Ngày 1/1, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế tổ chức khai trương không gian Ngọ Môn (Đại nội Huế) sau nhiều tháng bảo tồn, tu bổ tổng thể, với tổng kinh phí khoảng 44 tỷ đồng.

thua thien hue hoan thanh du an bao ton tu bo tong the di tich ngo mon
Di tích Ngọ Môn nằm ở cổng chính phía Nam của Hoàng thành Huế.

Dự án bảo tồn, tu bổ tổng thể di tích Ngọ Môn (Đại nội Huế), giai đoạn 2 được đầu tư với tổng kinh phí khoảng 44 tỷ đồng. Quy mô tiếp tục thực hiện những phần việc mà giai đoạn 1 chưa thực hiện, bao gồm: Sơn thếp toàn bộ cấu kiện gỗ lầu Ngũ Phụng (hai tầng nhà chính và tả, hữu Dực Lâu) bằng kỹ thuật sơn truyền thống gồm sơn son thếp vàng, sơn son không thếp, sơn quang tùy vào từng không gian khác nhau.

Hạ tầng xung quanh khu vực Ngọ Môn và gắn kết với công trình về mặt giao thông cũng như cảnh quan từ mọi góc nhìn. Phạm vi phần hạ tầng xung quanh Ngọ Môn được nghiên cứu có diện tích 1,33ha (chiều ngang 118,04m chiều dài 113,03m) bao gồm các hạng mục có liên quan đến công trình: Sân, mặt cầu (ba cầu qua hồ Kim Thủy, cầu Trung Đạo) hệ thống lan can (hồ Kim Thủy, hồ Thái Dịch), bia “Khuynh cái hạ mã”, cây xanh... Hệ thống chiếu sáng nội thất, chống cháy theo kỹ thuật hiện đại và tiêu chuẩn Việt Nam ban hành. Sau nhiều tháng thi công, đến thời điểm hiện tại Ngọ Môn đã được phục hồi toàn diện.

Ngọ Môn là cổng chính nằm ở phía Nam của Hoàng thành Huế, được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), khi triều Nguyễn tổ chức quy hoạch lại toàn bộ mặt bằng kiến trúc Hoàng thành. Nguyên tại vị trí này trước đây là Nam Khuyết Đài, được xây dựng vào đầu thời vua Gia Long.

Ngọ Môn được chia làm hai phần chính gồm phần nền đài và lầu Ngũ Phụng. Phần nền đài có bình diện hình chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m, cạnh bên dài 27,06m. Đài xây bằng gạch, đá kết hợp với các thanh dầm chịu lực bằng đồng thau. Đài cao gần 5m, diện tích chiếm đất hơn 1.560m2 (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ 5 cửa, trong đó cửa chính giữa là Ngọ Môn, cửa này chỉ dành cho vua đi. Hai cửa bên là tả Giáp Môn và hữu Giáp Môn, dành cho các quan văn, võ theo cùng trong đoàn ngự đạo. Hai cửa ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U được gọi là tả Dịch Môn và hữu Dịch Môn, dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu.

Lầu Ngũ Phụng đặt ở phía trên đài, được tôn cao bởi một hệ thống nền cao 1,15m và cũng chạy suốt thân đài hình chữ U. Lầu có hai tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẵn 100 cây cột. Con số 100 cây cột cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập. Trong đó, có ý kiến cho rằng con số 100 biểu hiện cho sự hài hòa “âm dương nhất thể”, hay ý kiến khác lý giải rằng đó là biểu trưng của sức mạnh trăm họ (bách tính).

Phần mái tầng dưới nối liền nhau, chạy vòng quanh để che cho phần hồi lang. Mái tầng trên chia thành 9 bộ. Trong đó, bộ mái chính giữa của lầu Ngũ Phụng lợp ngói ống màu vàng, tám bộ còn lại lợp ngói ống màu xanh. Phía trước chính giữa là hệ thống cửa thượng song hạ bản, xung quanh và phía sau nong ván, trên đó trổ nhiều cửa sổ với hình dáng rất phong phú và đa dạng như hình tròn, hình quạt, hình khánh… Các bờ nóc, bờ quyết, hồi mái được trang trí bằng nhiều chi tiết hoa văn tinh xảo.

Chính nhờ sự kết hợp, sắp đặt tài tình cộng với bàn tay khéo léo và đôi mắt thẩm mỹ cao của các nhà kiến trúc thời Nguyễn mà tổng thể Ngọ Môn tuy đồ sộ, nguy nga, nhưng lại không hề thô cứng, đơn điệu mà ngược lại rất mềm mại, xinh xắn, tráng lệ.

Ngọ Môn ngoài chức năng là cổng chính ra vào Hoàng Cung thì đây còn là một lễ đài trong nhiều sự kiện trọng đại của triều đình. Đây là nơi vua ngự xem duyệt binh, dự các lễ Truyền lô - xướng danh các sĩ tử thi đỗ tiến sỹ, lễ Ban sóc (ban bố lịch vào năm mới cho cả nước)… Đặc biệt, vào năm 1945, chính tại nơi đây vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm lại cho cách mạng và chính thức nền phong kiến Việt Nam cáo chung.

Với vai trò quan trọng, Ngọ Môn luôn được quan tâm trùng tu, sửa chữa, đặc biệt vào năm Minh Mạng thứ 20 (1939) và dưới các đời vua Thành Thái, Khải Định. Sau khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945, Ngọ Môn vẫn luôn được quan tâm bảo tồn, trùng tu vào các năm 1956, 1963 vì đây là một công trình đặc biệt quan trọng của quốc gia. Tuy nhiên, vào năm 1968, trong biến cố Mậu thân, Ngọ Môn nằm trong trọng tâm của vùng chiến sự nên đã bị hư hại nghiêm trọng, đặc biệt là tả - hữu Dực Lâu. Ngoài ra, hệ lan can chung quanh lầu cùng với hệ lan can hồ Ngoại Kim Thủy cũng đã bị tổn hại phần lớn.

Sau ngày đất nước được thống nhất, nhờ sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức quốc tế Ngọ Môn đã trải qua rất nhiều đợt trùng tu, sửa chữa, trong đó phải kể đến là đợt tu bổ Ngọ Môn với quy mô lớn đã được tiến hành từ năm 1990 - 1993, có sự tài trợ của Chính phủ Nhật Bản và hỗ trợ kỹ thuật của UNESCO. Sau đợt tu bổ này tình trạng kỹ thuật lầu Ngũ Phụng đã được cải thiện rõ rệt. Đến năm 1999, Ngọ Môn được tiếp tục trùng tu, sửa chữa với hạng mục phục hồi đá Thanh bị hỏng cho 5 cửa. Đặc biệt, năm 2012, sau khi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, dự án trùng tu tổng thể Ngọ Môn chính thức được triển khai với số vốn đầu tư hơn 80 tỷ đồng, chia làm 2 giai đoạn 2012 - 2015 và 2016 - 2019.

Trí Đức

Tháp Bình Sơn tọa lạc trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh, thuộc thị trấn Tam Sơn (Sông Lô - Vĩnh Phúc) được mệnh danh là tòa tháp "đẹp nhất xứ Bắc" mang kiến trúc tiêu biểu thời Lý - Trần ở Việt Nam.

can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Tháp Bình Sơn là cây tháp đất nung thời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Tháp có tổng cộng từ khoảng 13 đến 15 tầng, tuy nhiên trải qua thời gian, tác động của thiên nhiên và các lần tu bổ, hiện còn 11 tầng tháp và một tầng trệt.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Ngôi tháp có chiều cao 14,7m , phần chân tháp rộng gần 4,5m. Toàn bộ tháp được xây bằng hơn 13.000 viên gạch đất nung, được ốp một lớp gạch vuông, mỗi cạnh dài 0,46m, phủ kín thân tháp.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao của nước ta. Đây cũng được xem là ngọn tháp đất nung đời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Hiện tại, nhiều viên gạch của thân tháp vẫn giữ được còn giữ nguyên được màu đỏ son mà không bị rêu mốc sau gần nghìn năm tồn tại.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Duy chỉ có ở phần chân tháp đã phủ màu cổ kính, rêu phong theo thời gian.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Vào đầu những năm 1960, đê sông Lô vỡ, ngập lụt liên miên, xói lở tận chân tháp, nên tháp Bình Sơn bị nghiêng có nguy cơ bị đổ. Khi chỏm tháp rơi xuống, một số mái vỡ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phú cùng Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch đã quyết định phục dựng.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Hiện nay, nhiều chỗ trên tháp đã bị sương, gió ăn mòn theo thời gian, nhưng ngôi tháp vẫn giữ được hình dáng khỏe khoắn vốn có.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Các nghệ nhân khi xây dựng tháp đã dựa vào tầm nhìn của người chiêm ngưỡng mà trang trí hoa văn tinh xảo, tỉ mỉ hay đơn giản...
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Tháp Bình Sơn vốn được phát hiện và nghiên cứu từ thời Pháp, người Pháp đánh giá đây là một tòa tháp đẹp nhất xứ Bắc.
can canh bao thap dep nhat xu bac duoc xay bang 13 nghin gach dat nung co
Ngày 4/1962, tháp Bình Sơn được Nhà Nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa quốc gia và tháng 3/2016, tháp Bình Sơn đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.

Công trình cụm tháp Pô Klông Garai tỉnh Ninh Thuận được xây dựng từ thế kỷ XIII, tại khu vực Đồi Trầu, để thờ vị vua Chăm trị vì xứ Panduranga (Ninh Thuận ngày nay); ông có tên là Pô Klông Garai (1151 - 1205). Hiện nay, cụm tháp thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, cụm tháp còn nguyên về cả công trình kiến trúc lẫn việc tổ chức thờ phượng, cúng kính của người Chăm.

huyen bi cong trinh thap po klong garai tai ninh thuan
Cụm tháp Pô Klông Garai tỉnh Ninh Thuận được xây dựng từ thế kỷ XIII, tại khu vực Đồi Trầu.

Tháp Pô Klông Garai là một quần thể gồm 3 tháp, cụ thể như: tháp chính thờ tượng vua Pô Klông Garai, tháp cổng ở phía Đông và tháp Thần Lửa hơi chếch về phía Nam có mái hình thuyền. Đây là một công trình có giá trị nghệ thuật kiến trúc xây dựng và điêu khắc các phù điêu như: Thần Siva, tượng Bò Thần Nandin... Tháp chính có bình đồ vuông cao 20m50, nhiều tầng, tầng trên là sự lặp lại tầng dưới thu nhỏ cho đến đỉnh là một trụ đá nhọn, biểu tượng là một Linga. Ở các góc tháp lên dần đều là các ụ vuông nhỏ, các góc có gắn tượng thú bằng đá và các hình ngọn lửa bằng gạch nung.

Tháp gồm một cửa chính ra vào ở hướng Đông, trên cửa là mái vòm, có 2 trụ đá lớn đỡ, mặt trụ đá khắc chữ Chăm cổ, bên trên cửa có phù điêu thần Siva múa, có 6 tay: 4 tay cầm đinh ba, dao găm, hoa sen, chén, 2 tay trên chắp lại; ba cửa còn lại ở 3 hướng Nam, Bắc, Tây là cửa giả, trụ ốp gạch lồi, lõm vào trong trên mỗi cửa giả có một tượng thần tư thế thiền. Các tầng trên ở vị trí trên cửa là các lá đề bằng đá. Từ cửa vào, bên trái có một tượng bò thần Nandin bằng đá. Tư thế bò đang nằm, đầu hướng vào trong tháp, nơi đang thờ tượng vua.

Vào trong tháp, ở trung tâm là một Yoni cạnh dài 1m47, cạnh ngang 0m94, trên Yoni là một Linga tròn, phía trên trụ Linga có chạm khắc chân dung vua Pô Klông Garai nhô ra (đây là hình thức mặt người trên Linga, gọi là Mukha-Linga), 3 mặt tường trong tháp có các ô tam giác để đèn. Phía trên có một khung gỗ có chức năng để ngăn phần dưới với nóc tháp như là một cái lọng che. Phía ngoài có một sảnh nối sân để cúng tế bằng một tầng cấp.

Thẳng về phía Đông là tháp cổng, bình đồ vuông. Tháp giống tháp chính song nhỏ thấp hơn, chỉ cao 8m56, có 2 cửa thông nhau theo hướng Đông - Tây nên gọi là tháp cổng. Tháp cũng được xây theo nguyên tắc lên dần thu nhỏ.

huyen bi cong trinh thap po klong garai tai ninh thuan
Tháp có kiến trúc độc đáo.

Phía Nam giữa hai tháp trên là tháp thờ Thần Lửa, cao 9m31. Tháp có 3 cửa thông nhau ở 3 hướng Đông, Bắc và Nam, riêng phía Nam là cửa sổ. Chức năng tháp có thể để cho các tu sĩ Bàlamôn, các chức thầy cúng khác giữ các vật tế lễ và giữ ngọn lửa tế nên có người Chăm gọi là Tháp Lửa.

Điều đặc biệt là Tháp không xây theo nguyên tắc thu nhỏ dần khi lên cao như truyền thống 2 tháp kia mà cấu trúc mái theo kiểu hình mái nhà (hình giống mái nhà prông ở Tây Nguyên hoặc mái nhà hình thuyền như mặt trên trống đồng).

Ở phía sau tháp chính có 1 miếu thờ tượng Kút hoàng hậu, trong sử ghi tên là Tố Lý. Ở ngoài vòng thành phía Nam quần thể tháp có 1 trụ đá (Linga) cao 2m20, người ta chưa biết đích xác là nhằm vào chức năng gì, hoặc có thể có trước tháp. Cũng nằm ngoài vòng thành phía Đông Bắc quần thể tháp có 1 tảng đá bánh ú 3 mặt có chữ có khắc chữ Chăm cổ.

Theo các tài liệu bia ký tại tháp thì nguyên khởi tại vị trí này, vào năm 1050, 2 Hoàng thân anh em tên là Yuvaraja và Devaraja, sau khi chiến thắng cuộc nổi dậy của người dân xứ Panduranga, đã cho dựng 1 Linga và 1 cột chiến thắng tại đây. Ngoài ra, cũng theo tài liệu, cụm tháp này do Jaya Simhavarman III, người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông vào cuối thế kỷ XIII của Chămpa, xây dựng trên nền tảng những di tích có trước đó để tôn kính người tiền bối là Pô Klông Garai.

Tương truyền hiện nay trong tâm thức dân tộc Chăm, vua Pô Klông Garai là vị vua có công lớn trong việc canh tân xứ sở, điển hình nhất là vua chỉ huy việc xây dựng hệ thống dẫn thủy nhập điền vào những cánh đồng khô hạn ở Phan Rang, mà ngày nay đập nước Nha Trinh trên sông Cái đưa nước vào các cánh đồng ở Phan Rang là kế thừa và phát triển hệ thống dẫn thủy nhập điền có từ thời vị vua này. Cũng chính vì vậy, Pô Klông Garai được tôn là thần.

Hàng năm vào ngày cuối tháng 6, ngày 1/7 tính theo lịch Chăm, (khoảng tháng 9, 10 Dương lịch), đúng ngày Lễ hội Katê, hàng ngàn người Chăm tổ chức cúng tại 3 tháp Pô Klông Garai, Pô Rômê, đền Pô Inư Nưgar một cách trang trọng.

Trước đó, tỉnh Ninh Thuận đã đón nhận Di tích quốc gia đặc biệt cho Di tích kiến trúc nghệ thuật tháp Pô Klông Garai theo Quyết định số 2499/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ. Và năm 2017, Lễ hội Katê cũng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

huyen bi cong trinh thap po klong garai tai ninh thuan

Di tích kiến trúc nghệ thuật tháp Pô Klông Garai đã được đón nhận Di tích quốc gia đặc biệt.

huyen bi cong trinh thap po klong garai tai ninh thuan

Công trình có giá trị nghệ thuật kiến trúc xây dựng và điêu khắc các phù điêu như: Thần Siva, tượng Bò Thần Nandin...

huyen bi cong trinh thap po klong garai tai ninh thuan

Du khách đến tham quan, chụp hình lưu niệm tại tháp Pô Klông Garai.

Bài và ảnh: Duy Quan

Nằm ở thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, cách trung tâm tỉnh khoảng 10km về phía Nam, thành cổ Diên Khánh được coi là tòa thành nguyên vẹn nhất của nhà Nguyễn bên ngoài Cố đô Huế.

ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Lầu tứ giác có mái uốn cong lợp ngói âm dương; cổ lầu cao 4,1m so với nền được xây dựng trên các cổng thành của hệ thống thành cổ Diên Khánh. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Lầu tứ giác có mỗi cạnh 3,30m với 4 cửa rộng 1,30m cao 2,5m, trên cùng là cổ lầu có mái uốn cong lợp ngói âm dương; cổ lầu cao 4,1 m so với nền; hai bên lầu tứ giác được xây lan can cao 0,85m được xây dựng trên các cổng thành của hệ thống thành cổ Diên Khánh. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Cửa Tiền của thành cổ Diên Khánh, nằm trên trục đường phía Nam thị trấn Diên Khánh. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Cửa Đông thành cổ Diên Khánh vào một ngày mùa đông tháng 12/2020. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Rêu xanh phủ khắp tường, cổng thành Diên Khánh. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Cổng Tây thành cổ Diên Khánh.(Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Một góc thị trấn Diên Khánh nhìn từ lan can cổng Tây của thành cổ Diên Khánh.(Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)
ve dep kien truc di tich lich su quoc gia thanh co dien khanh
Cửa Đông thành cổ Diên Khánh được các em nhỏ trong khu vực chọn là điểm đến tham quan, học tập về các kiến thức lịch sử của địa phương. (Ảnh: Phan Sáu/TTXVN)

 

Theo (TTXVN/Vietnam+)

 
- Tác giả: Đặng Việt Thủy, Giang Tuyết Minh
- Nxb: Quân đội nhân dân - 2009
-  Khổ sách: 14,5 x 20, 5 cm
- Số trang: 363 tr
 
Ở Việt Nam, nghệ thuật xây thành đắp lũy đã có từ rất xưa, những di tích kiến trúc thành cổ có ở rất nhiều nơi trên mọi miền đất nước. Tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà mỗi tòa thành mang dấu ấn đặc trưng riêng. Có những tòa thành chỉ thuần túy mang tính chất một trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa. Về kiến trúc gồm đủ hình dáng: hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn hay có những tòa thành lại thuận theo địa hình tự nhiên để xây dựng. Vật liệu xây dựng cũng thật phong phú: những phiến đá được gọt đẽo, đất, gạch nung ...
Cuốn sách sẽ đưa bạn đọc thăm lại thành Cổ Loa - sự đúc kết tuyệt vời về trí tuệ của cha ông, công trình sáng tạo vĩ đại của dân Việt, thăm lại thành cổ, cố đô Hoa Lư - kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam, thăm thành cổ Quảng Trị với chiến công 81 ngày đêm đã trở thành một huyền thoại về tinh thần quật khởi kiên cường của nhân dân Quảng Trị nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, thăm kinh thành Huế - nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm ... nội dung cuốn sách đã giới thiệu được 56 tòa thành.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Nguyễn Văn Cương
- Nxb: Văn hóa - Thông tin - 2006
-  Khổ sách: 14,5 x 20, 5 cm
- Số trang: 310 tr
 
Làng và đình làng của người Việt đã có rất nhiều người thuộc nhiều ngành, nhiều thế hệ nghiên cứu và khai thác các giá trị văn hóa. Cuốn sách Mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc bộ giới thiệu đến độc giả về nguồn gốc cái đình, chức năng của đình, về nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc đình làng ở Bắc bộ ...
Nội dung cuốn sách gồm 4 chương:
Chương 1: Đình làng và văn hóa làng Đồng bằng Bắc bộ: Chương này nêu 2 vấn đề: Một là yếu tố làm mên diện mạo văn hóa làng đồng bằng Bắc bộ; Hai là Đình là - nguồn gốc và chức năng.
Chương 2: Mỹ thuật đình làng - sự hiện hữu của tư duy và thẩm mỹ dân tộc gồm 3 vấn đề: kiến trúc, điêu khắc, tranh vẽ ở đình làng
Chương 3: Mỹ thuật đình làng nhìn từ văn hóa. Trong chương nêu tâm thức phồn thực và ngôi đình làng, mỹ thuật đình làng Bắc bộ từ cái nhìn sinh thái - nhân văn, ý nghĩa và biểu tượng của những mô típ trang trí trong điêu khắc đình làng.
Chương 4: Kế thừa và phát huy di sản mỹ thuật Đình làng: Mỹ thuật đình làng phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn và phát huy di sản mỹ thuật đình làng.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Đặng Phúc Tinh - Hoàng Lan
- Nxb: Thế Giới
-  Khổ sách: 14,5 x 20, 5 cm
- Số trang: 238 tr
Trích lời tựa của Tôn Gia Chính “Trung Quốc là nước có nền văn minh cổ xưa phương Đông. Dân tộc Trung Hoa trải qua mấy nghìn năm tôi luyện và hòa hợp, kết tụ và phát triển, đã trở thành một dân tộc vĩ đại tràn đầy sức sống trong cộng đồng các dân tộc thế giới. Dân tộc Trung Hoa đã thu hút được muôn phương mà lại có phong thái độc đáo, hình thành nên nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ muôn màu mà lại đa nguyên nhất thể, rộng lớn sâu lắng mà lại mộc mạc tươi đẹp...”
Nội dung cuốn sách giới thiệu về mỹ thuật của Trung Quốc trong điêu khắc, tạc tượng, trong trang trí hoa văn gốm, tranh vẽ, tranh khắc...
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
  
Sách Mộ cổ Nam Bộ của PGS. TS. Phạm Đức Mạnh (Giảng viên cao cấp Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) do Nxb.Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh ấn hành vào Quý I năm 2020 (số ISBN: 978-604-58-9628-0; Khổ 16 X 24 cm).
 "Mộ cổ Nam Bộ" - Một cuốn sách, một công trình tỉ mỉ, nghiêm túc và cẩn trong của tác giả Phạm Đức Mạnh và cộng sự, cùng với nỗ lực của tập thể Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM. Chính vì vậy, ngay từ khi ra mắt đã nhận được sự quan tâm, đóng góp, ủng hộ rất lớn từ độc giả, những nhà nghiên cứu chuyên môn. Đó thực sự là một niềm vinh hạnh của những người làm sách.
 Chuyên khảo "Mộ cổ Nam Bộ" được xuất bản với mục đích cung cấp tối đa lượng thông - tư liệu khoa học - kết quả điền dã (điều tra, thám sát, phát hiện, khai quật khảo cổ học), giám định mẫu vật và những kiến giải khoa học của tác giả và cộng sự về loại hình di tích Khảo cổ học Lịch sử mộ táng cơ bản hiện hữu ở Nam Bộ đặt trong khung cảnh Việt Nam thời trung và cận đại.
 Chuyên khảo với mục đích giữ cho bằng được cái giá trị văn hóa dân tộc, theo như tinh thần của Federico Mayor, Tổng giám đốc Unesco đã nói "Cần phải giữ gìn cho được mọi giá trị văn hóa dân tôc, dù cho nó chỉ còn là những mảnh vỡ nhỏ. Bởi vì, văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng người, thậm chí của một cá thể, là những điều không thể thay thế được".
Xin trân trọng giới thiệu!
Nguồn: Nxb Tổng hợp TP.HCM
- Tác giả: Phạm Đức Mạnh, Hồ Tiến Duật
- Nxb: Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh - 2020
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 441 tr
 
Đàn đá là một trong những loại hình di vật khảo cổ học tiêu biểu vào bậc nhất của văn hóa vật chất thời nguyên thủy ở miền Nam Việt Nam.
Vào cuối năm 1979, các nhà khảo cổ khai quật làng xưởng Bình Đa (Đồng Nai) đã phát hiện chính trong trầm tích văn hóa một số thanh đoạn đàn đá nằm bên di vật nguyên thủy có tuổi carbone phóng xạ C14 tới 3.180±50 năm cách nay (lê Xuân Diệm, Nguyễn Văn Long, 1983).
Sau đó, lần đầu tiên ở Việt Nam, chúng ta được biết hai bộ đàn đá nguyên vẹn khám phá trong lòng đất Lộc Hòa (Lộc Ninh - Bình Phước) từ cuối năm 1996.
Nhân sự kiện Đàn đá Lộc Hòa được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận là “Bảo vật Quốc gia” năm 2017, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng tỉnh Bình Phước chủ trương hợp tác với PGS. TS. Phạm Đức Mạnh, giảng viên cao cấp Bộ môn Khảo cổ học (Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) tiếp tục nghiên cứu hệ thống các tư liệu cơ bản nhất về đàn đá nói riêng và về “thời tiền sử và sơ sử”  trên đất Bình Phước nói chung, phục vụ cho công tác xây dựng một trong các nội dung quan trọng của đề tài về Đàn đá ở Nam Bộ và phát huy tác dụng các giàn đàn Bảo vật Quốc gia đã phát hiện ở Lộc Hòa - Lộc Ninh.
Sách "Đàn đá Lộc Hòa" của PGS.TS. Phạm Đức Mạnh (Giảng viên cao cấp Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV- ĐHQGHCM) – chủ biên, và Hồ Tiến Duật (Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bình Phước) – đồng chủ biên, do Nxb.Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh ấn hành quý I năm 2020. 
Nguồn: Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM
  •  Bộ sách do Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu di sản văn hóa biển Quốc gia Hàn Quốc tổ chức bản thảo, biên soạn nội dung bằng tiếng Việt và tiếng Hàn, xuất bản tại Hàn Quốc vào thời gian cuối 2019 đến đầu năm 2020. Sách có kích thước: 23 x 29cm, gồm 3 tập với tổng cộng hơn 1000 trang viết và hình ảnh minh họa sinh động.
Ấn phẩm là kết quả báo cáo nghiên cứu “Thương cảng cổ Việt Nam” được hai cơ quan phối hợp khảo sát từ năm 2013 đến năm 2019.
Thương cảng là nguồn tư liệu quan trọng để hiểu được toàn bộ về kinh tế, xã hội, văn hóa và lịch sử của một quốc gia. Thương cảng Việt Nam không chỉ đóng vai trò kết nối đồng bằng, cao nguyên và bờ biển mà còn là một cứ điểm quan trọng trong mạng lưới giao thương quốc tế, kết nối Đông Tây với các quốc gia trên bán đảo Đông Dương.
Qua quá trình khảo sát khoảng 400 địa điểm gồm các hải cảng, cửa biển, bến thuyền và các di tích liên quan như chợ quán, bến bãi, đình chùa, đền miếu …, phân bố trên toàn lãnh thổ Việt Nam dọc theo 3.260km bờ biển nhằm làm sáng tỏ thực tế lịch sử trong văn hóa biển của Việt Nam, đồng thời xác nhận một phần sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc từ xa xưa thông qua việc nghiên cứu các di vật, cổ vật…Bộ sách có một điểm rất đặc biệt là phần III và phần II được xuất bản trước (tháng 12 năm 2019), còn phần I được xuất bản tháng 4 năm 2020, nội dung cụ thể được giới thiệu trong từng phần của bộ sách:

Phần I: Thương cảng cổ ở miền Bắc Việt Nam, xuất bản năm 2020, 317 trang.
Trong phần này, cuốn sách tập trung giới thiệu khái quát về lịch sử hải thương với sự hình thành và phát triển thương cảng ở Việt Nam; hệ thống thương cảng cổ ở miền Bắc Việt Nam từ thời cảng thị sơ khai thời nhà nước Văn Lang cho đến giai đoạn quốc gia Đại Việt độc lập: Đô thị cổ Hoa Lư; Đô thị thương cảng Thăng Long - Kẻ Chợ; Đô thị thương cảng Phố Hiến…

Phần II: Thương cảng cổ ở miền Trung Việt Nam, xuất bản năm 2019, 449 trang, được nghiên cứu theo ba nội dung:
1. Thương cảng vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh (từ đầu công nguyên đến thế kỷ 20).
2. Khái quát về cảng thị sơ khai thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam (thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN).
3. Hệ thống thương cảng cổ thời Champa đến Đại Việt (từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 20), tiêu biểu: Thương cảng ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh Hà, Bao Vinh, Hội An…

Phần III: Thương cảng cổ ở miền Nam Việt Nam, xuất bản năm 2019, 317 trang, với ba nội dung chính:
1. Từ những cảng thị sơ khai của văn hóa Đồng Nai cho đến thương cảng Óc Eo - Phù Nam ở miền Nam Việt Nam (khoảng thế kỷ 7 TCN đến thế kỷ 7 SCN).
2. Giai đoạn hoang hóa và sự tái sinh của vùng đất Nam Bộ.
3. Hệ thống thương cảng ở Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, tiêu biểu: Thương cảng Cù Lao Đại Phố, Mỹ Tho Đại Phố, Hà Tiên, Sài Gòn - Chợ Lớn…
Xin trân trọng giới thiệu!
Nguồn: Thúy Hà - Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9902161
Số người đang online: 11