Theo Quyết định, Phòng Tổ chức hành chính, Phòng QLKH-KHTC-HTQT, Ban chủ nhiệm dự án chịu trách nhiệm tổ chức lựa chọn nhà thầu, giám sát, theo dõi hoạt động đấu thầu theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu được duyệt, đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
(Thông tin chi tiết vui lòng xem văn bản đính kèm).
Tham dự Đại hội, về phía Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có đồng chí Lê Thị Hải Nam – Thường vụ Đảng ủy, Chánh Văn phòng Đảng đoàn thể Viện Hàn lâm; về phía Chi bộ Viện Khảo cổ học có đồng chí Bùi Văn Liêm - Bí thư Chi bộ Viện Khảo cổ học, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương - Phó Bí thư Chi bộ Viện Khảo cổ học cùng toàn thể đảng viên trong Chi bộ cũng như các đại diện đoàn thể của Viện Khảo cổ học.
Toàn cảnh Đại hội Chi bộ Viện Khảo cổ học
Nhiệm kỳ 2015 - 2010, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khảo cổ học đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm, Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2015-2020 nhấn mạnh, Đại hội tổ chức trong dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tiến tới Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nên toàn bộ đảng viên đã phát huy tinh thần đổi mới, trách nhiệm cao, đóng góp trí tuệ để thảo luận và xây dựng nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của Chi bộ trong nhiệm kỳ 2020-2025.
Tại Đại hội, trình bày tóm tắt Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Chi bộ, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương đã nêu bật những thành tích mà Chi bộ đạt được trong nhiệm kỳ 2015 - 2020. Chi bộ Viện Khảo cổ học đã gặt hái được nhiều thành công trong một số lĩnh vực tiêu biểu sau: Về công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong nhiệm kỳ 2015-2020, các cán bộ, đảng viên trong Viện đã hoàn thành và đang thực hiện hiện 75 đề tài nghiên cứu khoa học các cấp. Về công tác lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ, Cấp ủy đã chỉ đạo chính quyền thực hiện quy trình để bổ bổ nhiệm lại và kéo dài thời gian giữ chức vụ đối với 13 đồng chí thuộc các chức danh quản lý cấp phòng; Về công tác xây dựng tổ chức Đảng và quản lý đảng viên, trong toàn nhiệm kì, Chi bộ đã kết nạp 01 đảng viên mới và hoàn tất hồ sơ chuẩn bị kết nạp cho 03 quần chúng ưu tú. Trong 5 năm qua, Chi bộ đã đạt được những kết quả nổi bật, toàn diện, mở ra một thời kỳ phát triển mới.
Các đại biểu đã lắng nghe, tích cực thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Báo cáo Tổng kết nhiệm kì 2015-2020 và phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020-2025. Các đảng viên trong Chi bộ đều nhất trí với nội dung báo cáo, đánh giá cao những thành tích đã đạt được. Một số đại biểu đã làm rõ những ưu điểm, hạn chế trong nhiệm kỳ vừa qua, phân tích nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm; đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện nhiệm vụ nhiệm kì 2020 -2025.
Đồng chí Lê Thị Hải Nam phát biểu chỉ đạo tại Đại hội
Phát biểu chỉ đạo Đại hội, đồng chí Lê Thị Hải Nam, Thường vụ Đảng ủy, Chánh Văn phòng Đảng Đoàn thể Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đánh giá cao công tác chuẩn bị đại hội của Chi bộ Viện Khảo cổ học, ghi nhận những thành tích Chi bộ đã đạt được trong nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng chí cũng đề nghị Chi bộ Viện Khảo cổ học tiếp tục bám sát nhiệm vụ chính trị trọng tâm, có giải pháp khắc phục những hạn chế, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng bộ Viện Hàn lâm giao phó. Đồng thời đồng chí Lê Thị Hải Nam cũng thay mặt Đảng ủy bày tỏ sự tri ân đối với các đồng chí đảng viên của Chi bộ Viện Khảo cổ học đã tận tâm cống hiến góp phần xây dựng Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ngày càng vững manh.
Thay mặt Đoàn chủ tịch Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm đã phát biểu lĩnh hội và cảm ơn Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Hải Nam trong nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Với tinh thần dân chủ, trách nhiệm, Đại hội đã tiến hành bầu cấp ủy Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2020 - 2025. Các đồng chí Hà Văn Cẩn và Bùi Văn Hiếu đã được bầu vào cấp ủy. Đồng chí Hà Văn Cẩn đã được bầu là Phó Bí thư Chi bộ với sự nhất trí cao trong Đại hội. Đại hội đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhiệm kỳ 2020 - 2025 gồm 03 đại biểu chính thức là đồng chí Bùi Văn Liêm, Nguyễn Gia Đối và Hà Văn Cân và 01 đại biểu dự khuyết là đồng chí Bùi Văn Hiếu.
Đồng chí Lê Thị Hải Nam tặng hoa chúc mừng các đồng chí Chi ủy chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2020 - 2025
Với cương vị Phó Bí thư Chi bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025, đồng chí Hà Văn Cẩn mong muốn đảng viên, cán bộ, công chức trong đơn vị phát huy những thành tích đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao sức chiến đấu của Chi bộ, xây dựng Chi bộ Viện Khảo cổ học trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện./.
Bằng các phương pháp liên ngành: Khảo cổ học, Viễn thám, Địa Vật lý - Địa chất và GIS, niên đại học các tác giả đã thu thập các loại dữ liệu bản đồ, bản ảnh...số hóa và biểu diễn chúng dưới dạng các phần tử không gian tập hợp. Góp phần làm rõ hơn diện mạo và đặc điểm phân bố của hệ thống các kênh mương cổ ởkhu vực Tri Tôn - Thoại Sơn và kênh số 16- một trong số những kênh đào có vai trò và vị thế quan trọng nhất của văn hóa Óc Eo, đã được L. Malleretđã đề xuất trước đây trên bản đồ,cũng như làm rõ hơn quá trình biến đổi của những kênh đào này. Kết quả nghiên cứu này trùng khớp với các công bố của L. Malleret. Việc tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu giải mã các công trình nghiên cứu trước đây của Louis Malleret về hệ thống các kênh đào cổ có ý nghĩa đặc biệt trong tìm hiểu, đánh giá giá trị di sản văn hóa Óc Eo vùng hạ lưu sông Mê Kông.
SYSTEM OF ANCIENT CANALS AT THOẠI SƠN AND TRI TÔN DISTRICTS (AN GIANG) FROM GEO - ARCHAEOLIGICAL DATA
The Óc Eo culture is distributed in the delta of the lower part of Mê Kông river, in the provinces of Southern Việt Nam, which densely concentrate on the locations of Thoại Sơn and Tri Tôn districts, An Giang province. In Thoại Sơn and Tri Tôn areas, apart from the archaeological types such as residential sites, architectural sites, cemeteries, religious sites, etc., there are fairly rich traces of ancient water lines that were dug, built and used for a long time by the ancient Óc Eo inhabitants. The discovery and research into the system of these ancient canals began very early, especially L.Malleret’s research, but recently they have not been interested and studied.
The authors have collected data of maps and photos, and then digitized and performed them in the form of aggregate spatial elements by the interdisciplinary method: Archaeology, Remote Sensing, Geophysics - Geology and GIS. This help clarify the appearance and distributive characteristics of the system of the ancient canals in Thoại Sơn and Tri Tôn areas and the channel 16 - one of the channels with the most important role and status of the Óc Eo culture, which had been previously proposed by L. Malleret on the map, and also clarified the transformation of these canals. The research results coincide with L. Malleret’s report. The acceptance and continuation to study and decipher the previous studies of Louis Malleret on the system of the ancient canals has special significance in understanding and evaluating the values of Óc Eo - culture heritage in the lower part of Mê Kông river.
Thời kỳ phát triển rực rỡ của nghệ thuật Champa thể hiện qua các công trình kiến trúc và điêu khắc được sáng tạo vào thế kỷ XI và XII dưới các triều vua Harivarman và Jaya Harivarman. Trong đó, sự hoàn thiện kỹ thuật xây dựng đền - tháp cũng như xu hướng thẩm mỹ cho thấy những ảnh hưởng nghệ thuật từ đế chế Chola (Nam Ấn Độ).
Bài viết là nghiên cứu bước đầu về mối quan hệ Chola và Champa, giải mã một phần những nghi vấn về những sự cố lịch sử đã tạo nên ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Chola đến Champa trong thế kỷ XI cũng như đến các nền văn hóa khác của Đông Nam Á đương thời. Mối quan hệ giữa Chola và Champa được đặt trong bối cảnh giao thương hàng hải giữa Nam Ấn và Hoa Nam, đế chế Chola đã tiến hành kiểm soát con đường hải thương này và đã ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển thương mại toàn vùng Đông Nam Á, mà trực tiếp là Champa, nơi vốn là cơ sở trao đổi hàng hóa cao cấp gần gũi nhất với vùng Hoa Nam.
Những ảnh hưởng của nghệ thuật Chola trong văn hóa Champa đã in đậm dấu ấn trên các công trình kiến trúc đền - tháp được xây mới hoặc trùng tu tại hai khu di tích là Mỹ Sơn (Quảng Nam) và Po Nagar (Nha Trang). Kỹ thuật xây dựng đền - tháp Champa đã được cải thiện hoàn mỹ, có thể minh chứng bằng những công trình to lớn hơn được xây dựng ở vùng Amaravati, chẳng hạn sự phát triển toàn diện của tổ hợp đền - tháp tại Mỹ Sơn. Bên cạnh đó, có một mối tương quan nghệ thuật trong vùng Đông Nam Á, chúng cùng chia sẻ một xu hướng thẩm mỹ mới đến từ những ảnh hưởng của nghệ thuật Chola đương thời.
1. Vị trí các hố khai quật và thám sát
Vị trí hai hố khai quật (20ĐT.H1và 20ĐT.H2) và 1 hố thám sát (20ĐT.TS1) được mở, với tổng diện tích ban đầu là 147,2m2, trong khu vực ao nhà ông Đào Văn Đến. Do sự xuất lộ của một cọc gỗ lớn (20ĐT.H1.C7) bên dưới chân kè ao và ăn sâu về phía đông, thuộc đất nhà ông Hoàng Văn Hiệp, hố 20ĐT.H1 đã được mở rộng về phía đông thêm một diện tích 50m2 (BN 10 mx ĐT 5m).
Vị trí hai hố đào 20ĐT.H3 và 20ĐT.H4 được mở trong khu vực đất nhà ông Nguyễn Văn Hay. Tuy nhiên, do hố 20ĐT.H3 không xuất lộ dấu tích khảo cổ học, nên chỉ hố 20ĐT.H4 (diện tích 157,5m2).
(Vị trí các hố khai quật)
(Nguồn ảnh: Trung tâm Khảo cổ học Dưới nước)
2. Kết quả khai quật bước đầu
Hố 20.ĐT.H1 vị trí sát góc đông nam ao cá nhà ông Đào Văn Đến, hình chữ nhật không đều, tổng diện tích 122 2m2. Tổng số có 11 cọc gỗ được phát hiện trong hố H1. Trong đó, hầu hết các cọc có hình dáng tự nhiên. Một số còn dấu vết mắt gỗ, bị cong và thường có mộng khoét sơ sài ở phần dưới chân. 5 cọc có đường kính thuộc loại lớn (26-32cm) dài từ 167-287m. Số còn lại có đường kính từ 9-16cm, chỉ xuất lộ một phần hoặc chỉ dài 50-80cm.
Hố 20ĐT.H2 vị trí ở sát vách nam, lệch về nửa phía đông của ao cá, cách hố 20ĐT.H1 một dải phân cách rộng 1m, diện tích 45m2 (BN 5m x ĐT 9m. Trong hố 20ĐT.H2 xuất lộ 6 cọc gỗ. Cọc còn lại cao nhất và có đường kính lớn nhất hiện biết là cọc C1(xuất lộ ở độ sâu -1,72m theo mốc KCH 2020, ĐK 18cm, phần xuất lộ dài 54cm). Các cọc khác phổ biến xuất lộ ở độ sâu từ -2m, trong lớp bùn xám nhạt lẫn nhiều rễ cây, phân bố chủ yếu ở góc tây nam của hố, không thẳng hàng, cách nhau từ 50cm đến 2m. Các cọc khác mủn, gãy, kích thước nhỏ, đường kính chủ yếu 12-14cm. Phần lớn chỉ còn một đoạn ngắn dưới chân, cắm nông xuống lớp bùn đen.
Hố thám sát 20ĐT.TS1 vị trí ở góc đông bắc ao cá, diện tích 3m2 (BN 2m; ĐT 1,5m). Trong hố xuất lộ 1 cọc gỗ (20ĐT.TS1.C1) ở độ sâu -1,9m, trong lớp bùn đen lẫn nhiều rễ cây, còn dài 55cm, đường kính 10cm, phần đầu cọc bị mục.
Hố khai quật 20ĐT.H4 được mở trong khu đất ở góc tây bắc của ao cá nhà ông Nguyễn Văn Hay, hố có hình chữ L, dài 28,5m, rộng 3-7m, diện tích 157,5m2. Trong hố 20ĐT.H4 đã phát hiện được 19 cọc gỗ và mảnh gỗ, ký hiệu 20ĐT.H4.C1-C19 và 2 mảnh gỗ, ký hiệu 20ĐT.H4.G1-G2.
(Dấu tích cọc tại hố H1)
(Nguồn ảnh: Trung tâm Khảo cổ học Dưới nước)
(Dấu tích bãi cọc tại hố H4)
(Nguồn ảnh: Trung tâm Khảo cổ học Dưới nước)
3. Nhận xét sơ bộ
Cho đến hết tuần đầu tháng 3 và nửa tháng 6, với 3 hố khai quật và 1 hố thám sát trong diện tích gần 400m2, đã phát hiện được 37 cọc gỗ và một số cụm gỗ, mảnh gỗ rời rạc. Các cọc gỗ phần lớn đều đã bị mòn vỡ hoặc chặt mất phần đầu trong quá trình đào ao và canh tác. Trên cơ sở các kết quả khai quật và điều tra khảo sát, một số nhận định bước đầu được đưa ra về kích thước và mật độ cọc trong đó điểm đáng chú ý là các cọc lớn thường cách nhau khá xa, trong khoảng 5-7m. Trong khi đó, thường có các cọc kích thước nhỏ hơn được cắm gần đó, trong khoảng 1,5m đến 2,5m.
Cách thức đóng cọc hầu hết các cọc đều được cắm thẳng đứng xuống đầm lầy. Độ nghiêng rất nhỏ của các cọc có thể được tạo ra do tư thế của người đóng.
Hiện trạng di tích có mặt của các cọc đã xác định cho thấy bãi cọc hiện biết phân bố ít nhất trong phạm vi 100m theo chiều đông tây và 90m theo chiều bắc nam.
4. Nhận định bước đầu chức năng của bãi cọc trong cảnh quan chung
Đặc điểm của các cọc cho thấy đây không phải là cọc kiến trúc, cũng không phải cọc đáy, cọc kè đê hay phục vụ cho các mục đích dân sinh khác. Cũng chưa phát hiện thấy các dấu hiệu và di vật của di chỉ cư trú, bến cảng, kiến trúc v.v. trong phạm vi khai quật.
Từ kết quả khảo sát cảnh quan và địa hình khu vực, có thể thấy bãi cọc nằm ở vị trí chiến lược, án ngữ phía sau nút thắt tạo ra bởi các núi đá trên sông Đá Bạc và các núi đá trên sông Kinh Thầy. Có thể thấy rõ tính chất quân sự của bãi cọc này. Sự có mặt của các cọc lớn, xen lẫn các cọc nhỏ, được đóng rất chắc chắn xuống vùng đầm lầy ở phần giáp ngã ba, trong khi các cọc nhỏ hơn được đóng phía sau, trong phạm vi rất rộng, cho thấy tính chất một trận địa vừa nhằm mục đích phòng thủ, ngăn chặn, vừa nhằm tiêu diệt sinh lực địch. Với giả thiết đặt ra đây là một bãi cọc trong một trận thủy chiến, các cọc phải nhô lên khỏi mặt bùn ít nhất 1-2m để phát huy tác dụng, có thể dự đoán các cọc lớn tối thiểu dài 4-5m và việc bà con thông tin các cọc dài tới 6-7m là có khả năng.
Ban tổ chức Hội nghị kính mời các tổ chức, cá nhân làm công tác Khảo cổ học và các ngành có liên quan gửi bài viết tham dự hội nghị (Chi tiết xin xem file đính kèm).
Nội dung bài viết: Những phát hiện, nghiên cứu mới về khảo cổ học từ tháng 9/2019 đến nay.
Hình thức: Mỗi bài viết tối đa 03 trang đánh máy khổ A4 và không quá 03 tên tác giả; phông chữ thống nhất Unicode - Time New Roman cỡ chữ 13. Ban tổ chức không chấp nhận các bản text định dạng Pdf.
Địa chỉ nhận bài: Viện Khảo cổ học, số 61 - Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: hoinghitbkch@gmail.com
Thời hạn nhận bài: đến hết ngày 4/9/2020.
Chúng tôi hy vọng với sự quan tâm và hợp tác của quý cơ quan và quý vị, Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 55 sẽ thành công tốt đẹp.
Viện Khảo cổ học xin trân trọng thông báo!
TM. Ban Tổ chức Hội nghị
Q.Viện Trưởng
Nguyễn Gia Đối đã ký.
Mục lục |
Trang |
|
|
LÊ HOÀNG PHONG, LÂM KIM LỢI Di tích kênh cổ Lung Lớn Óc Eo - Ba Thê (An Giang) |
3 |
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG Môi trường đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn văn hóa Óc Eo qua phân tích bào tử phấn hoa |
14 |
NGUYỄN QUANG BẮC, NGUYỄN HỮU TUẤN, NGUYỄN QUANG MIÊN, TRÌNH NĂNG CHUNG VÀ LÊ NGỌC THANH Nhận diện đô thị cổ Óc Eo từ kết quả nghiên cứu liên ngành: Viễn thám, công nghệ thông tin, địa vật lý - địa chất và khảo cổ học |
28 |
BÙI MINH TRÍ Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo và một vài nhận thức mới về văn hóa Óc Eo, tiếp cận từ nghiên cứu so sánh |
43 |
NGÔ HỒ ANH KHÔI, PHẠM VĂN TRIỆU, LÊ ĐÌNH PHỤNG, NGUYỄN TRỌNG CƠ VÀ ĐOÀN NGỌC KHÔI Những hiện vật minh chứng mới cho sự tồn tại của lò thủy tinh ở khu vực Óc Eo |
63 |
BÙI VĂN LIÊM Vai trò vùng biển Nam Bộ trong giao lưu văn hóa và thương mại thời kỳ văn hóa Óc Eo |
70 |
NGUYỄN KIM DUNG, NGUYỄN KHÁNH TRUNG KIÊN VÀ LÊ HOÀNG PHONG Từ hiện vật trang sức mới phát hiện góp thêm những nhận xét về hải thương quốc tế trong văn hóa Óc Eo |
79 |
Contents |
Page |
|
|
LÊ HOÀNG PHONG, LÂM KIM LỢI Ancient Lung Lớn canal of Óc Eo - Ba Thê (An Giang) |
3 |
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG Environment of Cửu Long - river basin in Óc Eo - culture period from pollen analysis |
14 |
NGUYỄN QUANG BẮC, NGUYỄN HỮU TUẤN, NGUYỄN QUANG MIÊN, TRÌNH NĂNG CHUNG AND LÊ NGỌC THANH Identification of ancient Óc Eo urban area from results of multidisciplinary research: Remote sensing, geographic information systems, geophysics-geology and archaeology |
28 |
BÙI MINH TRÍ Exotic ceramics in Óc Eo culture and some new perceptions of Óc Eo culture approached from comparative research |
43 |
NGÔ HỒ ANH KHÔI, PHẠM VĂN TRIỆU, LÊ ĐÌNH PHỤNG, NGUYỄN TRỌNG CƠ AND ĐOÀN NGỌC KHÔI Evidence of new artifacts for the existence of glass - making furnaces in Óc Eo - cultutre area |
63 |
BÙI VĂN LIÊM Role of marine region of Southern Việt Nam in cultural interactions and trade in Óc Eo - culture |
70 |
NGUYỄN KIM DUNG, NGUYỄN KHÁNH TRUNG KIÊN AND LÊ HOÀNG PHONG From newly - found jewelry artifacts, more comments about international marine trade in the Óc Eo culture |
79 |
Mục lục |
Trang |
|
|
LỜI TÒA SOẠN | 3 |
BÙI CHÍ HOÀNG Khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa: Khai quật, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị |
4 |
NGUYỄN GIA ĐỐI, LÊ ĐÌNH PHỤNG VÀ PHẠM VĂN TRIỆU Nhận thức về di tích kiến trúc ở các địa điểm khai quật của Viện Khảo cổ học tại khu di tích Óc Eo - Ba Thê |
12 |
NGUYỄN KHÁNH TRUNG KIÊN Kết quả nghiên cứu mới tại khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) |
25 |
LẠI VĂN TỚI, LÊ ĐÌNH NGỌC Nhận thức mới về khu di tích Nền Chùa, tỉnh Kiên Giang qua kết quả khai quật và nghiên cứu năm 2018 - 2019 |
39 |
TỐNG TRUNG TÍN Đánh giá giá trị địa tầng khảo cổ khu vực chùa Linh Sơn (An Giang) 2017 - 2019 |
62 |
NGUYỄN ĐỨC BÌNH Dấu tích kiến trúc thời Trần ở trung tâm Tức Mặc (Nam Định) qua tư liệu khảo cổ học (2006 - 2016) |
74 |
LÊ QUỐC VỤ Kiến trúc và điêu khắc đình Tình Quang (Hà Nội) |
89 |
Contents |
Page |
|
|
EDITORIAL BOARD | 3 |
BÙI CHÍ HOÀNG Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa site area: Excavation, research, conservation and valorization of the values |
4 |
NGUYỄN GIA ĐỐI, LÊ ĐÌNH PHỤNG AND PHẠM VĂN TRIỆU Perception of architectural relics at the sites excavated by Việt Nam Institute of Archaeology in Óc Eo - Ba Thê area |
12 |
NGUYỄN KHÁNH TRUNG KIÊN New research results from the area of Óc Eo - Ba Thê sites (An Giang province) |
25 |
LẠI VĂN TỚI, LÊ ĐÌNH NGỌC New perceptions of Nền Chùa site, Kiên Giang province, from the results of excavation and research in 2018 - 2019 |
39 |
TỐNG TRUNG TÍN Assessment of the archaeological stratigraphic values in the area of Linh Sơn pagoda (An Giang) 2017 - 2019 |
62 |
NGUYỄN ĐỨC BÌNH Trần-period architectural traces in Tức Mặc centre (Nam Định province) through archaeological data (2006 - 2016) |
74 |
LÊ QUỐC VỤ Architecture and sculpture of Tình Quang communal house (Hà Nội) |
89 |
Hơn 50% di tích thuộc thời đại Đông Sơn (Thanh Hóa) “biến mất”. Hơn nửa thế kỷ “kêu cứu”, tới nay, di chỉ Vườn Chuối (Hà Nội) vẫn “quẫy đạp” trong tuyệt vọng… Và rất nhiều di tích, di chỉ khảo cổ sau khi được phát hiện rơi vào lãng quên. Những dấu hỏi bỏ ngỏ về một quy hoạch khảo cổ suốt chục năm vẫn đang treo lơ lửng như một thách thức đối với Luật Di sản văn hóa.
“Lệnh Hà Nội và TP.HCM” không bằng… xe ủi, máy xúc?
Chọn Hà Nội và TP.HCM mở đầu, để nói, ở hai trung tâm kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử lớn nhất cả nước, với một thiết chế văn hóa dù chưa hoàn chỉnh nhưng cũng đầy đủ ban bệ hơn các địa phương khác, việc thực thi pháp luật về di sản cũng đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Dường như những mệnh lệnh hành chính (từ Luật Di sản văn hóa cho tới các văn bản pháp luật của thành phố ban bố) bằng cách nào đó đã bị vô hiệu hóa bởi cái máy xúc, máy ủi (từ phía doanh nghiệp, cá nhân).
Xâm phạm di chỉ Mỏ Phượng và Dền Rắn (Hoài Đức - Hà Nội) cuối năm 2019
Thế nên, mới có chuyện, một di tích khảo cổ dù được xếp hạng di tích quốc gia như Lò gốm Hưng Lợi (TP.HCM), hết lần này tới lần khác vẫn bị người dân cho xe ủi vào san lấp. Sau cú “san phẳng” cuối cùng hồi tháng ba tới nay, dư luận vẫn chưa nhận được một câu trả lời xác đáng từ phía chính quyền thành phố, cũng như các cấp quản lý địa phương.
Thế nên mới có chuyện, dù được các nhà khảo cổ học phát hiện cả nửa thế kỷ, tới nay, một di chỉ có niên đại 3.500 tuổi như Vườn Chuối (Hà Nội) vẫn đang “ngắc ngoải” trong cuộc chiến giữa bảo tồn và phát triển. Mới đây, ngay trước ngày Di sản văn hóa Việt Nam với loạt hoạt động kỷ niệm rình rang, dù đã có lệnh tạm dừng thi công từ phía chính quyền thành phố, đơn vị thi công vẫn đưa máy xúc vào, xâm phạm, san ủi toàn bộ di tích Gò Mỏ Phượng và 50% di tích Gò Dền Rắn nằm trong cụm di chỉ này để làm đường nội bộ. Đến nỗi, người ở Viện Khảo cổ học phải thốt lên: “Luật Di sản văn hóa đang bị thách thức ở đây”.
Đây không phải lần đầu tiên, các nhà khoa học đưa ra cảnh báo cũng như những nguy cơ về tình trạng suy thoái di tích, di chỉ khảo cổ; thế nhưng, những cảnh báo này dường như chỉ là câu chuyện riêng của các nhà khảo cổ học. Một nghịch lý vẫn tồn tại: số di tích, di chỉ, những thành quả nghiên cứu được công bố mới, tiếp tục khẳng định giá trị các nền văn hóa, văn minh, văn hiến Đại Việt, có vẻ tỷ lệ nghịch với số lượng những di tích được bảo vệ; thậm chí, có xu hướng biến mất, bị xóa sổ ngày càng tăng.
Một thống kê chưa đầy đủ được các nhà khoa học đưa ra cũng đủ khiến chúng ta giật mình: Ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, các di tích thời đại Hùng Vương và tiền Hùng Vương mất tới 90%. Hơn 50% di tích thuộc thời đại Đông Sơn (Thanh Hóa) cũng có số phận tương tự. Sau ba mươi hai năm khai quật, lập quy hoạch, di tích văn hóa Óc Eo cỏ mọc um tùm… Lò gốm Hưng Lợi dù được xếp hạng di tích cấp quốc gia cũng không tránh khỏi số phận “phế tích”… PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam, từng kêu lên: “Nếu không bảo vệ được các di tích, di chỉ, có nghĩa, ngành khảo cổ học sẽ chết!”.
Loay hoay quy hoạch khảo cổ
Một trong những công cụ giảm thiểu tình trạng suy thoái di tích, di chỉ khảo cổ mà các nhà khoa học đã nói rất nhiều suốt thời gian qua, là phải xây dựng một quy hoạch, một bản đồ cho khảo cổ học Việt Nam. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 cũng đã quy định các địa phương có trách nhiệm xây dựng quy hoạch khảo cổ, kèm theo phương án bảo vệ hoặc thăm dò khai quật khi cần. Thế nhưng, cho tới nay, trên cả nước, chưa có địa phương nào hoàn thiện và đưa quy hoạch này vào áp dụng trong thực tiễn, kể cả Hà Nội và TP.HCM.
Dù có lệnh ngừng thi công nhưng máy ủi vẫn tiến hành xâm phạm khu di chỉ Vườn Chuối
Thực tế ở nhiều nơi đã chỉ rõ, những xung đột giữa bảo tồn và phát triển xảy ra thời gian qua cũng bắt nguồn từ việc chưa có quy hoạch. Chỉ khi nào có quy hoạch, ta mới xác định và bảo vệ được những khu vực trọng yếu của khảo cổ. Nếu có quy hoạch, vừa giữ được di sản, lại không làm khó nhà đầu tư. Nếu có quy hoạch, tránh được chuyện “cha chung không ai khóc”.
Đặc biệt, khi có một quy hoạch khảo cổ với các nội dung cơ bản như số lượng và loại hình di tích, vị trí, phạm vi của di tích, mức độ quan trọng của di tích, tiềm năng nghiên cứu và phát huy giá trị của di tích, những nguy cơ tác động đến di tích... cơ sở khoa học để xây dựng các dự án phát triển và thực hiện Luật Di sản văn hóa một cách đầy đủ và đúng luật cũng sẽ mạnh mẽ hơn. Đó cũng là căn cứ để quyết định bảo tồn hay xóa bỏ khi đặt trong mục tiêu phát triển.
Thế nhưng, chẳng hiểu vì lý do gì, cả chục năm trôi qua, vẫn chưa có một địa phương nào tiến hành quy hoạch khảo cổ. Cần làm sớm, nếu không, bảo vệ và phát huy giá trị di sản chỉ là một “xảo chính sách”.
Du Nguyên
Ở di sản khảo cổ học Vườn Chuối đang có sự chung tay giữa chính quyền, ngành văn hóa, các nhà khoa học, doanh nghiệp cùng phía cộng đồng sở tại. Sự chung tay, phối hợp này đang mở ra một mô hình tốt nhằm bảo đảm cân bằng giữa yêu cầu bảo tồn và phát triển.
Ngày 13-5, tại di chỉ khảo cổ học Vườn Chuối ở thôn Lai Xá (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội) bắt đầu một đợt khai quật mới. Đây là đợt khai quật thứ 10 kể từ lần đầu tiên năm 1969 và sau đợt khai quật gần đây nhất (năm 2019) tròn một năm. Đợt khai quật lần này nhằm mục tiêu hoàn thiện phương án tối ưu để giữ lại một phần và bảo tồn những giá trị quý giá của di chỉ này, từ đó tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ các công trình xây dựng lớn là đường vành đai 3,5 của thành phố và khu đô thị Kim Chung - Di Trạch đã được doanh nghiệp Viettransimex đầu tư xây dựng từ nhiều năm qua.
Hố khai quật khảo cổ lần thứ 10 ở Vườn Chuối.
Sau thời gian khá dài âm thầm, sau nhiều lần bị xâm hại, mang số phận khá long đong hơn nửa thế kỷ với nhiều lần khai quật được các GS đầu ngành khảo cổ học Việt Nam chủ trì, đến nay những giá trị đặc sắc và độc đáo của khu di chỉ này đã được khẳng định và chính quyền thành phố đã quyết định chọn phương án bảo tồn một phần trên tổng diện tích hơn 19.000 m² của khu di chỉ.
Lần khai quật này, các nhà khảo cổ học đã chọn phương án “khai quật bảo tồn” để làm hiện rõ dòng chảy văn hóa hơn 3.000 năm. Những dấu vết cư trú, sinh hoạt, mai táng… đã chứng minh Lai Xá là một trong số những làng cổ xuất hiện sớm nhất ở vùng Thủ đô ngày nay. Những chứng tích của con người thời sơ sử tại di chỉ này nằm trong những tầng văn hóa kế tiếp liên tục suốt từ văn hóa Đồng Đậu đến văn hóa Đông Sơn (cách ngày nay khoảng 3.500 - 2.000 năm) sẽ được các nhà khảo cổ cẩn trọng bộc lộ và tìm phương án tốt nhất để giữ gìn và giới thiệu với công chúng. Các lớp văn hóa sẽ lộ dần với các di tích, di vật chồng xếp lên nhau từ trên xuống dưới, từ muộn đến sớm. Một nhà trưng bày tại chỗ cũng đã được tính đến trong phương án phát huy giá trị đặc biệt của di chỉ này.
Sau đợt khai quật khảo cổ lần thứ chín (năm 2019), UBND thành phố Hà Nội tạm đưa ra phương án bảo tồn nửa phía đông di chỉ gò Vườn Chuối. Tại đây sẽ khoanh vùng bảo vệ và xây dựng hồ sơ xếp hạng và bảo vệ di tích theo quy định pháp luật về di sản văn hóa. Phần phía tây gò Vườn Chuối nằm trong quy hoạch đường vành đai 3,5 sẽ được tiến hành khai quật, nghiên cứu rồi giải phóng mặt bằng để phục vụ xây dựng. Các di chỉ ở gò Dền Rắn và gò Mỏ Phượng sẽ được tiến hành khai quật nghiên cứu rồi xây dựng khu đô thị. Giải pháp này được đánh giá là vừa chọn được trọng tâm để bảo tồn văn hóa vừa không cản trở xây dựng phát triển.
Sau khi có những quyết định quan trọng này, chính quyền huyện Hoài Đức, xã Kim Chung đã cùng với các chủ đầu tư xây dựng cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ khoanh vùng bảo vệ khu di chỉ, phối hợp các nhà khoa học để thống nhất thời gian và những công việc cần thiết khi tiến hành khai quật. Dù việc giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19 có làm gián đoạn tiến độ công việc nhưng sau dịch, guồng máy đã khẩn trương tái khởi động. Đại diện Công ty Viettransimex, chủ đầu tư xây dựng khu đô thị mới Kim Chung - Di Trạch, cũng cho biết: “Thời gian qua, chủ đầu tư đã phối hợp các ban, ngành, chính quyền địa phương và Viện Khảo cổ học để xác định ranh giới cắm mốc khoanh vùng khai quật di chỉ Vườn Chuối; tăng cường tuần tra bảo vệ để không xảy ra việc xâm phạm di chỉ. Chủ đầu tư cam kết sẽ thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan chức năng để vừa phát triển vừa bảo tồn di chỉ lịch sử này một cách hài hòa và hiệu quả”.
Cùng với những động thái tích cực từ UBND thành phố, Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội, chính quyền địa phương và sự hợp tác của doanh nghiệp chủ đầu tư, còn có cuộc trưng bày “Đối thoại với Di sản khảo cổ học Vườn Chuối” được nhân dân Lai Xá nỗ lực thực hiện với sự giúp đỡ của Bảo tàng Nhân học (Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội). Ông Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá, một thương binh, sau khi giã từ quân ngũ về “nhậm chức” trưởng thôn (năm 2000) đã tiếp xúc và dần say mê với những kết quả khảo cổ học trên quê hương mình. Ông Thắng đã kêu gọi và cùng với nhiều người dân Lai Xá cần mẫn theo chân các nhà khảo cổ để chụp ảnh tư liệu, trân trọng nhặt nhạnh từng hiện vật sót lại trên công trường khai quật, kịp thời báo động, cùng bảo vệ di chỉ trước nạn đào trộm cổ vật và đang ra sức hoàn thành trưng bày “Đối thoại với Di sản khảo cổ học Vườn Chuối” như một tiếng nói tâm nguyện từ phía cộng đồng.
Với những động thái tích cực từ nhiều phía: quyết định bảo vệ kịp thời từ chính quyền, sự nỗ lực cẩn trọng của các nhà khoa học, sự hợp tác của các chủ đầu tư doanh nghiệp và sự chung tay góp cả tình cảm và công sức của cộng đồng người dân Lai Xá, có thể hy vọng nhìn thấy một hình mẫu mà ở đó bảo tồn văn hóa đã “hòa thuận” với sự phát triển của đô thị hiện đại.
Bài: Ngữ Thiên; Ảnh: Nguyễn Thơ Đình