước, nhưng có khả năng di chuyển vào đất liền trong thời gian ngắn.
Các nhà nghiên cứu đã đặt tên cho loài bọ cạp mới này là Parioscorpio. Tên chi có nghĩa là "bọ cạp tiên sinh" và tên loài có nghĩa là "thợ săn". Họ đã phác thảo những phát hiện trên trong một nghiên cứu được công bố ngày 16/1/2020 trên tạp chí Scientific Reports.
Loren Babcock, tác giả của nghiên cứu này- giáo sư khoa học trái đất tại Đại học bang Ohio cho biết: "Chúng tôi đang nghiên cứu loài bọ cạp cổ nhất được biết đến - thành viên cổ nhất được biết đến của dòng arachnid, là một trong những sinh vật trên cạn thành công nhất trong lịch sử Trái đất".
"Hơn thế nữa, điều quan trọng hơn đó là chúng tôi đã xác định được một cơ chế mà động vật thực hiện quá trình chuyển đổi quan trọng từ môi trường biển sang môi trường sống trên cạn. Điều này cung cấp mô hình cho các loại động vật khác trong đó bao gồm động vật có xương sống đã thực hiện quá trình chuyển đổi đó . Đó là một phát hiện đột phá. "
Hóa thạch (bên trái) được phát hiện ở Wisconsin năm 1985. Các nhà khoa học đã phân tích nó và phát hiện các cơ quan hô hấp và tuần hoàn của loài động vật cổ này (ở giữa) gần giống hệt với các cơ quan này ở bọ cạp hiện đại (hình bên phải). Ảnh chụp bởi Andrew Wendruff .
Hóa thạch "bọ cạp thợ săn" được khai quật vào năm 1985 từ một địa điểm ở Wisconsin, nơi từng là một hồ nhỏ dưới chân một vách đá trên đảo. Chúng vẫn chưa được nghiên cứu trong một bảo tàng tại Đại học Wisconsin trong hơn 30 năm cho đến khi một trong các nghiên cứu sinh của Babcock, Andrew Wendruff - hiện là trợ giảng giáo sư tại Đại học Otterbein ở Westerville - quyết định nghiên cứu chi tiết hóa thạch này.
Wendruff và Babcock ngay lập tức nhận ra các hóa thạch này là bọ cạp. Tuy nhiên, ban đầu, họ không chắc những hóa thạch này gần với tổ tiên của arachnid như thế nào. Loài bọ cạp được biết đến sớm nhất vào thời điểm đó đã được tìm thấy ở Scotland và có niên đại khoảng 434 triệu năm trước. các nhà cổ sinh vật học biết đến bọ cạp là một trong những động vật đầu tiên sống trên cạn toàn toàn.
Hóa thạch Wisconsin được các nhà nghiên cứu xác định già hơn từ 1 triệu đến 3 triệu năm so với hóa thạch từ Scotland. Họ đã tìm ra tuổi con bọ cạp này từ các hóa thạch khác trong cùng một dạng. Những hóa thạch đó đến từ những sinh vật mà các nhà khoa học cho rằng đã sống từ 436,5 đến 437,5 triệu năm trước, trong thời kỳ đầu của thời kỳ Silurian, thời kỳ thứ ba trong kỷ Cổ sinh Paleozoic
Bà Wendruff nói : "Mọi người thường nghĩ rằng chúng tôi sử dụng phương pháp định niên đại carbon để xác định tuổi của hóa thạch, nhưng điều đó không hiệu quả đối với một hóa thạch cổ này", . "Nhưng chúng tôi định niên đại bằng nền tro - và khi không có tro núi lửa, chúng tôi sử dụng những vi hóa thạch này và tương quan với những năm khi những sinh vật đó ở trên Trái đất. Đó là niên đại tương đối một chút”.
Hóa thạch Wisconsin - từ một hệ tầng chứa hóa thạch được gọi là Waukesha Biota - cho thấy các đặc điểm điển hình của một con bọ cạp, nhưng phân tích chi tiết cho thấy một số đặc điểm mà trước đây không biết ở bất kỳ bọ cạp nào, chẳng hạn như các đoạn cơ thể bổ sung và vùng đuôi "ngắn" " tất cả đều làm sáng tỏ tổ tiên của nhóm này.
Wendruff nghiên cứu các hóa thạch trên dưới kính hiển vi và chụp các bức ảnh chi tiết về các hóa thạch này với độ phân giải cao từ các góc khác nhau. Các mảnh nội tạng của loài này, được bảo quản trong đá, bắt đầu nổi lên. Ông đã xác định các phần phụ, một buồng nơi con vật sẽ cất giữ nọc độc của nó, và - quan trọng nhất - phần còn lại của hệ thống hô hấp và tuần hoàn của nó.
Con bọ cạp này dài khoảng 2,5 cm - có kích thước tương đương với nhiều con bọ cạp trên thế giới hiện nay. Babcock cho biết: điều này cho thấy mối liên hệ tiến hóa quan trọng giữa cách tổ tiên của loài bọ cạp cổ xưa thở dưới nước và cách bọ cạp hiện đại thở trên cạn. Về mặt bên trong, hệ thống tuần hoàn hô hấp có cấu trúc giống như trong bọ cạp ngày nay.
"Hoạt động bên trong của hệ tuần hoàn - hô hấp ở loài động vật này, có hình dạng, giống hệt như của loài nhện và bọ cạp chỉ hít thở không khí", Babcock nói. "Nhưng nó cũng cực kỳ giống với những gì chúng ta nhận ra ở động vật chân đốt biển như cua móng ngựa. Vì vậy, có vẻ như loài bọ cạp này, chủng này, phải được thích nghi trước với cuộc sống trên cạn, nghĩa là chúng có khả năng hình thái để thực hiện quá trình chuyển đổi đó , ngay cả trước khi lần đầu tiên, chúng đặt chân lên cạn.”
. “Các nhà cổ sinh trong nhiều năm đã tranh luận về cách thức động vật di chuyển từ biển vào đất liền. Một số hóa thạch cho thấy dấu vết bò trên cát có thể có tuổi đời lên tới 560 triệu năm, nhưng những dấu vết này có thể đã được tạo ra trong bọt biển thời tiền sử - có nghĩa là rất khó để biết liệu động vật sống trên đất liền hay trong đại dương cổ.
Nhưng với những con bọ cạp thời tiền sử này, Wendruff nói, có rất ít nghi ngờ về khả năng tồn tại trên cạn của chúng bởi vì những điểm tương đồng với bọ cạp hiện đại trong hệ thống hô hấp và tuần hoàn.
https://news.osu.edu/fossil-is-the-oldest-known-scorpion/
Người dịch:Minh Trần
-
Tác giả: Trần Hồng Liên
- Nxb: Hà Nội - 2008
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 217 tr
- Hình thức bìa: mềm
Chùa Giác Lâm là một ngôi chùa được xây dựng từ hơn hai trăm năm nay, đó là một ngôi chùa có mặt sớm ở đất Gia Định (1774), được thành lập từ thế kỷ XVIII ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, là tổ đình của phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn Nguyên ở Nam Bộ, chùa Giác Lâm là nơi lưu giữ hài cốt của tổ Phật Ý (thuộc đời 35 của dòng phái)
Với bề dày lịch sử của nó, chùa Giác Lâm đã để lại nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc tôn giáo.
Chương 1: Chùa Giác Lâm, quá trình hình thành và phát triển
Chương 2: Chùa Giác Lâm, di tích lịch sử - văn hóa. Chương này đề cập đến các vấn đề như: kiến trúc chùa, tháp; Tượng thờ, hoành phi, bao lam, phù điêu, liễn đối, đồ thờ - pháp khí.
Chương 3: Chùa Giác Lâm trong bối cảnh các chùa ở Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Hà Nội - 2008
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 217 tr
- Hình thức bìa: mềm
Chùa Giác Lâm là một ngôi chùa được xây dựng từ hơn hai trăm năm nay, đó là một ngôi chùa có mặt sớm ở đất Gia Định (1774), được thành lập từ thế kỷ XVIII ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, là tổ đình của phái Lâm Tế, dòng đạo Bổn Nguyên ở Nam Bộ, chùa Giác Lâm là nơi lưu giữ hài cốt của tổ Phật Ý (thuộc đời 35 của dòng phái)
Với bề dày lịch sử của nó, chùa Giác Lâm đã để lại nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc tôn giáo.
Chương 1: Chùa Giác Lâm, quá trình hình thành và phát triển
Chương 2: Chùa Giác Lâm, di tích lịch sử - văn hóa. Chương này đề cập đến các vấn đề như: kiến trúc chùa, tháp; Tượng thờ, hoành phi, bao lam, phù điêu, liễn đối, đồ thờ - pháp khí.
Chương 3: Chùa Giác Lâm trong bối cảnh các chùa ở Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Khoa Lịch
sử - Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm

- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 658 tr
Cuốn sách được xuất bản nhân kỷ niệm 55 năm thành lập (1956-2011) của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nội dung cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả, các nhà nghiên cứu, các giảng viên đã và đang công tác ở Khoa Lịch sử, được chia thành các phần sau:
- Việt Nam trong tảng nền lịch sử - văn hóa khu vực
- Việt Nam và thế giới: Những tương đồng và dị biệt
- Việt Nam trong các mối quan hệ khu vực và thế giới
Xin trân trọng giới thiệu!
Cuốn sách được xuất bản nhân kỷ niệm 55 năm thành lập (1956-2011) của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nội dung cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của các tác giả, các nhà nghiên cứu, các giảng viên đã và đang công tác ở Khoa Lịch sử, được chia thành các phần sau:
- Việt Nam trong tảng nền lịch sử - văn hóa khu vực
- Việt Nam và thế giới: Những tương đồng và dị biệt
- Việt Nam trong các mối quan hệ khu vực và thế giới
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả:
Thanh Lê
- Nxb: Hà Nội - 2004
- Khổ sách: 13 x 19 cm
- Số trang: 198 tr
- Hình thức bìa: mềm
Cuốn sách Cội nguồn và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam của tác giả Thanh Lê với nội dung nêu sơ lược về nguồn gốc và lịch sử dân tộc Việt Nam, các truyền thuyết và huyền thoại Hùng vương như: Họ Hồng Bàng; Sơn Tinh - Thủy Tinh, Bánh chưng - Bánh Giầy; Cây Cau; Dưa Hấu; Chử Đồng Tử; Phù Đổng Thiên Vương; Hùng Vương chọn đất đóng đô; Sơn Tinh đánh giặc, dạy dân săn bắn, làm lửa, cùng dân đánh cá, gánh đất trị thủy; Vua Hùng đi săn .v.v..
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Hà Nội - 2004
- Khổ sách: 13 x 19 cm
- Số trang: 198 tr
- Hình thức bìa: mềm
Cuốn sách Cội nguồn và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam của tác giả Thanh Lê với nội dung nêu sơ lược về nguồn gốc và lịch sử dân tộc Việt Nam, các truyền thuyết và huyền thoại Hùng vương như: Họ Hồng Bàng; Sơn Tinh - Thủy Tinh, Bánh chưng - Bánh Giầy; Cây Cau; Dưa Hấu; Chử Đồng Tử; Phù Đổng Thiên Vương; Hùng Vương chọn đất đóng đô; Sơn Tinh đánh giặc, dạy dân săn bắn, làm lửa, cùng dân đánh cá, gánh đất trị thủy; Vua Hùng đi săn .v.v..
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Ngày 02/7/2020, Viện trưởng Viện Khảo cổ học đã ra Quyết định số 141/QĐ-KCH về việc phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu đề tài: Nghiên cứu, chỉnh lý, bảo quản, xây dựng hồ sơ khoa học và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa di tích, di vật địa điểm Đường hầm và bãi xe ngầm tại 36 Điện Biên Phủ năm 2020.
Theo Quyết định, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng QLKH-KHTC-HTQT, Ban chủ nhiệm dự án chịu trách nhiệm tổ chức lựa chọn nhà thầu, giám sát, theo dõi hoạt động đấu thầu theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu được duyệt, đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
(Thông tin chi tiết vui lòng xem văn bản đính kèm).
Theo Quyết định, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng QLKH-KHTC-HTQT, Ban chủ nhiệm dự án chịu trách nhiệm tổ chức lựa chọn nhà thầu, giám sát, theo dõi hoạt động đấu thầu theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu được duyệt, đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
(Thông tin chi tiết vui lòng xem văn bản đính kèm).
Hướng tới Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, sáng ngày 26/06/2020, Chi bộ Viện Khảo cổ học long trọng tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025 tại Hà Nội.
Tham dự Đại hội, về phía Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có đồng chí Lê Thị Hải Nam – Thường vụ Đảng ủy, Chánh Văn phòng Đảng đoàn thể Viện Hàn lâm; về phía Chi bộ Viện Khảo cổ học có đồng chí Bùi Văn Liêm - Bí thư Chi bộ Viện Khảo cổ học, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương - Phó Bí thư Chi bộ Viện Khảo cổ học cùng toàn thể đảng viên trong Chi bộ cũng như các đại diện đoàn thể của Viện Khảo cổ học.

Toàn cảnh Đại hội Chi bộ Viện Khảo cổ học
Nhiệm kỳ 2015 - 2010, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khảo cổ học đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm, Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2015-2020 nhấn mạnh, Đại hội tổ chức trong dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tiến tới Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nên toàn bộ đảng viên đã phát huy tinh thần đổi mới, trách nhiệm cao, đóng góp trí tuệ để thảo luận và xây dựng nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của Chi bộ trong nhiệm kỳ 2020-2025.
Tại Đại hội, trình bày tóm tắt Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Chi bộ, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương đã nêu bật những thành tích mà Chi bộ đạt được trong nhiệm kỳ 2015 - 2020. Chi bộ Viện Khảo cổ học đã gặt hái được nhiều thành công trong một số lĩnh vực tiêu biểu sau: Về công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong nhiệm kỳ 2015-2020, các cán bộ, đảng viên trong Viện đã hoàn thành và đang thực hiện hiện 75 đề tài nghiên cứu khoa học các cấp. Về công tác lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ, Cấp ủy đã chỉ đạo chính quyền thực hiện quy trình để bổ bổ nhiệm lại và kéo dài thời gian giữ chức vụ đối với 13 đồng chí thuộc các chức danh quản lý cấp phòng; Về công tác xây dựng tổ chức Đảng và quản lý đảng viên, trong toàn nhiệm kì, Chi bộ đã kết nạp 01 đảng viên mới và hoàn tất hồ sơ chuẩn bị kết nạp cho 03 quần chúng ưu tú. Trong 5 năm qua, Chi bộ đã đạt được những kết quả nổi bật, toàn diện, mở ra một thời kỳ phát triển mới.
Các đại biểu đã lắng nghe, tích cực thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Báo cáo Tổng kết nhiệm kì 2015-2020 và phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020-2025. Các đảng viên trong Chi bộ đều nhất trí với nội dung báo cáo, đánh giá cao những thành tích đã đạt được. Một số đại biểu đã làm rõ những ưu điểm, hạn chế trong nhiệm kỳ vừa qua, phân tích nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm; đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện nhiệm vụ nhiệm kì 2020 -2025.

Đồng chí Lê Thị Hải Nam phát biểu chỉ đạo tại Đại hội
Phát biểu chỉ đạo Đại hội, đồng chí Lê Thị Hải Nam, Thường vụ Đảng ủy, Chánh Văn phòng Đảng Đoàn thể Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đánh giá cao công tác chuẩn bị đại hội của Chi bộ Viện Khảo cổ học, ghi nhận những thành tích Chi bộ đã đạt được trong nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng chí cũng đề nghị Chi bộ Viện Khảo cổ học tiếp tục bám sát nhiệm vụ chính trị trọng tâm, có giải pháp khắc phục những hạn chế, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng bộ Viện Hàn lâm giao phó. Đồng thời đồng chí Lê Thị Hải Nam cũng thay mặt Đảng ủy bày tỏ sự tri ân đối với các đồng chí đảng viên của Chi bộ Viện Khảo cổ học đã tận tâm cống hiến góp phần xây dựng Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày càng vững manh.
Thay mặt Đoàn chủ tịch Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm đã phát biểu lĩnh hội và cảm ơn Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Hải Nam trong nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Với tinh thần dân chủ, trách nhiệm, Đại hội đã tiến hành bầu cấp ủy Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2020 - 2025. Các đồng chí Hà Văn Cẩn và Bùi Văn Hiếu đã được bầu vào cấp ủy. Đồng chí Hà Văn Cẩn đã được bầu là Phó Bí thư Chi bộ với sự nhất trí cao trong Đại hội. Đại hội đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhiệm kỳ 2020 - 2025 gồm 03 đại biểu chính thức là đồng chí Bùi Văn Liêm, Nguyễn Gia Đối và Hà Văn Cân và 01 đại biểu dự khuyết là đồng chí Bùi Văn Hiếu.

Đồng chí Lê Thị Hải Nam tặng hoa chúc mừng các đồng chí Chi ủy chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2020 - 2025
Với cương vị Phó Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025, đồng chí Hà Văn Cẩn mong muốn đảng viên, cán bộ, công chức trong đơn vị phát huy những thành tích đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao sức chiến đấu của Chi bộ, xây dựng Chi bộ Viện Khảo cổ học trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện./.
Tham dự Đại hội, về phía Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có đồng chí Lê Thị Hải Nam – Thường vụ Đảng ủy, Chánh Văn phòng Đảng đoàn thể Viện Hàn lâm; về phía Chi bộ Viện Khảo cổ học có đồng chí Bùi Văn Liêm - Bí thư Chi bộ Viện Khảo cổ học, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương - Phó Bí thư Chi bộ Viện Khảo cổ học cùng toàn thể đảng viên trong Chi bộ cũng như các đại diện đoàn thể của Viện Khảo cổ học.

Toàn cảnh Đại hội Chi bộ Viện Khảo cổ học
Nhiệm kỳ 2015 - 2010, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khảo cổ học đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm, Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2015-2020 nhấn mạnh, Đại hội tổ chức trong dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tiến tới Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nên toàn bộ đảng viên đã phát huy tinh thần đổi mới, trách nhiệm cao, đóng góp trí tuệ để thảo luận và xây dựng nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của Chi bộ trong nhiệm kỳ 2020-2025.
Tại Đại hội, trình bày tóm tắt Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Chi bộ, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương đã nêu bật những thành tích mà Chi bộ đạt được trong nhiệm kỳ 2015 - 2020. Chi bộ Viện Khảo cổ học đã gặt hái được nhiều thành công trong một số lĩnh vực tiêu biểu sau: Về công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong nhiệm kỳ 2015-2020, các cán bộ, đảng viên trong Viện đã hoàn thành và đang thực hiện hiện 75 đề tài nghiên cứu khoa học các cấp. Về công tác lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ, Cấp ủy đã chỉ đạo chính quyền thực hiện quy trình để bổ bổ nhiệm lại và kéo dài thời gian giữ chức vụ đối với 13 đồng chí thuộc các chức danh quản lý cấp phòng; Về công tác xây dựng tổ chức Đảng và quản lý đảng viên, trong toàn nhiệm kì, Chi bộ đã kết nạp 01 đảng viên mới và hoàn tất hồ sơ chuẩn bị kết nạp cho 03 quần chúng ưu tú. Trong 5 năm qua, Chi bộ đã đạt được những kết quả nổi bật, toàn diện, mở ra một thời kỳ phát triển mới.
Các đại biểu đã lắng nghe, tích cực thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Báo cáo Tổng kết nhiệm kì 2015-2020 và phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020-2025. Các đảng viên trong Chi bộ đều nhất trí với nội dung báo cáo, đánh giá cao những thành tích đã đạt được. Một số đại biểu đã làm rõ những ưu điểm, hạn chế trong nhiệm kỳ vừa qua, phân tích nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm; đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện nhiệm vụ nhiệm kì 2020 -2025.

Đồng chí Lê Thị Hải Nam phát biểu chỉ đạo tại Đại hội
Phát biểu chỉ đạo Đại hội, đồng chí Lê Thị Hải Nam, Thường vụ Đảng ủy, Chánh Văn phòng Đảng Đoàn thể Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đánh giá cao công tác chuẩn bị đại hội của Chi bộ Viện Khảo cổ học, ghi nhận những thành tích Chi bộ đã đạt được trong nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng chí cũng đề nghị Chi bộ Viện Khảo cổ học tiếp tục bám sát nhiệm vụ chính trị trọng tâm, có giải pháp khắc phục những hạn chế, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng bộ Viện Hàn lâm giao phó. Đồng thời đồng chí Lê Thị Hải Nam cũng thay mặt Đảng ủy bày tỏ sự tri ân đối với các đồng chí đảng viên của Chi bộ Viện Khảo cổ học đã tận tâm cống hiến góp phần xây dựng Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày càng vững manh.
Thay mặt Đoàn chủ tịch Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm đã phát biểu lĩnh hội và cảm ơn Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Hải Nam trong nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Với tinh thần dân chủ, trách nhiệm, Đại hội đã tiến hành bầu cấp ủy Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2020 - 2025. Các đồng chí Hà Văn Cẩn và Bùi Văn Hiếu đã được bầu vào cấp ủy. Đồng chí Hà Văn Cẩn đã được bầu là Phó Bí thư Chi bộ với sự nhất trí cao trong Đại hội. Đại hội đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhiệm kỳ 2020 - 2025 gồm 03 đại biểu chính thức là đồng chí Bùi Văn Liêm, Nguyễn Gia Đối và Hà Văn Cân và 01 đại biểu dự khuyết là đồng chí Bùi Văn Hiếu.

Đồng chí Lê Thị Hải Nam tặng hoa chúc mừng các đồng chí Chi ủy chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2020 - 2025
Với cương vị Phó Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025, đồng chí Hà Văn Cẩn mong muốn đảng viên, cán bộ, công chức trong đơn vị phát huy những thành tích đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao sức chiến đấu của Chi bộ, xây dựng Chi bộ Viện Khảo cổ học trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện./.
Văn hóa Óc Eo phân bố ở vùng đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông,trên địa bàn các tỉnh Nam Bộ Việt Nam, trong đó tập trung dày đặc ở địa bàn hai huyện Thoại Sơn và Tri Tôn, tỉnh An Giang. Trong khu vực Thoại Sơn và Tri Tôn, ngoài những loại hình di tích khảo cổ như: di tích cư trú, di tích kiến trúc, di tích mộ địa, di tích tôn giáo…. còn có khá nhiều dấu tích về những đường nước cổ đã được người Óc Eo xưa đào, đắp và sử dụng liên tục trong một khoảng thời gian dài.Phát hiện và nghiên cứu hệ thống kênh mương cổ này đã được bắt đầu từ rất sớm, đặc biệt là những nghiên cứu của L. Malleret, tuy nhiên gần đây lại không còn được quan tâm, nghiên cứu tiếp.
Bằng các phương pháp liên ngành: Khảo cổ học, Viễn thám, Địa Vật lý - Địa chất và GIS, niên đại học các tác giả đã thu thập các loại dữ liệu bản đồ, bản ảnh...số hóa và biểu diễn chúng dưới dạng các phần tử không gian tập hợp. Góp phần làm rõ hơn diện mạo và đặc điểm phân bố của hệ thống các kênh mương cổ ởkhu vực Tri Tôn - Thoại Sơn và kênh số 16- một trong số những kênh đào có vai trò và vị thế quan trọng nhất của văn hóa Óc Eo, đã được L. Malleretđã đề xuất trước đây trên bản đồ,cũng như làm rõ hơn quá trình biến đổi của những kênh đào này. Kết quả nghiên cứu này trùng khớp với các công bố của L. Malleret. Việc tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu giải mã các công trình nghiên cứu trước đây của Louis Malleret về hệ thống các kênh đào cổ có ý nghĩa đặc biệt trong tìm hiểu, đánh giá giá trị di sản văn hóa Óc Eo vùng hạ lưu sông Mê Kông.
SYSTEM OF ANCIENT CANALS AT THOẠI SƠN AND TRI TÔN DISTRICTS (AN GIANG) FROM GEO - ARCHAEOLIGICAL DATA
The Óc Eo culture is distributed in the delta of the lower part of Mê Kông river, in the provinces of Southern Việt Nam, which densely concentrate on the locations of Thoại Sơn and Tri Tôn districts, An Giang province. In Thoại Sơn and Tri Tôn areas, apart from the archaeological types such as residential sites, architectural sites, cemeteries, religious sites, etc., there are fairly rich traces of ancient water lines that were dug, built and used for a long time by the ancient Óc Eo inhabitants. The discovery and research into the system of these ancient canals began very early, especially L.Malleret’s research, but recently they have not been interested and studied.
The authors have collected data of maps and photos, and then digitized and performed them in the form of aggregate spatial elements by the interdisciplinary method: Archaeology, Remote Sensing, Geophysics - Geology and GIS. This help clarify the appearance and distributive characteristics of the system of the ancient canals in Thoại Sơn and Tri Tôn areas and the channel 16 - one of the channels with the most important role and status of the Óc Eo culture, which had been previously proposed by L. Malleret on the map, and also clarified the transformation of these canals. The research results coincide with L. Malleret’s report. The acceptance and continuation to study and decipher the previous studies of Louis Malleret on the system of the ancient canals has special significance in understanding and evaluating the values of Óc Eo - culture heritage in the lower part of Mê Kông river.
Bằng các phương pháp liên ngành: Khảo cổ học, Viễn thám, Địa Vật lý - Địa chất và GIS, niên đại học các tác giả đã thu thập các loại dữ liệu bản đồ, bản ảnh...số hóa và biểu diễn chúng dưới dạng các phần tử không gian tập hợp. Góp phần làm rõ hơn diện mạo và đặc điểm phân bố của hệ thống các kênh mương cổ ởkhu vực Tri Tôn - Thoại Sơn và kênh số 16- một trong số những kênh đào có vai trò và vị thế quan trọng nhất của văn hóa Óc Eo, đã được L. Malleretđã đề xuất trước đây trên bản đồ,cũng như làm rõ hơn quá trình biến đổi của những kênh đào này. Kết quả nghiên cứu này trùng khớp với các công bố của L. Malleret. Việc tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu giải mã các công trình nghiên cứu trước đây của Louis Malleret về hệ thống các kênh đào cổ có ý nghĩa đặc biệt trong tìm hiểu, đánh giá giá trị di sản văn hóa Óc Eo vùng hạ lưu sông Mê Kông.
SYSTEM OF ANCIENT CANALS AT THOẠI SƠN AND TRI TÔN DISTRICTS (AN GIANG) FROM GEO - ARCHAEOLIGICAL DATA
The Óc Eo culture is distributed in the delta of the lower part of Mê Kông river, in the provinces of Southern Việt Nam, which densely concentrate on the locations of Thoại Sơn and Tri Tôn districts, An Giang province. In Thoại Sơn and Tri Tôn areas, apart from the archaeological types such as residential sites, architectural sites, cemeteries, religious sites, etc., there are fairly rich traces of ancient water lines that were dug, built and used for a long time by the ancient Óc Eo inhabitants. The discovery and research into the system of these ancient canals began very early, especially L.Malleret’s research, but recently they have not been interested and studied.
The authors have collected data of maps and photos, and then digitized and performed them in the form of aggregate spatial elements by the interdisciplinary method: Archaeology, Remote Sensing, Geophysics - Geology and GIS. This help clarify the appearance and distributive characteristics of the system of the ancient canals in Thoại Sơn and Tri Tôn areas and the channel 16 - one of the channels with the most important role and status of the Óc Eo culture, which had been previously proposed by L. Malleret on the map, and also clarified the transformation of these canals. The research results coincide with L. Malleret’s report. The acceptance and continuation to study and decipher the previous studies of Louis Malleret on the system of the ancient canals has special significance in understanding and evaluating the values of Óc Eo - culture heritage in the lower part of Mê Kông river.
(Tạp chí Khảo cổ học số 3/2019)
Thời kỳ phát triển rực rỡ của nghệ thuật Champa thể hiện qua các công trình kiến trúc và điêu khắc được sáng tạo vào thế kỷ XI và XII dưới các triều vua Harivarman và Jaya Harivarman. Trong đó, sự hoàn thiện kỹ thuật xây dựng đền - tháp cũng như xu hướng thẩm mỹ cho thấy những ảnh hưởng nghệ thuật từ đế chế Chola (Nam Ấn Độ).
Bài viết là nghiên cứu bước đầu về mối quan hệ Chola và Champa, giải mã một phần những nghi vấn về những sự cố lịch sử đã tạo nên ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Chola đến Champa trong thế kỷ XI cũng như đến các nền văn hóa khác của Đông Nam Á đương thời. Mối quan hệ giữa Chola và Champa được đặt trong bối cảnh giao thương hàng hải giữa Nam Ấn và Hoa Nam, đế chế Chola đã tiến hành kiểm soát con đường hải thương này và đã ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển thương mại toàn vùng Đông Nam Á, mà trực tiếp là Champa, nơi vốn là cơ sở trao đổi hàng hóa cao cấp gần gũi nhất với vùng Hoa Nam.
Những ảnh hưởng của nghệ thuật Chola trong văn hóa Champa đã in đậm dấu ấn trên các công trình kiến trúc đền - tháp được xây mới hoặc trùng tu tại hai khu di tích là Mỹ Sơn (Quảng Nam) và Po Nagar (Nha Trang). Kỹ thuật xây dựng đền - tháp Champa đã được cải thiện hoàn mỹ, có thể minh chứng bằng những công trình to lớn hơn được xây dựng ở vùng Amaravati, chẳng hạn sự phát triển toàn diện của tổ hợp đền - tháp tại Mỹ Sơn. Bên cạnh đó, có một mối tương quan nghệ thuật trong vùng Đông Nam Á, chúng cùng chia sẻ một xu hướng thẩm mỹ mới đến từ những ảnh hưởng của nghệ thuật Chola đương thời.
(Thân Hằng dẫn theo Tạp chí Khảo cổ học số 2-2019)
Trang
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9904465
Số người đang online: 19