- Tác
giả: Đỗ Thị Thùy Lan
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 482 tr
Mục đích của cuốn sách là trình bày sâu và có hệ thống về ba cảng thị trên sông Đàng Ngoài trong hai thế kỷ XVII - XVIII, qua đó, phân tích làm rõ vai trò, chức năng của từng địa điểm Thăng Long, Phố Hiến và Domea.
Cuốn sách bao gồm 4 chương tập trung làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, Khái quát bối cảnh lịch sử tác động đến sự hình thành một hệ thống cảng thị trên tuyến giao thông thủy trọng yếu nhất của Bắc Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, trong đó nhấn mạnh đến xu hướng cởi mở đối với thương mại của các thể chế chính trị Việt Nam từ thế kỷ XVI và trong suốt thế kỷ XVII-XVIII. Khái quát điều kiện tự nhiên, sông ngòi, sự vận động thành tạo, cũng như sự ổn định và phát triển của châu thổ Bắc Bộ cho đến thế kỷ XVIII, trong đó nhấn mạnh đến những ưu thế vượt trội của hệ thống sông Thái Bình và các cửa biển vùng Đông Bắc so với hệ thống sông Hồng và các hải khẩu phía nam đồng bằng Bắc bộ.
Thứ hai, Khắc họa diện mạo của cảng thị Thăng Long - Kể Chợ, với các bến cảng triển nở về phía nam Kinh Kỳ, lần đầu tiên được đặt trong bối cảnh sông ngòi châu thổ Bắc Bộ. Cuốn sách cũng lần đầu tiên đưa ra nhận định về sự phát triển lệch đông của Thăng Long trong hai thế kỷ XVII-XVIII.
Thứ ba, Phân tích và làm rõ quá trình hình thành và các giai đoạn phát triển của Phố Hiến, khẳng định sự hưng thịnh của cảng thị vào cuối thế kỷ XVII- đầu thế kỷ XVIII gắn liền với chính sách ngoại kiều của chính quyền Lê - Trịnh.
Thứ tư, Phân tích sự ra đời, vai trò, chức năng của cảng cửa khẩu Domea trong vùng cửa biển Thái Bình cũng như trên toàn tuyến sông Đàng Ngoài.
Xin trân trọng giới thiệu đến đông đảo các nhà nghiên cứu và bạn đọc quan tâm!

- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 482 tr
Mục đích của cuốn sách là trình bày sâu và có hệ thống về ba cảng thị trên sông Đàng Ngoài trong hai thế kỷ XVII - XVIII, qua đó, phân tích làm rõ vai trò, chức năng của từng địa điểm Thăng Long, Phố Hiến và Domea.
Cuốn sách bao gồm 4 chương tập trung làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, Khái quát bối cảnh lịch sử tác động đến sự hình thành một hệ thống cảng thị trên tuyến giao thông thủy trọng yếu nhất của Bắc Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, trong đó nhấn mạnh đến xu hướng cởi mở đối với thương mại của các thể chế chính trị Việt Nam từ thế kỷ XVI và trong suốt thế kỷ XVII-XVIII. Khái quát điều kiện tự nhiên, sông ngòi, sự vận động thành tạo, cũng như sự ổn định và phát triển của châu thổ Bắc Bộ cho đến thế kỷ XVIII, trong đó nhấn mạnh đến những ưu thế vượt trội của hệ thống sông Thái Bình và các cửa biển vùng Đông Bắc so với hệ thống sông Hồng và các hải khẩu phía nam đồng bằng Bắc bộ.
Thứ hai, Khắc họa diện mạo của cảng thị Thăng Long - Kể Chợ, với các bến cảng triển nở về phía nam Kinh Kỳ, lần đầu tiên được đặt trong bối cảnh sông ngòi châu thổ Bắc Bộ. Cuốn sách cũng lần đầu tiên đưa ra nhận định về sự phát triển lệch đông của Thăng Long trong hai thế kỷ XVII-XVIII.
Thứ ba, Phân tích và làm rõ quá trình hình thành và các giai đoạn phát triển của Phố Hiến, khẳng định sự hưng thịnh của cảng thị vào cuối thế kỷ XVII- đầu thế kỷ XVIII gắn liền với chính sách ngoại kiều của chính quyền Lê - Trịnh.
Thứ tư, Phân tích sự ra đời, vai trò, chức năng của cảng cửa khẩu Domea trong vùng cửa biển Thái Bình cũng như trên toàn tuyến sông Đàng Ngoài.
Xin trân trọng giới thiệu đến đông đảo các nhà nghiên cứu và bạn đọc quan tâm!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: P
hạm Đức Mạnh
- Nxb: Đại học Quốc gia - TP.HCM
- Khổ sách: 20 x 28 cm
- Số trang: 968 tr
Cuốn sách chuyên khảo: “Di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - Hậu Óc Eo trên đất An Giang” do PGS.TS Phạm Đức Mạnh (Trưởng Bộ môn Khảo cổ học - Khoa Lịch sử; nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa, Trưởng Bộ môn Bảo tàng học và Di sản, Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) làm chủ biên. Đây vốn là đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm của Đại học Quốc gia với tên đề tài là “Những di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - Hậu Óc Eo ở An Giang” do tác giả làm chủ nhiệm, đã được nghiệm thu xuất sắc năm 2008.
Công trình nghiên cứu khoa học này đã vinh dự nhận Giải thưởng Trần Văn Giàu lần IV - năm 2009 về Lịch sử. Nay công trình được sửa chữa để xuất bản thành sách chuyên khảo.
Về bố cục, ngoài phần mở đầu và phụ lục bản ảnh, sơ đồ, bản đồ..., ở Chính văn, chuyên khảo có 6 phần:
Phần thứ nhất: An Giang - nền cảnh môi trường sinh thái và nhân văn
Phần thứ hai: Giản sử về vương quốc Phù Nam và lược sử nghiên cứu văn hóa vật thể trên đất An Giang
Chương I: Giản sử về vương quốc Phù Nam
Chương II: Lược sử nghiên cứu văn hóa vật thể ở An Giang
Phần thứ ba: Di tích văn hóa cổ ở An Giang
Chương I: Các địa điểm chứa cổ tích thời Tiền sử ở An Giang
Chương II: Các địa điểm chứa cổ tích thời Cổ sử ở An Giang
Phần thứ tư: Sưu tập văn hóa tiêu biểu thời Tiền sử và Cổ sử ở An Giang
Chương I: Di vật văn hóa thời Tiền sử ở An Giang
Chương II: Di vật văn hóa thời Cổ sử ở An Giang
Phần thứ năm: Diễn trình lịch sử văn hóa cơ bản ở An Giang trong nền cảnh Nam Bộ (Việt Nam) và rộng hơn.
Phần thứ sáu: Xã hội thời Tiền sử và Cổ sử ở An Giang và Nam Bộ - cuộc sống và con người.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Đại học Quốc gia - TP.HCM
- Khổ sách: 20 x 28 cm
- Số trang: 968 tr
Cuốn sách chuyên khảo: “Di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - Hậu Óc Eo trên đất An Giang” do PGS.TS Phạm Đức Mạnh (Trưởng Bộ môn Khảo cổ học - Khoa Lịch sử; nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa, Trưởng Bộ môn Bảo tàng học và Di sản, Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) làm chủ biên. Đây vốn là đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm của Đại học Quốc gia với tên đề tài là “Những di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - Hậu Óc Eo ở An Giang” do tác giả làm chủ nhiệm, đã được nghiệm thu xuất sắc năm 2008.
Công trình nghiên cứu khoa học này đã vinh dự nhận Giải thưởng Trần Văn Giàu lần IV - năm 2009 về Lịch sử. Nay công trình được sửa chữa để xuất bản thành sách chuyên khảo.
Về bố cục, ngoài phần mở đầu và phụ lục bản ảnh, sơ đồ, bản đồ..., ở Chính văn, chuyên khảo có 6 phần:
Phần thứ nhất: An Giang - nền cảnh môi trường sinh thái và nhân văn
Phần thứ hai: Giản sử về vương quốc Phù Nam và lược sử nghiên cứu văn hóa vật thể trên đất An Giang
Chương I: Giản sử về vương quốc Phù Nam
Chương II: Lược sử nghiên cứu văn hóa vật thể ở An Giang
Phần thứ ba: Di tích văn hóa cổ ở An Giang
Chương I: Các địa điểm chứa cổ tích thời Tiền sử ở An Giang
Chương II: Các địa điểm chứa cổ tích thời Cổ sử ở An Giang
Phần thứ tư: Sưu tập văn hóa tiêu biểu thời Tiền sử và Cổ sử ở An Giang
Chương I: Di vật văn hóa thời Tiền sử ở An Giang
Chương II: Di vật văn hóa thời Cổ sử ở An Giang
Phần thứ năm: Diễn trình lịch sử văn hóa cơ bản ở An Giang trong nền cảnh Nam Bộ (Việt Nam) và rộng hơn.
Phần thứ sáu: Xã hội thời Tiền sử và Cổ sử ở An Giang và Nam Bộ - cuộc sống và con người.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
-
Tác giả: Ngô Bình Lâm dịch - Đỗ Lai Thúy giới thiệu
- Nxb: Hồng Đức - 2018
- Khổ sách: 14 x 22 cm
- Số trang: 374 tr
Nhân kỷ niệm 35 năm Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, cùng với cuốn không gian văn hóa nguyên thủy nhìn theo lý thuyết chức năng của R.Lowie, Tủ sách Văn hóa nghệ thuật giới thiệu cùng bạn đọc công trình Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thủy của nhà triết học, nhà xã hội học xuất sắc người Pháp Lucien Levy-Bruhl (1857-1939).
Ở tác phẩm này, bằng một bút pháp phân tích tuyệt vời, Levy-Bruhl đã phân biệt đạo đức lý thuyết và đạo đức thực tiễn đang vận hành trong một xã hội nhất định, bằng thuật ngữ cái chuẩn tắc và cái thiết thực, mà cho đến ông người ta vẫn lẫn lộn, hoặc chỉ chú mục vào cái thứ nhất. Nay ông chuyển sang nghiên cứu cái thứ hai và xây dựng nên một khoa học về các sự kiện xã hội.
Nội dung cuốn sách gồm 2 phần và 7 chương:
Phần thứ nhất: Kinh nghiệm thần bí của người nguyên thủy
Chương 1: May rủi và ma thuật
Chương 2: Điều bất thường, kinh nghiệm thần bí
Chương 3: Những giấc mơ và những ảo ảnh
Chương 4: Sự hiện diện của những người chết
Phần thứ hai: Những biểu tượng của người nguyên thủy
Chương 5: Bản chất và những chức năng của các biểu tượng
Chương 6: Các kiểu hành động mang tính tượng trưng
Chương 7: Việc dự báo trước tượng trưng.
Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc!

- Nxb: Hồng Đức - 2018
- Khổ sách: 14 x 22 cm
- Số trang: 374 tr
Nhân kỷ niệm 35 năm Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, cùng với cuốn không gian văn hóa nguyên thủy nhìn theo lý thuyết chức năng của R.Lowie, Tủ sách Văn hóa nghệ thuật giới thiệu cùng bạn đọc công trình Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thủy của nhà triết học, nhà xã hội học xuất sắc người Pháp Lucien Levy-Bruhl (1857-1939).
Ở tác phẩm này, bằng một bút pháp phân tích tuyệt vời, Levy-Bruhl đã phân biệt đạo đức lý thuyết và đạo đức thực tiễn đang vận hành trong một xã hội nhất định, bằng thuật ngữ cái chuẩn tắc và cái thiết thực, mà cho đến ông người ta vẫn lẫn lộn, hoặc chỉ chú mục vào cái thứ nhất. Nay ông chuyển sang nghiên cứu cái thứ hai và xây dựng nên một khoa học về các sự kiện xã hội.
Nội dung cuốn sách gồm 2 phần và 7 chương:
Phần thứ nhất: Kinh nghiệm thần bí của người nguyên thủy
Chương 1: May rủi và ma thuật
Chương 2: Điều bất thường, kinh nghiệm thần bí
Chương 3: Những giấc mơ và những ảo ảnh
Chương 4: Sự hiện diện của những người chết
Phần thứ hai: Những biểu tượng của người nguyên thủy
Chương 5: Bản chất và những chức năng của các biểu tượng
Chương 6: Các kiểu hành động mang tính tượng trưng
Chương 7: Việc dự báo trước tượng trưng.
Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc!
Ngô Thị Nhung
-
Tác giả: PGS.TS.Tống Trung Tín
- Nxb: Hà Nội - 2020
- Khổ sách: 27 x 30 cm
- Số trang: 571 tr
Cuốn sách Văn hiến Thăng Long - Bằng chứng khảo cổ học do PGS.TS.Tống Trung Tín làm chủ biên. Tác giả là một nhà khảo cổ học có uy tín, nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Khảo cổ học và hiện đang là Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam đồng thời là ủy viên thường vụ Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ông đã chủ biên, đồng chủ biên một số công trình có giá trị, như: Hoàng thành Thăng Long xuất bản năm 2006, Thăng Long - Hà Nội lịch sử nghìn năm từ lòng đất xuất bản năm 2010, Kinh đô Thăng Long - Những khám phá khảo cổ học, Tổng tập khảo cổ học Thăng Long - Hà Nội, Di tích Khảo cổ học Đàn Xã Tắc Thăng Long in năm 2019, Di vật tiêu biểu Hoàng Thành Thăng Long 2002-2013 xuất bản năm 2013. Đồng thời PGS.TS.Tống Trung Tín còn chủ trì hầu hết các cuộc khai quật trong nội thành Hà Nội và địa điểm 18 Hoàng Diệu năm 2003 nên sớm nhận ra được những giá trị tầm cỡ thế giới của di sản Hoàng Thành Thăng Long (Trích lời giới thiệu của PGS.TS.Trần Đức Cường - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).
Nhân kỷ niệm 1010 năm Thăng Long - hà Nội, nhân kỷ niệm 10 năm di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO vinh danh là Di sản thế giới tác giả và các cộng sự tập hợp biên soạn cuốn sách, với mong muốn qua một số di tích, di vật khảo cổ học tiêu biểu đã đọc khảo cổ học Việt Nam phát hiện và nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua để công chúng trong và ngoài nước có thể hiểu được phần nào giá trị to lớn của Di sản văn hiến Thăng Long.
Nội dung cuốn sách gồm các phần:
1/Thắng địa Thăng Long - Lược sử kinh đô và lược sử khảo cổ học Kinh đô
2/ Nguồn cội của Văn hiến Thăng Long
3/ Gìn giữ cội nguồn và phát triển (179.TCN - 905.SCN)
4/ Thời kỳ tiền văn hiến Thăng Long (905 - 1009)
5/ Văn hiến Thăng Long thời Lý (1010-1225)
6/ Văn hiến Thăng Long thời Trần (1226-1400)
7/ Văn hiến Thăng Long thời Lê sơ (1428-1527)
8/ Văn hiến Thăng Long thời Mạc (1527-1592)
9/ Văn hiến Thăng Long thời Lê Trung Hưng (1592-1788)
10/ Văn hiến Thăng Long thời Tây Sơn (1788-1802)
11/ Văn hiến Thăng Long thời Nguyễn (1802-1945)
Sách được viết bằng 2 ngôn ngữ Anh - Việt, kết hợp phụ lục bản ảnh, bản đồ, sơ đồ, bản vẽ... in màu sắc nét, sống động.
Xin trân trọng giới thiệu đến đông đảo bạn đọc và các nhà nghiên cứu!

- Nxb: Hà Nội - 2020
- Khổ sách: 27 x 30 cm
- Số trang: 571 tr
Cuốn sách Văn hiến Thăng Long - Bằng chứng khảo cổ học do PGS.TS.Tống Trung Tín làm chủ biên. Tác giả là một nhà khảo cổ học có uy tín, nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Khảo cổ học và hiện đang là Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam đồng thời là ủy viên thường vụ Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ông đã chủ biên, đồng chủ biên một số công trình có giá trị, như: Hoàng thành Thăng Long xuất bản năm 2006, Thăng Long - Hà Nội lịch sử nghìn năm từ lòng đất xuất bản năm 2010, Kinh đô Thăng Long - Những khám phá khảo cổ học, Tổng tập khảo cổ học Thăng Long - Hà Nội, Di tích Khảo cổ học Đàn Xã Tắc Thăng Long in năm 2019, Di vật tiêu biểu Hoàng Thành Thăng Long 2002-2013 xuất bản năm 2013. Đồng thời PGS.TS.Tống Trung Tín còn chủ trì hầu hết các cuộc khai quật trong nội thành Hà Nội và địa điểm 18 Hoàng Diệu năm 2003 nên sớm nhận ra được những giá trị tầm cỡ thế giới của di sản Hoàng Thành Thăng Long (Trích lời giới thiệu của PGS.TS.Trần Đức Cường - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).
Nhân kỷ niệm 1010 năm Thăng Long - hà Nội, nhân kỷ niệm 10 năm di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO vinh danh là Di sản thế giới tác giả và các cộng sự tập hợp biên soạn cuốn sách, với mong muốn qua một số di tích, di vật khảo cổ học tiêu biểu đã đọc khảo cổ học Việt Nam phát hiện và nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua để công chúng trong và ngoài nước có thể hiểu được phần nào giá trị to lớn của Di sản văn hiến Thăng Long.
Nội dung cuốn sách gồm các phần:
1/Thắng địa Thăng Long - Lược sử kinh đô và lược sử khảo cổ học Kinh đô
2/ Nguồn cội của Văn hiến Thăng Long
3/ Gìn giữ cội nguồn và phát triển (179.TCN - 905.SCN)
4/ Thời kỳ tiền văn hiến Thăng Long (905 - 1009)
5/ Văn hiến Thăng Long thời Lý (1010-1225)
6/ Văn hiến Thăng Long thời Trần (1226-1400)
7/ Văn hiến Thăng Long thời Lê sơ (1428-1527)
8/ Văn hiến Thăng Long thời Mạc (1527-1592)
9/ Văn hiến Thăng Long thời Lê Trung Hưng (1592-1788)
10/ Văn hiến Thăng Long thời Tây Sơn (1788-1802)
11/ Văn hiến Thăng Long thời Nguyễn (1802-1945)
Sách được viết bằng 2 ngôn ngữ Anh - Việt, kết hợp phụ lục bản ảnh, bản đồ, sơ đồ, bản vẽ... in màu sắc nét, sống động.
Xin trân trọng giới thiệu đến đông đảo bạn đọc và các nhà nghiên cứu!
Ngô Thị Nhung
-
Tác giả: Võ Sĩ Khải
- Nxb: Khoa học xã hội - 2018
- Khổ sách: 16x 24 cm
- Số trang: 307 tr
Kiến trúc là một đối tượng quan trọng trong nghiên cứu khảo cổ học lịch sử. Trong văn hóa khảo cổ, kiến trúc là chứng tích cụ thể về trình độ và thành tựu về kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng của một cộng đồng ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Ở Nam Bộ, nhiều di tích kiến trúc cổ thuộc giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên vẫn còn tồn tại trong lòng đất cho đến nay. Khi những người Việt đầu tiên đến đây vào thế kỷ XVII, họ đã nhìn thấy những phế tích rải rác từ miền Đông đến miền Tây. Sự kiện này biểu hiện qua nhiều địa danh có liên quan đến những kiến trúc cổ như Tháp Mười (Đồng Tháp), Gò Thành, Đìa Tháp (Tiền Giang), Lò Gạch (Trà Vinh), Gò Tháp (Tây Ninh)... Hiện nay kiến trúc tháp cổ hiện còn đứng vững trên mặt đất: Chót Mạt, Bình Thạnh (Tây Ninh) và Vĩnh Hưng (Bạc Liêu).
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về lịch sử nghiên cứu và nhận thức về kiến trúc Óc Eo - hậu Óc Eo ở Nam Bộ. Trong chương này, tác giả nêu lên hai vấn đề chính là quá trình phát hiện, phân bố các di tích và nhận thức về di tích kiến trúc cổ ở đồng bằng Nam Bộ.
Chương 2: Di tích kiến trúc cổ và di vật có liên quan ở đồng bằng Nam Bộ
Chương này, giới thiệu các di tích kiến trúc ở đồng bằng Nam Bộ như là vật liệu và kỹ thuật xây dựng, các cấu kiện kiến trúc, bình đồ và bố cục của các kiến trúc, các di vật liên quan đến kiến trúc, chức năng của các kiến trúc
Chương 3. Truyền thống và không gian văn hóa - xã hội của các di tích kiến trúc cổ ở ở đồng bằng Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Khoa học xã hội - 2018
- Khổ sách: 16x 24 cm
- Số trang: 307 tr
Kiến trúc là một đối tượng quan trọng trong nghiên cứu khảo cổ học lịch sử. Trong văn hóa khảo cổ, kiến trúc là chứng tích cụ thể về trình độ và thành tựu về kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng của một cộng đồng ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Ở Nam Bộ, nhiều di tích kiến trúc cổ thuộc giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên vẫn còn tồn tại trong lòng đất cho đến nay. Khi những người Việt đầu tiên đến đây vào thế kỷ XVII, họ đã nhìn thấy những phế tích rải rác từ miền Đông đến miền Tây. Sự kiện này biểu hiện qua nhiều địa danh có liên quan đến những kiến trúc cổ như Tháp Mười (Đồng Tháp), Gò Thành, Đìa Tháp (Tiền Giang), Lò Gạch (Trà Vinh), Gò Tháp (Tây Ninh)... Hiện nay kiến trúc tháp cổ hiện còn đứng vững trên mặt đất: Chót Mạt, Bình Thạnh (Tây Ninh) và Vĩnh Hưng (Bạc Liêu).
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về lịch sử nghiên cứu và nhận thức về kiến trúc Óc Eo - hậu Óc Eo ở Nam Bộ. Trong chương này, tác giả nêu lên hai vấn đề chính là quá trình phát hiện, phân bố các di tích và nhận thức về di tích kiến trúc cổ ở đồng bằng Nam Bộ.
Chương 2: Di tích kiến trúc cổ và di vật có liên quan ở đồng bằng Nam Bộ
Chương này, giới thiệu các di tích kiến trúc ở đồng bằng Nam Bộ như là vật liệu và kỹ thuật xây dựng, các cấu kiện kiến trúc, bình đồ và bố cục của các kiến trúc, các di vật liên quan đến kiến trúc, chức năng của các kiến trúc
Chương 3. Truyền thống và không gian văn hóa - xã hội của các di tích kiến trúc cổ ở ở đồng bằng Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả
: Ngô Minh Doanh
- Nxb: Khoa học xã hội - 2018
- Khổ sách: 15,5 x 23 cm
- Số trang: 271 tr

- Nxb: Khoa học xã hội - 2018
- Khổ sách: 15,5 x 23 cm
- Số trang: 271 tr
Nội dung cuốn sách gồm 20 bài viết phong phú, gồm nhiều lĩnh vực, cụ thể trong bốn mảng lớn: Quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ; Những nhân vật lịch sử vùng đất Nam Bộ; Những vấn đề lịch sử văn hóa thời cận đại; Những vấn đề lịch sử văn hóa Nam Bộ thời hiện đại. Qua đó hiện lên cả một tiến trình phát triển từ vùng đất mới khai phá chuyển thành đất Thành đồng, “đi trước về sau”.
Đã có nhiều nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau ở cả trong và ngoài nước, không phải để so sánh đối chiếu mà là góp thêm vào những hiểu biết về mấy trăm năm khai phá, tạo dựng, xác lập thành vùng đất phía nam của Tổ quốc. Cuốn sách Một hướng tiếp cận nghiên cứu lịch sử Nam Bộ đã cung cấp nguồn sử liệu, minh chứng lối tư duy về lịch sử vùng đất Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Đã có nhiều nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau ở cả trong và ngoài nước, không phải để so sánh đối chiếu mà là góp thêm vào những hiểu biết về mấy trăm năm khai phá, tạo dựng, xác lập thành vùng đất phía nam của Tổ quốc. Cuốn sách Một hướng tiếp cận nghiên cứu lịch sử Nam Bộ đã cung cấp nguồn sử liệu, minh chứng lối tư duy về lịch sử vùng đất Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Một nhóm các nhà khảo cổ học của Đại học Griffith, Úc đã chia sẻ về việc phát hiện bức hoạ hang động cổ nhất được biết đến trên thế giới, có niên đại ít nhất 45.500 năm trước.

Bức tranh lợn (con lợn 1) được định niên đại ít nhất 45. 500 năm trước ở Leang Tedongnge
[Chụp bởi: Maxime Aubert]
Được phát hiện ở Nam Sulawesi trong quá trình nghiên cứu thực địa với trung tâm nghiên cứu khảo cổ hàng đầu của Indonesia, Pusat Penelitian Arkeologi Nasional (ARKENAS), bức hoạ hang động này mô tả tượng hình một con lợn rừng Sulawesi, một loài lợn rừng đặc hữu của hòn đảo Indonesia này.
Giáo sư Adam Brumm từ Trung tâm Nghiên cứu Tiến hóa Người của đại học Griffith, Úc, đồng chủ nhiệm nhóm hợp tác Griffith-ARKENAS cho biết: “Bức tranh lợn rừng Sulawesi mà chúng tôi tìm thấy trong hang động đá vôi Leang Tedongnge, hiện là tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu sớm nhất được biết đến trên thế giới,”
“Hang này nằm trong một thung lũng được bao bọc bởi những vách đá vôi dựng đứng và chỉ có thể vào được bằng một lối đi hẹp vào mùa khô vì đáy thung lũng bị ngập hoàn toàn. Cộng đồng Bugis biệt lập sống trong thung lũng ẩn mình này khẳng định nó chưa từng được người phương Tây đến thăm trước đây ”.
Bức tranh lợn rừng Sulawesi có niên đại ít nhất 45.500 năm trước là một phần của bức hoạ trên đá nằm trên một mỏm đá cao dọc theo bức tường phía sau của Leang Tedongnge.
Giáo sư Brumm cho biết: “Nó cho thấy một con lợn có mào lông ngắn dựng đứng và một cặp mụn cóc trên mặt giống như sừng ở phía trước mắt, đặc điểm đặc trưng của lợn đực Sulawesi đực trưởng thành, ”
Được vẽ bằng sắc tố màu đỏ son, con lợn này dường như đang quan sát một cuộc chiến hoặc tương tác giữa hai con lợn khác.
Basran Burhan, một nhà khảo cổ người Indonesia từ miền nam Sulawesi và là nghiên cứu sinh Đại học Griffith, người dẫn đầu cuộc khảo sát tìm ra bức hoạ này, cho biết “Con người đã săn bắt lợn rừng Sulawesi trong hàng chục nghìn năm.”
“Những con lợn này là động vật được miêu tả phổ biến nhất trong nghệ thuật đá thời kỳ băng hà ở hòn đảo này, cho thấy chúng từ lâu đã có giá trị vừa là thức ăn vừa là trọng tâm của tư duy sáng tạo và biểu hiện nghệ thuật”.
Đồng trưởng nhóm, Giáo sư Maxime Aubert, chuyên gia xác định niên đại thuộcTrung tâm Nghiên cứu Văn hóa và Xã hội Griffith, đã lấy mẫu để xác định niên đại chuỗi Uranium, được tiến hành tại Cơ sở Đồng vị Phóng xạ của Đại học Queensland.
Giáo sư Aubert cho biết: “bức hoạ trên đá rất khó để định niên đại ”. “Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật trên đá được tạo ra trong các hang động đá vôi đôi khi có thể được xác định niên đại bằng cách sử dụng phân tích chuỗi Uranium của các cặn canxi cacbonat (‘ bỏng ngô trong hang động ’) hình thành tự nhiên trên bề mặt vách hang động được sử dụng như một‘ cái phông ’ vẽ.
“Ở Leang Tedongnge, cặn nhỏ can xi cacbonat trong hang động đã hình thành trên chân sau của một trong những hình con lợn sau khi được vẽ, vì vậy khi xác định niên đại, nó cung cấp cho chúng ta tuổi tối thiểu của bức hoạ này.”
Một hình ảnh con lợn rừng Sulawesi thứ hai, từ Leang Balangajia 1, một hang động khác trong khu vực này, được xác định niên đại ít nhất 32.000 năm cách đây bằng phương pháp chuỗi Uranium.
Giáo sư Aubert nói. “Giờ đây, chúng tôi đã xác định được niên đại của nhiều ví dụ về nghệ thuật đá sớm ở Sulawesi, bao gồm mô tả động vật và cảnh tường thuật nổi bật cả về chất lượng vẽ và độ hiếm trên toàn thế giới ”.
Những ‘cảnh’ có thể nhận ra đặc biệt không phổ biến trong nghệ thuật hang động sớm (sơ khai). Bức tranh trên đá có niên đại lâu đời nhất trước đây, ít nhất 43.900 năm tuổi, là bức mô tả những sinh vật nửa người và nửa động vật đang săn lợn rừng Sulawesi và những con bò lùn, được cùng một nhóm nghiên cứu phát hiện tại một địa điểm hang động đá vôi gần đó. Phát hiện đó đã được tạp chí Science xếp hạng là một trong 10 đột phá khoa học hàng đầu của năm 2020.
Đồng tác giả nghiên cứu và chuyên gia nghệ thuật đá Indonesia Adhi Agus Oktaviana, nhà nghiên cứu ARKENAS đang làm tiến sĩ tại Griffith cho biết:
“Chúng tôi đã tìm thấy và ghi lại nhiều hình ảnh nghệ thuật trên đá ở Sulawesi vẫn đang chờ xác định niên đại khoa học. Chúng tôi hy vọng nghệ thuật đá sơ khai của hòn đảo này sẽ mang lại nhiều khám phá quan trọng hơn nữa ”.
Bức hoạ trên đá Sulawesi được định niên đại, đại diện cho một số bằng chứng khảo cổ học sớm nhất, có lẽ là sớm nhất về con người hiện đại trong khu vực rộng lớn của các đảo đại dương nằm giữa châu Á và Úc-New Guinea - được biết đến là ‘Wallacea’.
Theo giáo sư Aubert “Loài người chúng ta phải vượt qua Wallacea bằng tàu thủy để đến Úc ít nhất 65.000 năm trước. “Tuy nhiên, các đảo Wallacean chưa được khám phá nhiều và hiện tại bằng chứng khảo cổ học sớm nhất được khai quật từ khu vực này có tuổi còn trẻ hơn nhiều”.
Nhóm nghiên cứu Griffith kỳ vọng rằng nghiên cứu trong tương lai ở miền đông Indonesia sẽ dẫn đến việc phát hiện bức hoạ trên đá cổ hơn và bằng chứng khảo cổ khác, có niên đại ít nhất 65.000 năm và có thể sớm hơn.
Giáo sư Brumm cho biết: “Phát hiện này nhấn mạnh sự cổ xưa đáng chú ý của nghệ thuật đá ở Indonesia và ý nghĩa to lớn trong việc tìm hiểu lịch sử sâu sắc của nghệ thuật cũng như vai trò của nó trong câu chuyện sơ khai của nhân loại.” .
Phát hiện được đăng trên tạp chí Science Advances.
Nguồn tham khảo:
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/01/worlds-oldest-cave-art-discovered-in.html
Người dịch: Minh Trần

Bức tranh lợn (con lợn 1) được định niên đại ít nhất 45. 500 năm trước ở Leang Tedongnge
[Chụp bởi: Maxime Aubert]
Được phát hiện ở Nam Sulawesi trong quá trình nghiên cứu thực địa với trung tâm nghiên cứu khảo cổ hàng đầu của Indonesia, Pusat Penelitian Arkeologi Nasional (ARKENAS), bức hoạ hang động này mô tả tượng hình một con lợn rừng Sulawesi, một loài lợn rừng đặc hữu của hòn đảo Indonesia này.
Giáo sư Adam Brumm từ Trung tâm Nghiên cứu Tiến hóa Người của đại học Griffith, Úc, đồng chủ nhiệm nhóm hợp tác Griffith-ARKENAS cho biết: “Bức tranh lợn rừng Sulawesi mà chúng tôi tìm thấy trong hang động đá vôi Leang Tedongnge, hiện là tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu sớm nhất được biết đến trên thế giới,”
“Hang này nằm trong một thung lũng được bao bọc bởi những vách đá vôi dựng đứng và chỉ có thể vào được bằng một lối đi hẹp vào mùa khô vì đáy thung lũng bị ngập hoàn toàn. Cộng đồng Bugis biệt lập sống trong thung lũng ẩn mình này khẳng định nó chưa từng được người phương Tây đến thăm trước đây ”.
Bức tranh lợn rừng Sulawesi có niên đại ít nhất 45.500 năm trước là một phần của bức hoạ trên đá nằm trên một mỏm đá cao dọc theo bức tường phía sau của Leang Tedongnge.
Giáo sư Brumm cho biết: “Nó cho thấy một con lợn có mào lông ngắn dựng đứng và một cặp mụn cóc trên mặt giống như sừng ở phía trước mắt, đặc điểm đặc trưng của lợn đực Sulawesi đực trưởng thành, ”
Được vẽ bằng sắc tố màu đỏ son, con lợn này dường như đang quan sát một cuộc chiến hoặc tương tác giữa hai con lợn khác.

Bức tranh lợn (con lợn 1) được định niên đại ít nhất 45. 500 năm trước ở Leang Tedongnge [Chụp bởi: AA Oktaviana] |
Basran Burhan, một nhà khảo cổ người Indonesia từ miền nam Sulawesi và là nghiên cứu sinh Đại học Griffith, người dẫn đầu cuộc khảo sát tìm ra bức hoạ này, cho biết “Con người đã săn bắt lợn rừng Sulawesi trong hàng chục nghìn năm.”
“Những con lợn này là động vật được miêu tả phổ biến nhất trong nghệ thuật đá thời kỳ băng hà ở hòn đảo này, cho thấy chúng từ lâu đã có giá trị vừa là thức ăn vừa là trọng tâm của tư duy sáng tạo và biểu hiện nghệ thuật”.
Đồng trưởng nhóm, Giáo sư Maxime Aubert, chuyên gia xác định niên đại thuộcTrung tâm Nghiên cứu Văn hóa và Xã hội Griffith, đã lấy mẫu để xác định niên đại chuỗi Uranium, được tiến hành tại Cơ sở Đồng vị Phóng xạ của Đại học Queensland.
Giáo sư Aubert cho biết: “bức hoạ trên đá rất khó để định niên đại ”. “Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật trên đá được tạo ra trong các hang động đá vôi đôi khi có thể được xác định niên đại bằng cách sử dụng phân tích chuỗi Uranium của các cặn canxi cacbonat (‘ bỏng ngô trong hang động ’) hình thành tự nhiên trên bề mặt vách hang động được sử dụng như một‘ cái phông ’ vẽ.
“Ở Leang Tedongnge, cặn nhỏ can xi cacbonat trong hang động đã hình thành trên chân sau của một trong những hình con lợn sau khi được vẽ, vì vậy khi xác định niên đại, nó cung cấp cho chúng ta tuổi tối thiểu của bức hoạ này.”
Đây là cặn khoáng, sau khi được Giáo sư Aubert loại bỏ cẩn thận, được định niên đại Uranium và có tuổi ít nhất 45.500 năm, cho thấy rằng bức hoạ trên đá kia đã được vẽ trước đó. 

Cửa hang Leang Tedongnge ( Chụp bởi: AA Oktaviana]. |
Một hình ảnh con lợn rừng Sulawesi thứ hai, từ Leang Balangajia 1, một hang động khác trong khu vực này, được xác định niên đại ít nhất 32.000 năm cách đây bằng phương pháp chuỗi Uranium.
Giáo sư Aubert nói. “Giờ đây, chúng tôi đã xác định được niên đại của nhiều ví dụ về nghệ thuật đá sớm ở Sulawesi, bao gồm mô tả động vật và cảnh tường thuật nổi bật cả về chất lượng vẽ và độ hiếm trên toàn thế giới ”.
Những ‘cảnh’ có thể nhận ra đặc biệt không phổ biến trong nghệ thuật hang động sớm (sơ khai). Bức tranh trên đá có niên đại lâu đời nhất trước đây, ít nhất 43.900 năm tuổi, là bức mô tả những sinh vật nửa người và nửa động vật đang săn lợn rừng Sulawesi và những con bò lùn, được cùng một nhóm nghiên cứu phát hiện tại một địa điểm hang động đá vôi gần đó. Phát hiện đó đã được tạp chí Science xếp hạng là một trong 10 đột phá khoa học hàng đầu của năm 2020.
Đồng tác giả nghiên cứu và chuyên gia nghệ thuật đá Indonesia Adhi Agus Oktaviana, nhà nghiên cứu ARKENAS đang làm tiến sĩ tại Griffith cho biết:
“Chúng tôi đã tìm thấy và ghi lại nhiều hình ảnh nghệ thuật trên đá ở Sulawesi vẫn đang chờ xác định niên đại khoa học. Chúng tôi hy vọng nghệ thuật đá sơ khai của hòn đảo này sẽ mang lại nhiều khám phá quan trọng hơn nữa ”.
Bức hoạ trên đá Sulawesi được định niên đại, đại diện cho một số bằng chứng khảo cổ học sớm nhất, có lẽ là sớm nhất về con người hiện đại trong khu vực rộng lớn của các đảo đại dương nằm giữa châu Á và Úc-New Guinea - được biết đến là ‘Wallacea’.
Theo giáo sư Aubert “Loài người chúng ta phải vượt qua Wallacea bằng tàu thủy để đến Úc ít nhất 65.000 năm trước. “Tuy nhiên, các đảo Wallacean chưa được khám phá nhiều và hiện tại bằng chứng khảo cổ học sớm nhất được khai quật từ khu vực này có tuổi còn trẻ hơn nhiều”.
Nhóm nghiên cứu Griffith kỳ vọng rằng nghiên cứu trong tương lai ở miền đông Indonesia sẽ dẫn đến việc phát hiện bức hoạ trên đá cổ hơn và bằng chứng khảo cổ khác, có niên đại ít nhất 65.000 năm và có thể sớm hơn.
Giáo sư Brumm cho biết: “Phát hiện này nhấn mạnh sự cổ xưa đáng chú ý của nghệ thuật đá ở Indonesia và ý nghĩa to lớn trong việc tìm hiểu lịch sử sâu sắc của nghệ thuật cũng như vai trò của nó trong câu chuyện sơ khai của nhân loại.” .
Phát hiện được đăng trên tạp chí Science Advances.
Nguồn tham khảo:
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/01/worlds-oldest-cave-art-discovered-in.html
Người dịch: Minh Trần
Công cụ chế biến thức ăn là công cụ cuội mài cổ nhất được tìm thấy.
Các nhà nghiên cứu đã xác định công cụ mài cổ nhất khoảng 350.000 năm, phát hiện trong hang Tabun trên núi Carmel ở miền bắc Israel, gần Haifa, và được cho rằng để sử dụng chế biến thực phẩm.
Một nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí Tiến hóa Loài Người của tiến sĩ Ron Shimelmitz, tiến sĩ Iris Groman-Yaroslavski, giáo sư Mina Weinstein-Evron và giáo sư Danny Rosenberg thuộc Viện Khảo cổ học Zinman tại Đại học Haifa đã xác định được công cụ cổ nhất được sử dụng để mài mòn các vật liệu khác nhau khoảng 350.000 năm trước, trước khi người Homo sapiens xuất hiện.
Công cụ này là một viên cuội dolomit tròn chứa các vết mài mòn vi thể, được tìm thấy trong hang Tabun trên núi Carmel, một trong những di chỉ thời tiền sử quan trọng ở Israel và trên thế giới. Công cụ này có trước khoảng 150.000 năm tất cả các công cụ khác được tìm thấy cho đến nay có dấu hiệu mài mòn.
“Mặc dù chúng tôi không thể liên kết chắc chắn công cụ trên với quá trình chế biến thức ăn, nhưng rất có thể nó được sử dụng cho mục đích này. Dù thế nào đi nữa, đối với các nhà nghiên cứu khảo cổ học ẩm thực và các phương pháp chế biến thực phẩm trong các thời kỳ khác nhau - từ thời tiền sử đến thời hiện đại - viên cuội nhỏ này ở Tabun có tầm quan trọng to lớn. Nó cho phép chúng tôi khám phá nguồn gốc sớm nhất của hoạt động mài và xem khả năng nhận thức và vận động phát triển như thế nào trong quá trình tiến hóa của con người cuối cùng đã dẫn đến những hiện tượng tiếp tục trở thành quan trọng trong văn hóa nhân văn hiện đại. Những quá trình này bắt đầu từ sự mài mòn và trong sự phát triển của kỹ thuật chế biến thực phẩm, mở rộng sang các lĩnh vực như chuyển đổi sang các khu định cư lâu dài, nông nghiệp, chăn nuôi, gia tăng tính phức tạp về kinh tế và xã hội, ”theo Rosenberg, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Công cụ đá và công nghệ chế biến thực phẩm cổ.
Các nhà nghiên cứu kết luận trong bài báo rằng, “Phát hiện đột phá từ Hang Tabun cho thấy hominin đã xử lý các vật liệu khác nhau bằng cách mài mòn từ rất sớm khoảng 350.000 năm trước. Nói cách khác, ở giai đoạn rất sớm, họ đã thêm một kĩ thuật quan trọng vào bộ công cụ của mình cho thấy rằng họ đều sẵn sàng và có thể xử lý vật liệu theo nhiều cách khác nhau để tối đa khả năng khai thác các nguồn tài nguyên tìm thấy xung quanh . "
Hang Tabun, là một phần của các Di tích UNESCO về Tiến hóa Loài người trên núi Carmel, hang động Nahal Me'arot / Wadi el-Mughara, và đây cũng là địa điểm duy nhất do một chuỗi khoảng 100 lớp khảo cổ xếp chồng lên nhau đã lộ ra trong đó, được kiểm chứng các hoạt động của hominin hơn 500.000 năm qua.
Trong vòng 90 năm, địa điểm này đã là trọng tâm cho nghiên cứu sự tiến hóa loài người. Phát hiện mang tính đột phá đã được mở ra như một phần của dự án mới do Shimelmitz đứng đầu, cùng với Weinstein-Evron và các đối tác từ Israel và quốc tế. Dự án khiến các nhà khoa học phải xem xét lại những phát hiện từ các cuộc khai quật trước đó tại địa điểm này như một phần của dự án được hỗ trợ bởi Quỹ Khoa học Israel, Quỹ Gerda Henkel và Quỹ Dan David.
Trong quá trình phân tích các phát hiện trong cuộc khai quật tại hang vào những năm 1960 của Giáo sư Arthur Jelinek thuộc Đại học Arizona mà trước đó chưa được nghiên cứu hoặc công bố, Shimelmitz nhận thấy rằng một trong những hòn đá có vết mài mòn rõ ràng. Những vết này tương tự như các vết được tìm thấy trên các công cụ đá sau này, nhưng chưa từng thấy trên các công cụ có niên đại xa như vậy.
Việc phân tích kĩ lưỡng công cụ này trong các phòng thí nghiệm của Viện Khảo cổ học Zinman đã cung cấp một hồ sơ hệ thống về các vết mòn do sử dụng trên bề mặt hòn đá. Nghiên cứu được thực hiện cùng với Rosenberg, và Groman-Yaroslavski, người đứng đầu Phòng thí nghiệm phân tích vết mòn do sử dụng, tập trung vào việc giám định hiển vi đối với viên cuội này.
Để hiểu và giải thích các dạng được nhìn thấy dưới kính hiển vi, các nhà nghiên cứu đã tiến hành một loạt thí nghiệm mài mòn có kiểm soát bằng cách sử dụng các viên cuội dolomit tự nhiên được thu thập trên núi Carmel có đặc điểm tương tự như viên cuội được tìm thấy trong hang Tabun. Trong quá trình thí nghiệm, các vật liệu khác nhau bị mài mòn trong các khoảng thời gian khác nhau bằng cách sử dụng các viên cuội này, chúng ngay lập tức được kiểm tra bằng kính hiển vi để xác định các dạng mài mòn được tạo ra trong các thí nghiệm. “Mặc dù kết quả không cho thấy mối tương quan đầy đủ giữa các kiểu mài mòn nhìn thấy trên viên cuôi độc nhất này và những gì ghi lại trong các thí nghiệm , chúng tôi nhận thấy mức độ tương đồng cao với các vết mài mòn được tìm thấy sau quá trình mài mòn da động vật. Theo đó, chúng tôi kết luận rằng công cụ đá cổ này được sử dụng để mài mòn các vật liệu mềm, mặc dù chúng tôi vẫn chưa biết chính xác loại vật liệu nào, ”Groman-Yaroslavski giải thích.
Các nhà nghiên cứu cho biết: “Mặc dù công cụ này có vẻ ngoài 'đơn giản', sự xuất hiện của nó vào giai đoạn sớm như vậy và thực tế là nó không song song trong những phát hiện từ giai đoạn sớm của quá trình tiến hóa người, điều này có nghĩa là nó có tầm quan trọng toàn cầu", các nhà nghiên cứu giải thích rằng sự xuất hiện của kĩ thuật mài nhấn mạnh chiều sâu và độ phức tạp của chuỗi đổi mới kĩ nghệ gắn liền với sự tiến hóa con người, chẳng hạn như khi nào và ở đâu hominin bắt đầu mài thức ăn và các vật liệu khác.
“Về bản chất, sự phát triển của kĩ thuật biểu hiện trong các công cụ đá là sự phản ánh trực tiếp các kiểu thay đổi trong khả năng thích nghi với môi trường của các hominin cổ, ”Shimelmitz giải thích, lưu ý rằng khoảng thời gian 400.000 - 200.000 năm trước đã chứng kiến một số đổi mới kĩ thuật quan trọng nhất và những thay đổi đáng kể trong hành vi của con người. “Ví dụ, việc sử dụng lửa trở thành một phần thói quen hàng ngày, cũng như việc sử dụng các trại căn cứ mà từ đó các hominin ra ngoài cho các hoạt động khác nhau. Do đó, kĩ thuật mài không xuất hiện riêng lẻ, mà là một phần của mạng lưới các thay đổi rộng lớn hơn, ở mức độ nào đó có thể đoán trước được hành vi phức tạp hơn mà chúng ta quen thuộc với các hominin sau này như người Neanderthal và Homo sapiens”.
Bằng chứng tiếp theo về việc sử dụng kĩ thuật mài chỉ xuất hiện sau khoảng 150.000 năm, khiến các nhà nghiên cứu suy đoán liệu khả năng này đã bị mất trong gần 200.000 năm và sau đó được tìm lại. Đây sẽ là một trong những câu hỏi mà các nhà khảo cổ sẽ tập trung giải quyết khi họ tiếp tục nghiên cứu về loại đá này.
Tài liệu tham khảo:
https://www.jpost.com/archaeology/worlds-first-food-processor-from-350000-years-ago-found-near-haifa-655428
Người dịch: Minh Trần

Công cụ mài cổ nhất được tìm thấy khoảng 350.000 năm được phát hiện ở hang Tabun trên nui Carmel (chụp bởi: COURTESY DR. IRIS GROMAN-YAROSLAVSKI)
Các nhà nghiên cứu đã xác định công cụ mài cổ nhất khoảng 350.000 năm, phát hiện trong hang Tabun trên núi Carmel ở miền bắc Israel, gần Haifa, và được cho rằng để sử dụng chế biến thực phẩm.
Một nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí Tiến hóa Loài Người của tiến sĩ Ron Shimelmitz, tiến sĩ Iris Groman-Yaroslavski, giáo sư Mina Weinstein-Evron và giáo sư Danny Rosenberg thuộc Viện Khảo cổ học Zinman tại Đại học Haifa đã xác định được công cụ cổ nhất được sử dụng để mài mòn các vật liệu khác nhau khoảng 350.000 năm trước, trước khi người Homo sapiens xuất hiện.
Công cụ này là một viên cuội dolomit tròn chứa các vết mài mòn vi thể, được tìm thấy trong hang Tabun trên núi Carmel, một trong những di chỉ thời tiền sử quan trọng ở Israel và trên thế giới. Công cụ này có trước khoảng 150.000 năm tất cả các công cụ khác được tìm thấy cho đến nay có dấu hiệu mài mòn.
“Mặc dù chúng tôi không thể liên kết chắc chắn công cụ trên với quá trình chế biến thức ăn, nhưng rất có thể nó được sử dụng cho mục đích này. Dù thế nào đi nữa, đối với các nhà nghiên cứu khảo cổ học ẩm thực và các phương pháp chế biến thực phẩm trong các thời kỳ khác nhau - từ thời tiền sử đến thời hiện đại - viên cuội nhỏ này ở Tabun có tầm quan trọng to lớn. Nó cho phép chúng tôi khám phá nguồn gốc sớm nhất của hoạt động mài và xem khả năng nhận thức và vận động phát triển như thế nào trong quá trình tiến hóa của con người cuối cùng đã dẫn đến những hiện tượng tiếp tục trở thành quan trọng trong văn hóa nhân văn hiện đại. Những quá trình này bắt đầu từ sự mài mòn và trong sự phát triển của kỹ thuật chế biến thực phẩm, mở rộng sang các lĩnh vực như chuyển đổi sang các khu định cư lâu dài, nông nghiệp, chăn nuôi, gia tăng tính phức tạp về kinh tế và xã hội, ”theo Rosenberg, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Công cụ đá và công nghệ chế biến thực phẩm cổ.
Các nhà nghiên cứu kết luận trong bài báo rằng, “Phát hiện đột phá từ Hang Tabun cho thấy hominin đã xử lý các vật liệu khác nhau bằng cách mài mòn từ rất sớm khoảng 350.000 năm trước. Nói cách khác, ở giai đoạn rất sớm, họ đã thêm một kĩ thuật quan trọng vào bộ công cụ của mình cho thấy rằng họ đều sẵn sàng và có thể xử lý vật liệu theo nhiều cách khác nhau để tối đa khả năng khai thác các nguồn tài nguyên tìm thấy xung quanh . "
Hang Tabun, là một phần của các Di tích UNESCO về Tiến hóa Loài người trên núi Carmel, hang động Nahal Me'arot / Wadi el-Mughara, và đây cũng là địa điểm duy nhất do một chuỗi khoảng 100 lớp khảo cổ xếp chồng lên nhau đã lộ ra trong đó, được kiểm chứng các hoạt động của hominin hơn 500.000 năm qua.
Trong vòng 90 năm, địa điểm này đã là trọng tâm cho nghiên cứu sự tiến hóa loài người. Phát hiện mang tính đột phá đã được mở ra như một phần của dự án mới do Shimelmitz đứng đầu, cùng với Weinstein-Evron và các đối tác từ Israel và quốc tế. Dự án khiến các nhà khoa học phải xem xét lại những phát hiện từ các cuộc khai quật trước đó tại địa điểm này như một phần của dự án được hỗ trợ bởi Quỹ Khoa học Israel, Quỹ Gerda Henkel và Quỹ Dan David.
Trong quá trình phân tích các phát hiện trong cuộc khai quật tại hang vào những năm 1960 của Giáo sư Arthur Jelinek thuộc Đại học Arizona mà trước đó chưa được nghiên cứu hoặc công bố, Shimelmitz nhận thấy rằng một trong những hòn đá có vết mài mòn rõ ràng. Những vết này tương tự như các vết được tìm thấy trên các công cụ đá sau này, nhưng chưa từng thấy trên các công cụ có niên đại xa như vậy.
Việc phân tích kĩ lưỡng công cụ này trong các phòng thí nghiệm của Viện Khảo cổ học Zinman đã cung cấp một hồ sơ hệ thống về các vết mòn do sử dụng trên bề mặt hòn đá. Nghiên cứu được thực hiện cùng với Rosenberg, và Groman-Yaroslavski, người đứng đầu Phòng thí nghiệm phân tích vết mòn do sử dụng, tập trung vào việc giám định hiển vi đối với viên cuội này.
Để hiểu và giải thích các dạng được nhìn thấy dưới kính hiển vi, các nhà nghiên cứu đã tiến hành một loạt thí nghiệm mài mòn có kiểm soát bằng cách sử dụng các viên cuội dolomit tự nhiên được thu thập trên núi Carmel có đặc điểm tương tự như viên cuội được tìm thấy trong hang Tabun. Trong quá trình thí nghiệm, các vật liệu khác nhau bị mài mòn trong các khoảng thời gian khác nhau bằng cách sử dụng các viên cuội này, chúng ngay lập tức được kiểm tra bằng kính hiển vi để xác định các dạng mài mòn được tạo ra trong các thí nghiệm. “Mặc dù kết quả không cho thấy mối tương quan đầy đủ giữa các kiểu mài mòn nhìn thấy trên viên cuôi độc nhất này và những gì ghi lại trong các thí nghiệm , chúng tôi nhận thấy mức độ tương đồng cao với các vết mài mòn được tìm thấy sau quá trình mài mòn da động vật. Theo đó, chúng tôi kết luận rằng công cụ đá cổ này được sử dụng để mài mòn các vật liệu mềm, mặc dù chúng tôi vẫn chưa biết chính xác loại vật liệu nào, ”Groman-Yaroslavski giải thích.
Các nhà nghiên cứu cho biết: “Mặc dù công cụ này có vẻ ngoài 'đơn giản', sự xuất hiện của nó vào giai đoạn sớm như vậy và thực tế là nó không song song trong những phát hiện từ giai đoạn sớm của quá trình tiến hóa người, điều này có nghĩa là nó có tầm quan trọng toàn cầu", các nhà nghiên cứu giải thích rằng sự xuất hiện của kĩ thuật mài nhấn mạnh chiều sâu và độ phức tạp của chuỗi đổi mới kĩ nghệ gắn liền với sự tiến hóa con người, chẳng hạn như khi nào và ở đâu hominin bắt đầu mài thức ăn và các vật liệu khác.
“Về bản chất, sự phát triển của kĩ thuật biểu hiện trong các công cụ đá là sự phản ánh trực tiếp các kiểu thay đổi trong khả năng thích nghi với môi trường của các hominin cổ, ”Shimelmitz giải thích, lưu ý rằng khoảng thời gian 400.000 - 200.000 năm trước đã chứng kiến một số đổi mới kĩ thuật quan trọng nhất và những thay đổi đáng kể trong hành vi của con người. “Ví dụ, việc sử dụng lửa trở thành một phần thói quen hàng ngày, cũng như việc sử dụng các trại căn cứ mà từ đó các hominin ra ngoài cho các hoạt động khác nhau. Do đó, kĩ thuật mài không xuất hiện riêng lẻ, mà là một phần của mạng lưới các thay đổi rộng lớn hơn, ở mức độ nào đó có thể đoán trước được hành vi phức tạp hơn mà chúng ta quen thuộc với các hominin sau này như người Neanderthal và Homo sapiens”.
Bằng chứng tiếp theo về việc sử dụng kĩ thuật mài chỉ xuất hiện sau khoảng 150.000 năm, khiến các nhà nghiên cứu suy đoán liệu khả năng này đã bị mất trong gần 200.000 năm và sau đó được tìm lại. Đây sẽ là một trong những câu hỏi mà các nhà khảo cổ sẽ tập trung giải quyết khi họ tiếp tục nghiên cứu về loại đá này.
Tài liệu tham khảo:
https://www.jpost.com/archaeology/worlds-first-food-processor-from-350000-years-ago-found-near-haifa-655428
Người dịch: Minh Trần
Bức tượng Adiđà chùa Phật tích hiện nay đã được phục chế , gắn ghép lại từ nhiều mảnh vỡ. Theo nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu mỹ thuật thì dáng tượng chưa chính xác, phần đế tượng còn thiếu một bệ tròn hình sư tử. Với mong muốn tìm lại vẻ đẹp ban đầu, hình dáng chuẩn xác của bảo vật quốc gia này, nhóm thực hiện VR3D thử tái tạo lại phần bệ sư tử bị thiếu trong không gian ảo.
Chi tiết bệ sư tử này được VR3D chỉnh sửa từ dữ liệu của một bảo vật quốc gia thời Lý khác ở chùa Ngô Xá, Nam Định.


Bức tượng Adiđà bằng đá xanh trong chùa Phật tích là một bảo vật may mắn đã vượt qua được những biến động thăng trầm của một ngàn năm lịch sử, vẫn còn đó dưới mái chùa trên núi Lạn kha "giữ hồn dân tộc".
Trang
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9902182
Số người đang online: 14