Các công cụ xương cổ nhất ở châu Âu được phát hiện bởi nhóm nghiên cứu thuộc Đại học London, những công cụ này tiết lộ cho chúng ta biết về những người đã làm ra chúng.
 

Công cụ được làm từ xương ngựa ( Ảnh chụp bởi Viện Khảo cổ học - Đại học London )
Boxgrove ở Sussex là một địa điểm thuộc thời kỳ đồ Đá cũ, và đây là nơi phát hiện ra những di cốt người cổ nhất ở Anh – các hóa thạch Homo heidelbergensis. Là một phần của di chỉ đá cổ rộng 26 km được bảo tồn đặc biệt, hầu như không bị ảnh hưởng của con người sơ khai gần nửa triệu năm trước.
 
Khu vực được bảo tồn hoàn hảo nhất của địa điểm này được biết đến với tên gọi “Di chỉ giết thịt ngựa”, nơi một con ngựa lớn đã bị giết và chế biến cách đây khoảng 480.000 năm. Kể từ năm 1994, chúng tôi đã làm việc trên các đồ tạo tác bằng xương và đá từ đây - một số đồ tạo tác sớm nhất ở Châu Âu - như một phần của nhóm đa ngành do Viện Khảo cổ học – Đại học London dẫn đầu. Điều này đã mang lại cho chúng tôi những hiểu biết quan trọng về cuộc sống của H heidelbergensis bí ẩn, mà chúng tôi vừa công bố trong một cuốn sách.
Nghiên cứu của  Matt Pope - một thành viên trong nhóm nghiên cứu của thuộc Đại học London tập trung vào các đồ tạo tác bằng đá - hơn 1.750 mảnh đá lửa đã được mài. Các công cụ này, cùng với xương của một con ngựa cái lớn, đã được phát hiện hơn một phần tư thế kỷ trước, và vị trí của mỗi đồ tạo tác được vẽ chính xác đến từng milimet.
Mức độ ghi này đạt được mà không cần đến thiết bị khảo sát laser và chụp ảnh kỹ thuật số - hai cơ sở chính của việc ghi chép địa điểm khảo cổ hiện đại ngày nay. Thay vào đó, nhóm khai quật đã sử dụng kỹ thuật chụp ảnh từ trên cao, một phòng tối được thiết lập trong quán rượu nhỏ và bút mực để ghi lại tỉ mỉ vị trí của từng công cụ bằng đá và mảnh xương.
Trước khi có thể giải thích những gì người sớm đã làm tại địa điểm này, chúng ta phải hiểu các trầm tích bảo quản các di cốt. Các cuộc điều tra này cho thấy bản thân các lớp trầm tích này dường như là đất đầm lầy liên thủy triều, được hình thành ở rìa một đầm phá trong giai đoạn khí hậu ấm . Khi những người sớm làm thịt con ngựa, một đợt thủy triều cao ập đến, bảo tồn địa điểm này giống như khi những người này chuyển đi.
“Việc bảo tồn như trên là rất hiếm trong bất kỳ thời kì khảo cổ nào, ngay cả những thời kì gần đây. Các lớp bùn mịn đã chôn vùi địa điểm này qua một hoặc nhiều đợt thủy triều cao mà không làm di chuyển các hiện vật hoặc các di cốt một khoảng cách đáng kể. Điều này có nghĩa là chúng tôi có thể phục dựng lại hành vi ban đầu của con người ở mức độ phân giải cao”. Matt Pope cho hay.
 
Công việc của  Matt Pope là ghép lại các công cụ đá di chỉ này lại với nhau - một quá trình được gọi là “ phục dựng lại”. Mỗi mảnh tước được  người cổ lấy ra sẽ chỉ phù hợp, duy nhất, với những mảnh đá khác được lấy ra từ cùng một khối đá lửa ngay trước và sau nó.
Việc tái tạo lại có thể cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về cách một cá nhân tạo ra một công cụ, điều chỉnh và giải quyết vấn đề, đôi khi thay đổi vị trí khi họ dành ra có lẽ 10 hoặc 15 phút để làm mỗi công cụ.
 Matte Pope cho biết: Từ việc trang bị lại, chúng tôi có thể ghi lại quá trình sản xuất 8 công cụ cắt lớn (được gọi là rìu tay hoặc công cụ ghè hai mặt), việc sửa đổi các công cụ khác đã có từ trước và chuẩn bị các khối đá lửa đã được đưa đến địa điểm này.
Khi kết hợp với việc phục dựng lại xương, nghiên cứu chi tiết của chúng tôi đã tiết lộ một cái nhìn sâu sắc đáng kể về một ngày trong đời sống của những người khó nắm bắt này. Trong khi tất cả hoạt động tập trung vào việc chế tạo công cụ và làm thịt ngựa, chúng tôi có thể theo dõi chuyển động chi tiết trong ngày.
Ông cũng cho biết thêm:  Chúng tôi thấy rằng những mảnh tước được chuyển từ những đống vật liệu thải ở rìa khu vực được sử dụng để lọc thịt con vật. Các bộ phận của con ngựa này cũng được sử dụng làm các công cụ xương để tạo ra các công cụ mới, như được tiết lộ bởi những dấu in ngẫu nhiên của đầu gối và chân ngựa để lại như những cái bóng trong các mảnh tước bỏ đi . Điều này cho thấy rằng con người đã hiểu các đặc tính của vật liệu hữu cơ. Sự di chuyển của các mảnh tước, việc sản xuất các công cụ cắt lớn và việc mang các hiện vật phong hoá, già hơn  và khối hoặc nguyên liệu thô cũ hơn, đến địa điểm này cho thấy rằng một số lượng tương đối lớn người đã tham gia vào việc giết ngựa. Với quá trình chế biến rộng rãi  xác ngựa, chúng tôi tin rằng nó có thể bao gồm một đại gia đình có thể có 30 cá thể hoặc nhiều hơn.
Đây là thông tin vô cùng quý giá vì chúng tôi biết quá ít về các khía cạnh khác trong cuộc sống của người dân Boxgrove. Ví dụ, chúng tôi không biết họ ngủ ở đâu, chăm sóc người chết như thế nào hoặc họ đã ăn gì cùng với thịt ngựa. Hồ sơ khảo cổ học chủ yếu tập trung vào các hoạt động của họ tích lũy các vật liệu bền ở đâu,  chẳng hạn như đá và xương, điều này đã định hình rất nhiều quan điểm của chúng ta về người sớm.
Do đó, các bài báo của chúng tôi đôi khi tập trung vào các lĩnh vực được phân chia theo từng khía cạnh  của cuộc sống người sớm, chẳng hạn như sinh thái hoặc kĩ thuật. Nhưng một địa phương như Di chỉ giết thịt ngựa Boxgrove nhắc nhở chúng ta, khi xem xét chi tiết, tất cả các khía cạnh của sự thích nghi của con người đều được điều chỉnh thông qua sự thích nghi tiến hóa mạnh mẽ nhất của chúng ta: đời sống xã hội và văn hóa.
Người Boxgrove, giống như tất cả các loài người khác, có khả năng chia sẻ thời gian, sự quan tâm và kiến thức trong tất cả các phần của cuộc sống của họ. Những kết nối này, ngay cả trong những công việc thường ngày nhất, đã luôn đóng góp vào sự thành công và sự bền bì của chúng ta.
 
Nguồn tham khảo:

https://www.independent.co.uk/news/science/bone-tools-stone-age-boxgrove-europe-ucl-archeology-a9671216.html

Người dịch : Minh Trần


 

Ngày 27-8, tại xã Gia Thủy (huyện Nho Quan, Ninh Bình), Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình phối hợp các chuyên gia thuộc Viện Khảo cổ học, Viện Sử học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức Hội khoa học báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học và nghiên cứu lịch sử - văn hóa khu vực này với nhiều kết quả đáng chú ý.

Quy mô lớn cho giả thiết về một khu trị sở cấp cao

Xã Gia Thủy (thuộc huyện Nho Quan, Ninh Bình) là vùng đất trũng, được bao bọc bởi sông Bôi ở phía đông và sông Đập ở phía tây. Dân cư khu vực này sống trên các gò, mô đất cao, chung quanh là các đầm, ao, ruộng trũng ngập nước. Khi chưa có đê Hoàng Long, mùa lũ nước đổ về gây ngập lụt nhưng rút nhanh, đồng ruộng được bồi đắp phù sa, thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp.

Từ năm 2002, ở thôn Mỹ Hạ (xã Gia Thủy) đã phát hiện dấu hiệu di tích mộ gạch và nền móng kiến trúc cổ. Cuối tháng 12-2019, một kiến trúc gạch cổ lại được phát hiện khi đào móng xây dựng phòng học trong khuôn viên trường tiểu học xã Gia Thủy. Từ đây, xuất hiện những lời đồn đoán trong nhân dân địa phương cho rằng, khu vực này có mộ vua Đinh Tiên Hoàng (!).

Tháng 2-2020, Bảo tàng Ninh Bình đã tiến hành khai quật khẩn cấp ngôi mộ gạch đó, nghiên cứu, xử lý và công bố kết quả nghiên cứu để loại trừ những tin đồn gây hoang mang dư luận. Các nhà khảo cổ học đã xác định đây là một ngôi mộ gạch có niên đại thế kỷ 3 sau Công nguyên. Mộ đã nhiều lần bị xâm phạm nhưng vẫn tìm thấy trong mộ nhiều hiện vật tùy táng như: gương đồng, chậu đồng, hạt cườm bằng vàng, bằng đá ngọc và nhiều đồ gốm men, đồ sành. Sau khi khai quật, những hiện vật đã được chuyển về bảo quản, trưng bày tại Bảo tàng Ninh Bình.

Trong tháng 8-2020, tại khuôn viên Trường tiểu học Gia Thủy, các nhà khoa học đã thăm dò, khai quật khảo cổ học với tổng diện tích 130 m2, phát hiện một ngôi mộ gạch có quy mô khá lớn: chiều dài 8,46m, gồm ba gian, chiều rộng lớn nhất là 3,5m. Đã tìm thấy nhiều đồ tùy táng trong mộ gồm gương đồng, hạt chuỗi, đồ đá trang sức và nhiều đồ gia dụng làm từ gốm men, đồ sành. Đặc biệt, nhóm đồ gốm men trong mộ hầu hết đều là những bản mô phỏng của các loại đồ đồng thời Đông Hán (Trung Quốc) như thống có nắp đậy, bình tỳ bà, tô có chân cao, chén hình bầu dục có tai (nhĩ bôi)... Cấu trúc xây dựng mộ gạch với nhiều phòng (thất) mang phong cách mộ táng của tầng lớp quan lại quý tộc thời Bắc thuộc; gạch xây mộ có các đồ án hoa văn trang trí ô trám đơn, ô trám lồng, xương cá, đồng tiền... cùng đồ tùy táng mang ảnh hưởng của nhóm đồ đồng giai đoạn Đông Hán,... cho phép sơ bộ nhận định ngôi mộ có niên đại thế kỷ 1 - 3 sau Công nguyên. Đây cũng là ngôi mộ có kích thước lớn và có bộ hiện vật tùy táng gốm sứ đầy đủ nhất được phát hiện ở Ninh Bình từ trước đến nay. 


Các nhà khoa học nghe báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học tại Gia Thủy.

Mộ gạch phát hiện tại xã Gia Thủy có hình dạng, quy mô và cấu trúc tương tự những ngôi mộ gạch đã được tìm thấy ở Thuận Thành (Bắc Ninh), Quảng Yên (Quảng Ninh), Quốc Oai (Hà Nội), Kim Thành (Hải Dương) - là nơi có những trị sở lớn của chính quyền đô hộ thời Bắc thuộc. Dựa vào quy mô xây dựng to lớn và lượng đồ tùy táng phong phú, có thể dự đoán chủ nhân của ngôi mộ này là quan lại cấp cao trong xã hội đương thời.

Ngoài hai ngôi mộ gạch đã được khai quật trong tháng 2 và tháng 8-2020, người dân ở khu vực này còn cung cấp thông tin cho biết còn nhiều ngôi mộ gạch khác, cho phép nhận định trên địa bàn các xã Gia Thủy, Gia Lâm, Gia Tường (Nho Quan) và Liên Sơn (Gia Viễn) đã tồn tại một hệ thống mộ gạch có niên đại những thế kỷ đầu Công nguyên, có thể đặt ra giả thiết rằng thời Bắc thuộc ở vùng Ninh Bình ngày nay đã từng có một trị sở quy mô, với những quan lại cấp cao.

Nhiều liên quan đến Đinh Bộ Lĩnh và thời kỳ “tiền Hoa Lư”

Một hố khai quật khảo cổ học diện tích 120m² tại đình Mỹ Hạ (xã Gia Thủy) thờ Đinh Tiên Hoàng và Thái hậu Dương Vân Nga đã phát hiện một mặt bằng kiến trúc thờ tự có quy mô khá lớn. Bên cạnh việc khai quật nghiên cứu khảo cổ học, các nhà khoa học còn tiến hành điều tra điền dã để thu thập tư liệu lịch sử văn hóa - nhân học - Hán Nôm tại tại sáu xã: Gia Thủy, Gia Sơn, Gia Lâm, Gia Tường (Nho Quan), Gia Hưng và Liên Sơn (Gia Viễn). Những kết quả điều tra đã ghi nhận những chứng tích lịch sử và văn hóa dân gian liên quan đến Đinh Bộ Lĩnh và nhà Đinh.

Đây là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa, có nhiều liên quan tới quê hương, thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh và sau này còn là căn cứ quân sự, có quan hệ mật thiết với kinh đô Hoa Lư. Ở đây còn nhiều dấu tích, địa danh gắn với các sự tích truyền thuyết liên quan đến thân thế và hành trạng lúc thiếu thời của vua Đinh Tiên Hoàng như: miếu Long Viên, giếng Ngọc, đền Cầu Mổ, đình Mỹ Hạ, đồi Họ, nội Cầu, nội Rốn Chiêng, nội Chòi, nội Nắm Cơm, nội Bàn Cờ, bến Ngự Dội, đồng Quân, vườn Kiệu, rừng Am…

Các di tích liên quan đến Đinh Bộ Lĩnh xuất hiện nhiều nhất ở Gia Thủy (sáu điểm) và lan dần theo hướng về phía hạ lưu sông Bôi. Dấu ấn của Nho, Phật, Đạo hòa cùng tín ngưỡng dân gian của cư dân địa phương qua việc thờ tự ở các di tích đình, đền, chùa, miếu thể hiện rõ sự hỗn dung văn hóa tại khu vực này.

Những kết quả nghiên cứu đã góp phần làm rõ hơn những đường nét lịch sử - văn hóa, vai trò và vị thế của vùng đất Gia Thủy trong vùng tam giác Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư trong thời kỳ “tiền Hoa Lư” - khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Các di tích đã thăm dò khai quật tại xã Gia Thủy đang đợi những kế hoạch phát huy giá trị trong tương lai, trước mắt cần khoanh vùng, bảo tồn để tránh tình trạng bị xâm hại bởi quá trình xây dựng các công trình dân dụng của người dân hoặc nạn đào trộm cổ vật.

NGỮ THIÊN

Ngày 27/8, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh tổ chức hội nghị công bố kết quả khai quật khảo cổ di tích mộ gạch và nền móng kiến trúc cổ tại xã Gia Thủy (huyện Nho Quan). Dự hội nghị có các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khảo cổ học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội và các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Các đại biểu tham quan tại di tích

Toàn cảnh Hội nghị

Tại hội nghị, các đại biểu phát biểu tập trung làm rõ những giá trị lịch sử, văn hóa của các di tích và các phương án nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích này.

Được biết, từ tháng 7/2020 đến nay, đoàn công tác của Viện Khảo cổ học đã tiến hành thăm dò, khai quật khảo cổ trên tổng diện tích 280m2 tại các địa điểm trường Tiểu học Gia Thủy; đình Mỹ Hạ thuộc xã Gia Thủy.

Kết quả khai quật mộ gạch tại trường Tiểu học Gia Thủy đã làm rõ toàn bộ hình dáng, quy mô và cấu trúc của một ngôi mộ gạch có quy mô lớn, niên đại thế kỷ I-II Công nguyên. Ngôi mộ cũng đã cung cấp thêm nhiều thông tin khoa học về đề tài mộ gạch 10 thế kỷ đầu Công nguyên ở Việt Nam. Ngoài ra, tại đình Mỹ Hạ, xã Gia Thủy, là nơi thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Thái hậu Dương Vân Nga, sau khi đoàn công tác thăm dò, khai quật khảo cổ, làm xuất lộ các dãy nền móng của ngôi đình cũ có quy mô to lớn nằm sâu dưới mặt đất 0.5m...

Tại hội nghị, đoàn công tác đã đề xuất phương án lấp bảo tồn di tích tạm thời đối với mộ gạch cổ và nền móng kiến trúc tại đình Mỹ Hạ nhằm giúp bảo quản di tích trong lòng đất, đợi những kế hoạch phát huy giá trị trong tương lai. Ở thời điểm hiện tại, phương án này giúp cho địa phương vẫn có thể sử dụng mặt bằng sân trường cho các em học sinh tựu trường vào đầu tháng 9 cũng như phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của người dân địa phương tại đình Mỹ Hạ.

Việc khai quật, khảo cổ di tích mộ gạch và nền móng kiến trúc cổ tại xã Gia Thủy đã góp phần làm rõ hơn giá trị lịch sử văn hóa, vai trò và vị thế của vùng đất Nho Quan - Ninh Bình ở giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Đặc biệt là sự đóng góp vào quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước Đại Cồ Việt ở Kinh đô Hoa Lư, thế kỷ X.

Các đại biểu tham dự Hội thảo đều thống nhất cần xây dựng nhữngbảng chỉ dẫn, hình ảnh nhằm giáo dục lịch sử cho học sinh và nhân dân địa phương về kết quả nghiên cứu khảo cổ học - lịch sử  ở vùng đất này.

Bài và ảnh: Nguyễn Thơ Đình

Hai xác ướp đã được khai quật tại Thung lũng của các vị vua Ai Cập, nghĩa địa  có  lăng mộ của Vua Tut và các hoàng gia Ai Cập khác.
Ngoài các xác ướp, các nhà khảo cổ học cũng khai quật một số công xưởng, điều này tiết lộ chi tiết hơn về cuộc sống của  các công nhân xây dựng nên khu phức hợp hùng vĩ này. Phát hiện được công bố 10 tháng 10 năm 2019 tại một cuộc họp báo.

Các nhà khảo cổ khai quật một vài khu vực phía đông và tây Thung lũng của các vị vua Ai Cập (ảnh: Bộ trưởng Cổ vật Ai Cập)
 
Mặc dù không tìm thấy lăng mộ hoàng gia nào, nhưng các phát hiện mới cho thấy các khu vực lưu trữ dụng cụ của công nhân,  tài liệu viết về cuộc sống của họ và thậm chí là một hiện vật đặc biệt mà công nhân có thể đã sử dụng để di chuyển đồ đạc.
Một trong những phát hiện quan trọng nhất là  phức hệ công xưởng rộng lớn được tìm thấy ở khu vực phía tây Thung lũng của các vị vua, gần thành phố cổ Luxor. Khu phức hợp này bao gồm các xưởng được sử dụng để tô màu đồ gốm, sản xuất đồ nội thất và làm sạch vàng, trưởng nhóm Zahi Hawass, cựu Bộ trưởng Cổ vật Ai Cập, cho biết tại cuộc họp báo.
 
Hawass cho biết: Gần khu phức hệ công xưởng, các nhà khảo cổ tìm thấy một khu vực dài 5 mét đã được đào xuống thung lũng và có thể được sử dụng như một kho chứa đồ (nơi cất giữ các vật dụng). Địa điểm này thu được các tàn tích  nhiều vật dụng, bao gồm tàn tích của hành tây, quả sung, vải lanh, dây thừng và các mảnh vật liệu còn sót lại sau quá trình ướp xác. Các nhà khảo cổ cũng phát hiện ra một mảnh gỗ dài khoảng 0,9 m trông giống như một chiếc dĩa có hai ngạnh. Một dòng chữ tượng hình trên đó có nội dung "chúa tể của hai vùng đất." Hiện vật đặc biệt  này có thể đã được sử dụng như một chiếc đẩy hoặc xe nâng "để chứa đồ đạc để đưa vào bên trong lăng mộ”.

Gần đó, các nhà khảo cổ tìm thấy tàn tích  của các cấu trúc dùng để nướng bánh mì, làm đồ gốm và dự trữ nước. Họ cũng tìm thấy hai chiếc nhẫn, một trong số đó có khắc tên của Amenhotep III, một pharaoh có lăng mộ nằm ở thung lũng phía tây, và một chiếc nhẫn khác có thể đã được sử dụng cho nữ hoàng. Hawass cho biết ông hy vọng sẽ tìm thấy những ngôi mộ chưa được phát hiện  của các thành viên gia đình Amenhotep III, ông nội của Vua Tut, trong các mùa khai quật tiếp.

 
Nhiều phát hiện mới.
Ở phía đông Thung lũng của  các vị vua, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy 10 bia khắc được viết trên mảnh gốm gần lăng mộ của Ramesses III (người trị vì từ năm 1184 trước Công nguyên đến năm 1153 trước Công nguyên). Trong khi công việc dịch thuật đang được tiến hành, các nhà khảo cổ có thể nói rằng ít nhất một trong những bản khắc "nói về những người thợ nam thực sự đến làm việc tại địa điểm này," Hawass nói.
Ông cũng cho biết: Gần lăng mộ của Ramesses VII (người trị vì từ năm 1136 trước Công nguyên đến năm 1129 trước Công nguyên), các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu tích của 40 túp lều nhỏ, có niên đại khoảng 3.300 năm, thực chất là kho chứa công cụ, các nam công nhân dùng để xây dựng lăng mộ.
Hawass cho biết: nhiều phát hiện  được tìm thấy gần lăng mộ của Hatshepsut, một nữ pharaoh, và bao gồm hài cốt của hai xác ướp nữ, cũng như một số bức tượng nhỏ shabti. Người Ai Cập cổ đại thường chôn cất shabtis (shabtis - một loại tượng nhỏ  giống như con người ) cùng với các xác ướp bởi vì họ  tin rằng các tượng này sẽ bảo vệ người đã khuất ở thế giới bên kia. Hai xác ướp nữ này không rõ là ai.
 Những phát hiện trên sẽ giúp các nhà khảo cổ học tìm hiểu thêm về những công nhân đã xây dựng các lăng mộ, và việc phát hiện những ngôi mộ hoàng gia mới có thể vẫn sẽ tiếp tục.
 
Khaled al-Anani, Bộ trưởng Cổ vật Ai Cập, cho biết tại cuộc họp báo “ Chúng tôi hy vọng rằng một ngày nào đó chúng tôi có thể tìm thấy những ngôi mộ hoàng gia hoặc tư nhân chưa được phát hiện trong thung lũng,. "Việc khai quật dự kiến sẽ mất nhiều năm hơn."


Nguồn tham khảo:
https://www.livescience.com/mummies-discovered-egypt-valley-of-kings.html


Người dịch: Minh Tran
 

Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Quyết định số 1290/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích khảo cổ hang Con Moong và các di tích phụ cận, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.

Theo đó, tổng diện tích Quy hoạch hơn 977 ha, bao gồm: khu vực bảo vệ của di tích có diện tích 499,8 ha; khu vực mở rộng phát huy giá trị di tích có diện tích 477,7 ha. Phạm vi Quy hoạch bao gồm phần đất thuộc địa phận các xã Thành Yên và Thành Minh, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Thời gian thực hiện Quy hoạch từ năm 2021 đến năm 2030.
 

Hang Con Moong (thôn Thành Trung, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, Thanh Hóa)


Du khách tham quan hang Con Moong

Mục tiêu dài hạn của việc quy hoạch nhằm bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di tích khảo cổ hang Con Moong và các di tích phụ cận với minh chứng xác thực cho diễn tiến văn hóa của người Việt cổ. Bên cạnh đó, Quy hoạch còn nhằm khai thác, phát huy giá trị di tích phục vụ công tác nghiên cứu, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo tồn di sản văn hóa; giữ gìn, khai thác bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc phát triển du lịch bền vững, góp phần xóa đói, giảm nghèo; nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần nhân dân; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương.

Theo định hướng, quy hoạch không gian bảo tồn, tôn tạo đối với từng điểm di tích trên cơ sở bảo đảm tôn trọng tối đa tính nguyên gốc về giá trị văn hóa, lịch sử của khu vực di tích; tái hiện tính đặc trưng của di tích là hang động gắn với rừng nguyên sinh bao quanh và suối. Đồng thời, định hướng quy hoạch nhằm bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng đặc dụng của Vườn quốc gia Cúc Phương; bảo quản các hố khai quật khảo cổ hiện có; thực hiện thám sát, khai quật bổ sung trước khi triển khai hoạt động xây dựng công trình phát huy giá trị di tích có nguy cơ ảnh hưởng đến khu vực có thể có các di chỉ.

Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo các điểm di tích, bao gồm: hang Con Moong; hang Lai; hang Diêm; hang Lý Chùn; hang Bố Giáo; thành đất đắp núi Đầu Voi; hang và mái đá Mộc Long. Quy hoạch phát triển không gian các khu phát huy giá trị di tích theo nguyên tắc bố cục không gian tự do, đường nét quy hoạch tự nhiên; hình thức kiến trúc của các công trình xây dựng mới bảo đảm hài hòa với không gian cảnh quan bản địa và di tích hang động, chiều cao công trình…

Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/8/2020.

Tin, ảnh: Nguyễn Thơ Đình
 
Viện Khảo cổ học trân trọng kính mời toàn thể cán bộ Viện Khảo cổ học cùng toàn thể quý thầy, cô, các nhà nghiên cứu tới dự buổi Tọa đàm khoa học: "Kết quả khai quật khảo cổ học Bãi cọc Cao Quỳ, Đầm Thượng (Huyện Thủy Nguyên, Thành phố Hải Phòng).
- Diễn giả: TS. Bùi văn Hiếu
- Thời gian: 9h sáng thứ 4 (ngày 19/8/2020)
- Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học
Xin trân trọng kính mời!
Viện Khảo cổ học
- Tác giả: Trần Lâm Biền - Trịnh Sinh
- Nxb: Hồng Đức - 2017
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 259 tr + 151tr phụ lục (bản ảnh và bản vẽ)

Biểu tượng được cho là xác định tư cách cho những kiến trúc cùng với hệ thống đồ thờ liên quan để trở thành di tích mang tính chất tôn giáo tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Biểu tượng đã góp phần thiêng hóa kiến trúc thờ tự, nó đã hướng tâm con người đến lẽ huyền vi của đạo, hướng đến chân, thiện, mỹ, tránh thoát những dục vọng thấp hèn. Biểu tượng gắn với sản phẩm văn hóa hữu thể, nó chứa đựng những ước vọng truyền đời của tổ tiên, qua nó như qua thần linh để cầu nguồn hạnh phúc trần gian.
Nghiên cứu biểu tượng nhằm phác họa, đánh giá và phần nào giải mã một số yếu tố văn hóa nghệ thuật tạo hình trong các di tích cổ truyền của người Việt trong văn hóa Việt Nam.
Nội dung cuốn sách chia làm 2 phần:
Phần 1: Biểu tượng văn hóa nghệ thuật của cư dân Hà Nội thời tiền sử và sở sử.
Phần này tập trung vào hệ di sản văn hóa khảo cổ thuộc thời Tiền sử và Sơ sử trên đất Hà Nội (bao gồm cả phần mới mở rộng).
Phần 2: Biểu tượng văn hóa nghệ thuật của cư dân Hà Nội dưới thời quân chủ dân tộc. Bao gồm giá trị các công trình kiến trúc, giá trị điêu khắc tượng tròn, đồ thờ, giá trị và ý nghĩa các phù điêu trang trí trên di sản văn hóa.
Xin trân trọng giới thiệu!
 
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Lê Thanh Sang, Ono Mikiko
- Nxb: Khoa học xã hội - 2016
-  Khổ sách: 14 x 26 cm
- Số trang: 255 tr

Làng xã Việt nam và Đông Nam Á là đơn vị cư trú và là tổ chức xã hội truyền thống của cộng đồng cư dân ở khu vực nông thôn, trong các vùng đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo. Đặc điểm nổi bật của làng xã Việt Nam và Đông Nam Á là vừa có tính cộng đồng và vừa có tính tự quản. Tuy nhiên, làng xã Việt Nam và Đông Nam Á cũng có nhiều biến đổi qua thời gian, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay.
Ở Việt Nam, về đại thể được phân làm ba miền (Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ) với sáu vùng (Đồng bằng sông Hồng, Trung du và Miền núi Bắc bộ, Duyên hải Miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long). Làng xã tại mỗi vùng miền trên đây hàm chứa trong đó cái chung của làng xã Việt Nam và nét riêng của làng xã mỗi vùng miền.
Tọa đàm “Làng xã Việt Nam và Đông Nam Á trong thời kỳ hội nhập” do Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ hợp tác với Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Kyoto đồng tổ chức.
Cuốn sách gồm nhiều bài viết của nhiều học giả, nhà nghiên cứu khác nhau về chủ đề làng xã Việt Nam và Đông Nam Á trong thời kỳ hội nhập.
 Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Trần Lâm Biền
- Nxb: Hồng Đức - 2017
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 298 tr

Nghiên cứu về “kiến trúc cổ truyền Việt Nam” cũng là tìm về một mạch nguồn bản sắc dân tộc, qua đó phần nào cũng phản ánh được tính chất xuyên suốt, đa dạng trong thống nhất của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Cội nguồn của kiến trúc Việt Nam bắt nguồn từ thời Tiền sử và Sơ sử, cách đây hàng chục ngàn năm. Tới thời Đông Sơn (niên đại từ thế kỷ VII trước công nguyên đến thế kỷ  thứ I sau công nguyên) người Việt khẳng định mình bằng các quốc gia sơ khai Văn Lang, Âu Lạc, được biểu hiện qua nền nông nghiệp trồng lúa nước.
Mười thế kỷ Bắc thuộc, trong cơn lốc giằng xé giữa đồng hóa triệt để và chống đồng hóa mãnh liệt ở mạch nối thượng tầng, dường như kiến trúc Việt đã tiếp thu có chọn lọc nhiều yếu tố Hán, song ở mạch chìm dân dã, sức sống của truyền thống vẫn tồn tại. Chỉ đến kỷ nguyên tự chủ, kiến trúc Việt Nam mới thực sự khởi sắc phong phú về thể loại, đa dạng dần về đối tượng vì đã hợp nguồn biết bao sắc thái của các tộc người anh em cùng sống trên mảnh đất này.
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến kiến trúc truyền thống Việt. Chương này đề cập để chủ nhân sáng tạo và sử dụng, các kiểu nhà dân gian liên quan đến kiến trúc của người Việt, vài nét về lịch sử xã hội liên quan đến kiến trúc.
Chương 2: Bước đi của kiến trúc ở vùng châu thổ.
Trong chương đề cập đến diễn biến loại hình di tích kiến trúc hiện còn qua các thời; sự phân bố của di tích kiến trúc hiện còn qua các thời; niên đại của các di tích kiến trúc hiện còn qua các thời; sự phát triển của các loại hình di tích qua các thời.
Chương 3: Tổ chức không gian, kết cấu và chạm khắc trên kiến trúc qua các thời.
Xin trân trọng giới thiệu!
 
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: GS. Trần Quốc Vượng
- Nxb: Khoa học xã hội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 470 tr

Cuốn sách giống như một cuốn hồi ký ghi lại chặng đường lịch sử nghiên cứu của GS. Trần Quốc Vượng, những mảnh đất nơi ông đã từng đến và đi qua trên mọi miền tổ quốc, cùng với những quan điểm, suy nghĩ, nghiên cứu của ông về lịch sử, văn hóa và tâm thức người Việt. Đặc biệt là khảo cổ học.
Các vấn đề lịch sử văn hóa, các vùng đất được đề cập đến trong quyển sách như: đất tổ Đền Hùng, trống đồng và tâm thức Việt cổ, mảnh đất Vĩnh Phú, Cổ Loa, Làng Bùng, Trạng Bùng, khảo cổ học khu vực Hương Sơn, Mê Linh, Đông Anh, Gia Lâm, Hà Bắc, Sông Châu - Núi Đọ, Xứ Thanh, Hà Tĩnh ...
Xin trân trọng giới thiệu!

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9746065
Số người đang online: 18