Nguồn:  CC0 Public Domain

Một nghiên cứu khảo cổ học quốc tế, đứng đầu bởi các nhà nghiên cứu từ nhóm nghiên cứu phát triển Xã hội-Sinh thái và Văn hoá (CaSEs) tại Đại học Pompeu Fabra, đã nâng cao sự hiểu biết và bảo tồn các địa điểm khảo cổ cũng như cải thiện khả năng phân tích và khảo sát của chúng, nhờ ứng dụng pXRF (phân tích huỳnh quang tia X di động) đối với trầm tích do con người tạo ra ở Châu Phi. Đây là một qui trình nhanh chóng, mang tính kinh tế, không xâm lấn, cho phép tạo thêm hồ sơ khảo cổ từ các trầm tích bằng cách phân tích các nguyên tố hóa học, kết hợp với thống kê địa lý.

Quy trình này đã được thử nghiệm thành công tại địa điểm Seoke có tường bao quanh bằng đá  ở Botswana, miền nam châu Phi,  niên đại từ thế kỷ thứ 18 sau Công nguyên.  Đây là kết quả nghiên cứu của Stefano Biagetti, một thành viên của nhóm nghiên cứu CaSEs, được công bố gần đây trên tạp chí tạp chí PLOS ONE, nghiên cứu này được đồng tài trợ bởi Quĩ Palarq cùng có sự tham gia của các thành viên CaSEs: Jonas Alcaina-Mateos, Abel Ruiz-Giralt, Carla Lancelotti và Shira Gur-Arie (hiện đang làm việc tại Đại học Munich, Đức), Patricia Groenewald (Đại học Cape Town, Nam Phi), Jordi Ibáñez -Insa (Geosciences Barcelona, GEO3BCN-CSIC), Fred Morton (Đại học Botswana) và Stefania Merlo (Đại học Cambridge, Vương quốc Anh).

Các địa điểm có tường bao bằng đá là các khu định cư thuộc thời đại đồ Sắt phía nam châu Phi, xuất hiện vào khoảng năm 1200 sau Công nguyên, có kích thước và hình dạng khác nhau đáng kể. Tên của chúng phản ánh cấu trúc tường đá khô đặc trưng cho chúng, và các địa điểm này đã bị chiếm đóng bởi các cộng đồng chăn nuôi và trồng trọt nói tiếng Bantu: họ trồng trọt, săn bắn và tôn thờ gia súc như một nguồn của cải kinh tế và chính trị.
"Quy trình của chúng tôi vượt ra ngoài bằng chứng khảo cổ có thể nhìn thấy, vì nó cung cấp thông tin về việc sử dụng không gian và xác nhận hoặc làm rõ các chức năng có thể có của các khu vực được phân tích."

Mặc dù có truyền thống nghiên cứu lâu đời về việc sử dụng không gian trong các khu định cư này, chủ yếu dựa trên bằng chứng dân tộc học và khai quật các khu vực nhỏ ở một số địa điểm, cho đến nay, việc thực hiện phân tích này khó  để sử dụng các phương pháp truyền thống, vượt ra ngoài đánh giá chung về kiến trúc quy mô lớn: những địa điểm này đã bị chiếm đóng trong thời gian ngắn (một hoặc hai thế hệ), chúng được đặc trưng bởi độ dày khan hiếm của trầm tích khảo cổ, nơi có rất ít hiện vật được tìm thấy, và chúng bao gồm một số lượng lớn các cấu trúc đá có hình thái tương tự, điều này làm phức tạp việc xác định các mục đích sử dụng khác nhau của chúng.
Stefano Biagetti giải thích, nghiên cứu mà chúng tôi thực hiện cũng đã tiết lộ sự tồn tại của các đặc điểm khảo cổ không thể xác định được bằng mắt thường trong công tác thực địa truyền thống.  Phân tích pXRF cung cấp các kết quả nhanh (dưới 4 phút trên một mẫu), có thể phân tích các diện tích tương đối lớn trong thời gian ngắn, và phòng thí nghiệm thực địa có thể dễ dàng thiết lập, tránh phải vận chuyển một lượng lớn trầm tích.

Một cách tiếp cận mới để hiểu cách sử dụng biểu tượng và chức năng của địa điểm
Các khu cư trú của con người có thể để lại bằng chứng dưới dạng các nguyên tố hóa học trong trầm tích ở di chỉ, cho phép xác định nhiều hoạt động của con người (ví dụ, các khu vực trong nhà, để chuẩn bị và tiêu thụ thực phẩm, mộ táng, sản xuất thủ công mỹ nghệ, lưu trữ, chăn nuôi, v.v.). Các tác giả cho biết: "Các chất đánh dấu hóa học cung cấp một cách tiếp cận vô giá để xác định các hoạt động trong quá khứ và gần đây của một địa điểm, để hiểu các động lực không gian của các hoạt động này và giải thích các cấu trúc kiến trúc liên quan đến chức năng và mục đích sử dụng của chúng".

Tiềm năng của phương pháp mới này nằm ở chỗ, dấu vết của các nguyên tố hóa học đại diện cho việc sử dụng lặp đi lặp lại trong một số khu vực nhất định. Nhóm nghiên cứu khẳng định : “Trọng tâm chuyển từ giá trị tuyệt đối của các nguyên tố hóa học sang sự có mặt  và sự kết hợp của chúng và đặc biệt là bất kỳ dị thường nào được tạo ra bởi độ lệch của chúng so với giá trị trung bình của các mẫu.

Sau khi phân tích địa điểm Seoke bằng cách sử dụng thiết bị pXRF (phân tích huỳnh quang tia X di động) và kỹ thuật thống kê địa lý được gọi là "Kriging", các nhà nghiên cứu đã phát hiện, ví dụ, phốt pho, cho thấy sự hiện diện của vật nuôi; nồng độ của vật liệu hữu cơ, đề cập đến sự hiện diện của phân bón; kim loại như crom, sắt và Zr (zirconium), phù hợp với giả thuyết về một khu vực được sử dụng làm xưởng hoặc để lưu trữ, nơi các công cụ kim loại có thể đã được sử dụng để tạo hình đồ gốm, khai quang, cắt gỗ, v.v.; và silic, chỉ ra một khu vực có thể để chế biến và lưu trữ ngũ cốc.

Một quy trình sáng tạo chỉ ra việc sử dụng nó trong nghiên cứu trong tương lai
Các tác giả nhấn mạnh rằng quy trình tiên phong trong việc sử dụng các kỹ thuật không xâm lấn này có thể cho phép những khả năng chưa từng có trong việc tìm hiểu các địa điểm khảo cổ châu Phi, mà không làm ảnh hưởng đến di sản văn hóa thông qua các cuộc khai quật mới. Nhóm nghiên cứu khẳng định: "Thành tựu hứa hẹn nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là pXRF hoạt động tốt trong trầm tích của các địa điểm có tường bao bằng đá”.

Người dịch:   Minh Trần
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2021-05-non-invasive-procedure-archaeological-excavating.html
 
 
 
Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 56 của ngành Khảo cổ học Việt Nam do Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, như thường lệ sẽ diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2021.
Ban tổ chức Hội nghị kính mời các tổ chức, cá nhân làm công tác Khảo cổ học và các ngành có liên quan gửi bài viết tham dự hội nghị (Chi tiết xin xem file đính kèm).
Nội dung bài viết: Những phát hiện, nghiên cứu mới về khảo cổ học từ tháng 9/2020 đến nay.
Hình thức: Mỗi bài viết tối đa 03 trang đánh máy khổ A4 và không quá 03 tên tác giả; phông chữ thống nhất Unicode - Time New Roman cỡ chữ 13. Ban tổ chức không chấp nhận các bản text định dạng Pdf.
Địa chỉ nhận bài: Viện Khảo cổ học, số 61 - Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: hoinghitbkch@gmail.com
Thời hạn nhận bài: đến hết ngày 5/9/2021.
Chúng tôi hy vọng với sự quan tâm và hợp tác của quý cơ quan và quý vị, Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 56 sẽ thành công tốt đẹp.
Viện Khảo cổ học xin trân trọng thông báo!
TM. Ban Tổ chức Hội nghị
Q.ViệnTrưởng
Nguyễn Gia Đối đã ký.

 
- Tác giả: Nguyễn Văn Kim, Phạm Hồng Tung
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 623 tr
Từ xa xưa, khu vực Đông Nam Á đã là cầu nối giữa hai đại dương Thái Bình dương và Ấn Độ dương, nối dài thế giới Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương với Biển Đông, tạo nên “con đường tơ lụa” trên biển, con đường mậu dịch từ cổ đại Roma qua Ấn Độ đến Trung Quốc. Tuy nhiên, phải đến cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, người ta mới xem xét Đông Nam Á như một thực thể địa - chính trị, văn hóa, lịch sử.
Cuốn sách này có mục đích giới thiệu đại cương lịch sử Đông Nam Á từ nguyên thủy đến ngày nay như tên gọi của nó. Trong đó, các sự kiện lịch sử chủ yếu của các quốc gia, các vùng được giới thiệu “cắt lát” theo thời gian (khoảng vài thế kỷ ở các thời kỳ xa xưa và vài thập niên gần đây) để thấy mối liên hệ ngang, đồng đại và phác họa ra những nét chung, những nội dung đánh dấu mốc lịch sử nổi bật của các quốc gia trong thời gian đó, cùng những mối liên quan tương đồng, thậm chí tương tác, tạo nên lịch sử vùng, lịch sử khu vực.
Nội dung cuốn sách gồm ba phần chính:
Phần thứ nhất: Đông Nam Á từ tiền sử đến trước chủ nghĩa thực dân
Phần thứ hai: Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến năm 1945: Giao thương, thực dân hóa và phi thực dân hóa
Phần thứ ba: Đông Nam Á từ năm 1945 đến nay: Độc lập dân tộc, liên kết khu vực và phát triển.
 Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
- Tác giả: Nguyễn Văn Kim, Phạm Hồng Tung
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 623 tr
Cuôn sách Lịch sử và văn hóa tiếp cận đa chiều, liên ngành được xây dựng trên cơ sở của 25  chuyên luận mà các tác giả đã hoàn thành và công bố trong khoảng 10 năm gần đây.
Nội dung cuốn sách gồm 3 phần:
Phần 1: Nhìn ra thế giới. Phần này gồm các chủ đề: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á; Văn minh và đế chế - Nhìn lại con đường phát triển của các quốc gia Đông Á; Về cơ chế hai chính quyền cùng song song tồn tại trong lịch sử Việt Nam và Nhật Bản; Đông Á trước những biến chuyển của thế giới và nguy cơ xâm thực của chủ nghĩa tư bản phương Tây; Nhật Bản mở cửa - phân tích nội dung các bản “Hiệp ước bất bình đẳng” do Mạc phủ Edo ký với phương Tây; Nhật Bản - ba lần mở cửa, ba sự lựa chọn; Nhật Bản trong thế giới Đông Á: mấy suy nghĩ về đặc tính và con đường phát triển; Vấn đề dân tộc và phương thức hình dung về cộng đồng dân tộc trong những chuyển biến của thế giới.
Phần 2. Khám phá lịch sử Việt Nam gồm: Vấn đề “ngụy triều” và việc nghiên cứu, đánh giá, trình bày về thể chế quốc gia Việt Nam trong lịch sử dân tộc; Vấn đề dân tộc trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam; Biển Đông - vấn đề an ninh và hợp tác khu vực...
Phần 3: Văn hóa Việt Nam - hội nhập và tiếp biến. Gồm các chủ đề: Cộng đồng và ý thức cộng đồng - khái niệm, cách tiếp cận; Thử bàn về văn hóa cộng đồng; Nguồn lực tri thức - các mối liên hệ và sự phát triển kinh tế - xã hội; Chính sách văn hóa của nhà Minh với Đại Việt...
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Lâm Mỹ Dung, Đặng Hồng Sơn
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 757 tr
Cuốn sách là ấn phẩm của hội thảo khoa học Khảo cổ học Biển đảo Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng do Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Nội dung tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực theo 03 chủ đề lớn:
- Phần 1: Quá trình chiếm lĩnh và khai thác các vùng biển đảo Việt Nam
- Phần 2: Kết quả nghiên cứu khảo cổ học biển đảo Việt Nam
- Phần 3: Ứng dụng một số lý thuyết và phương pháp trong nghiên cứu và khai thác di sản khảo cổ học biển đảo Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

                                  

Hóa thạch oviratorosaur được phục dựng gần đây được tìm thấy ở nam Trung Quốc bị mất hộp sọ và một phần đốt sống, nhưng đáng chú ý là ổ 24 quả trứng hình bầu dục được bảo quản tốt.   (Nguồn:  Shundong Bi)
 
 
CNN đưa tin: Trong các trầm tích 70 triệu năm tuổi ở tỉnh Giang Tây, miền nam Trung Quốc, các nhà nghiên cứu đã khai quật được hóa thạch loài khủng long oviraptorosaur đang ấp 24 quả trứng. 7 trong số những quả trứng này đang trong giai đoạn nở, khiến đây là hóa thạch duy nhất được ghi nhận có bằng chứng về việc  khủng long đang ấp những quả trứng vẫn còn phôi bên trong và là bằng chứng thuyết phục đầu tiên cho thấy loài khủng long này đã ấp con non, theo tin trên Live Science. Nghiên cứu này đã được công bố vào tháng 3 /2021 trên Science Bulletin.
Đồng tác giả của bài báo - Shundong Bi, một nhà cổ sinh  Đại học Ấn Độ, Pennsylvania cho biết: “
"Khủng long bảo vệ tổ của chúng là rất hiếm và phôi hóa thạch cũng vậy. Đây là lần đầu tiên một loài khủng long không thuộc lớp chim được tìm thấy, ấp  trứng để bảo quản các phôi” .
Live Science đưa tin: Oviraptorosaurs - một loài khủng long đi bằng các chân sau, và  có chân trước ngắn, đồng thời có lông vũ với hộp sọ ngắn giống con vẹt nhỏ. Chúng phát triển mạnh trong kỷ Phấn trắng từ 65,5 triệu đến 145,5 triệu năm trước. Nhiều di cốt hóa thạch của chúng được bảo tồn, tìm thấy ở khu vực Cám Châu (Ganzhou), miền nam Trung Quốc. Hóa thạch khủng long oviratorosaur   được phục hồi gần đây được tìm thấy dọc nhà ga Cám Châu bị mất hộp sọ và một phần đốt sống, nhưng cẳng tay, chân sau và một phần đuôi của nó vẫn được bảo tồn. Live Science đưa tin: Đáng nói hơn nữa, ổ trứng gồm 24 quả trứng hình bầu dục bên dưới con khủng long trưởng thành cũng được bảo quản rất tốt. Mỗi quả trứng có chiều dài 8,5 inch (22cm) và chiều ngang 3 inch (7.6 cm). Trong 7 quả trứng, các nhà nghiên cứu tìm thấy xương và phôi của khủng long con ở vị trí cuộn tròn, theo báo Science Alert.
 
 
 

                                            
Oviraptorosaurs - một loài khủng long đi bằng các chân sau, và  có chân trước ngắn, đồng thời có lông vũ với hộp sọ ngắn giống con vẹt nhỏ. Nhiều di cốt hóa thạch của chúng được bảo tồn, tìm thấy ở khu vực Cám Châu (Ganzhou), miền nam Trung Quốc. Nguồn: (Zhao Chuang).
 
Khủng long bố mẹ được tìm thấy đang ngồi phía trên những quả trứng với cẳng tay che tổ. Theo Live Science, một hành vi mà các nhà nghiên cứu nghi ngờ cho thấy con khủng long này đã ấp trứng trong một thời gian dài, một phần là do những quả trứng được bảo quản gần như đã sẵn sàng để nở.
Đồng tác giả nghiên cứu và là nhà cổ sinh học Matt Lamanna cho biết. “Trong mẫu  mới này, các con non gần như đã sẵn sàng nở, điều này cho chúng ta biết ngoài nghi ngờ  loài  Oviraptorosaurs này đã chăm sóc tổ của nó trong một thời gian dài,” "Con khủng long này là một bậc cha mẹ chăm sóc, cuối cùng đã cho nó sự sống trong khi nuôi dưỡng con non."
Live Science đưa tin: Để xác nhận những con khủng long oviraptorosaurs trưởng thành đang ấp trứng, các nhà nghiên cứu đã phân tích đồng vị oxy bên trong phôi khủng long và vỏ trứng hóa thạch.  Science Alert đưa tin: Các nhà nghiên cứu phát hiện ra các phôi được ấp ở nhiệt độ từ 86 đến 100 độ F (tương đương với từ 30 -38 độ C) phù hợp với nhiệt độ cơ thể của khủng long bố mẹ.  Thêm một lớp bằng chứng cho thấy oviraptorid có thể ngồi trên tổ để giữ ấm cho trứng theo tin trên  Live Science.
CNN đưa tin: Phát hiện hóa thạch trên cũng chứa các loại đá, hoặc sỏi trong vùng bụng của khủng long oviraptorosaurs trưởng thành, tiết lộ cho các nhà nghiên cứu rằng những con khủng long này có thể đã ăn đá để nghiền và tiêu hóa thức ăn. Khám phá này cũng là lần đầu tiên quan sát thấy sỏi trong dạ dày của một hóa thạch khủng long oviraptorosaurs.
Xing Xu, nhà cổ sinh vật học tại Học viện Khoa học Trung Quốc, cho biết: "Thật thú vị khi có bao nhiêu thông tin sinh học được thu thập chỉ trong một hóa thạch duy nhất này. Chúng ta sẽ học hỏi từ mẫu vật này trong nhiều năm tới".

Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:  https://www.smithsonianmag.com/smart-news/unearthed-dinosaur-fossil-found-incubating-nest-eggs-180977264/
 
 
                                                                          Hình người từ hang Hermoso Tuliao.  Nguồn: Mark D. Willis

Một nhóm nghiên cứu đứng đầu bởi Đại học Griffith đã định niên đại carbon cho bức hoạ trong hang giống hình người, lần đầu tiên ở Philippines, có khả năng làm rõ chuỗi thời gian hoạt động của người sớm trong khu vực.
Được phát hiện tại một trong các hang động Peñablanca, khu vực tìm thấy các di cốt người cổ nhất ở Philippines, hình vẽ này có niên đại trực tiếp khoảng 3500 năm tuổi.
Tác giả chính, Tiến sĩ Andrea Jalandoni từ  Khoa Di sản Nghệ thuật hang động, Tiến hóa và Cư trú của Đại học Griffith cho biết niên đại này cung cấp một cái nhìn tổng thể hơn về  cư dân sinh sống trong các hang động vào thời điểm đó.
"Niên đại tương ứng với hoạt động khảo cổ được tìm thấy tại các địa điểm khác như hoạt động chăn nuôi ở các hang Eme và Arku và đồ gốm ở hang Callao.
"Giờ đây, chúng tôi có một bức tranh toàn cảnh về những người sinh sống trong hang động Peñablanca hơn 3.500 năm trước, họ kiếm thức ăn, sử dụng đồ gốm và tạo ra tác phẩm nghệ thuật trên đá."
Tiến sĩ Jalandoni cho biết: việc xác định niên đại của các bức hoạ trên đá than tương tự ở vùng Peñablanca có thể giúp giải quyết các câu hỏi còn tồn tại về sự di cư của con người.
Nó được tạo ra bởi những người Austronesia đầu tiên, những người đến khoảng 4000 năm trước và là quần thể người phổ biến hiện nay ở Philippines hoặc những người Agta Negritos di cư trong Kỷ Băng hà. Cả hai nhóm vẫn sống trong khu vực, vì vậy nghệ thuật trên đá cần phải được xác định niên đại để xác định nguồn gốc của nó. "
Nhóm nghiên cứu cũng đã xem xét nghệ thuật hang động hắc tố  trên khắp Đông Nam Á và tìm thấy các dạng tương tự ở Malaysia và Indonesia.
Giáo sư Paul Taçon, Trưởng bộ môn Nghiên cứu Nghệ thuật trên đá của Đại học Griffith cho biết kết quả này rất thú vị vì nó chứng minh một số tác phẩm nghệ thuật trên đá hình người được làm từ than đã được tạo ra từ hàng nghìn năm trước trong quá trình thay đổi văn hóa xã hội khắp khu vực.
"Bây giờ điều quan trọng là phải xác định niên đại của những hình tương tự ở những nơi khác để xem liệu chúng có cùng tuổi hay những loại hình người này được tạo ra trong một khoảng thời gian dài."
Tiến sĩ Jalandoni cho biết thêm:  niên đại mới cũng thách thức quan niệm phỏng đoán trước đây rằng tất cả nghệ thuật đá hắc tố là gần đây.
"Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tầm quan trọng của những địa điểm có nghệ thuật trên đá này và tại sao một kế hoạch bảo tồn là rất cần thiết.
"Những địa điểm nghệ thuật trên đá này đang biến mất nhanh chóng. Nhóm chúng tôi chỉ có thể tìm thấy 94 trong số 250 bức vẽ được tìm từ năm 1976-1977. Một địa điểm nghệ thuật trên đá ở Hunong Spring đã bị mất hoàn toàn và nó đang được quan tâm bởi các nhà nghiên cứu.
Phó phòng Văn Hoá Thung lũng Cagayan, Bảo tàng Văn hóa Quốc gia Philippines - Mylene Lising cho biết nghiên cứu trên góp phần nâng cao nhận thức về các nhóm người sớm ở quần đảo Philippines.
"Đó là một cái nhìn thoáng qua về cách họ tương tác với môi trường và hành vi của họ như thế nào cách đây 3500 năm. Điều này có liên quan trong bối cảnh lớn hơn vì nó thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về chúng ta với tư cách là con người."
 
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2021-05-philippines-cave-art-dated-southeast.html

Guillem Pérez Jordà và Salvador Pardo Gordó -  các nhà nghiên cứu từ Khoa Tiền sử, Khảo cổ học và Lịch sử Cổ đại của Đại học València, đăng một bài báo trên Tạp chí Journal of Archaeological Science Reports  về sự xuất hiện của các loại cây ăn quả ở Bán đảo Iberia thông qua  nghiên cứu các di cốt động thực vật cổ vật. Các nhà khoa học ước tính rằng việc trồng các loài này bắt đầu ở Cộng đồng người Valencia khoảng 3.000 năm trước, trùng với sự phát triển kinh tế và xã hội đáng kể.


                  Nguồn:  Asociacion RUVID
 
Ở những nơi như Fonteta (Guardamar del Segura), Barranc de Beniteixir (Piles), Peña Negra (Crevillent) hoặc L'Alt de Benimaquia (Dénia), vẫn có thể trồng các loại cây ăn quả như nho (Vinis vinifera) , cây ô liu (Olea europaea) hoặc cây lựu (Punica granatum) khoảng 3.000 năm trước. Hình thức nông nghiệp mới này cho phép trao đổi kinh tế và văn hóa của các dân tộc ở bán đảo phía đông với những cư dân khác có nguồn gốc từ phía đông, những người đã thành lập các thuộc địa trên những bờ biển này, chẳng hạn như người Phoenicia.
 
Guillem Pérez  cho biết: "Mặc dù vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên đã có những dấu hiệu về sự trao đổi này giữa Iberia và các dân tộc ở Tây Địa Trung Hải, nhưng phải đến thiên niên kỷ thứ nhất, mô hình nông nghiệp dựa trên cây ăn quả mới thịnh vượng và được hình thành ở Bán đảo Iberia". Bằng chứng đầu tiên của việc trồng cây ăn quả là những vật liệu được phục chế ở Huelva (thế kỉ IX-VIII trước Công nguyên). Tuy nhiên, phải đến thế kỷ VIII-VII trước Công nguyên, những cây trồng này mới được trồng ở bán đảo phía đông.
 
Guillem Pérez, nhà nghiên cứu xuất sắc thuộc Đại học Valencia, giải thích rằng sự xuất hiện của những loại cây trồng mới này ngụ ý sự thay đổi trong mối quan hệ của nông dân với đất đai. Từ trước đến nay họ chỉ trồng những cây có chu kỳ hàng năm và cho năng suất tức thì (ngũ cốc, cây họ đậu, v.v.), nhưng bây giờ họ đầu tư vào những loại cây trồng mất vài năm để đưa vào sản xuất, đòi hỏi phải kiểm soát quyền sở hữu đất đai.
Sự thay đổi trong mô hình nông nghiệp là một phần trong sự chuyển đổi của các cộng đồng này, hướng tới các xã hội phức tạp hơn, kết thúc bằng việc áp dụng mô hình đô thị và lần đầu tiên phát triển một nền nông nghiệp thương mại, trong đó cây ăn quả và các sản phẩm phụ của chúng như rượu vang là những sản phẩm nổi bật nhất.
 
 
Việc áp dụng các loại cây trồng mới này xảy ra với tỷ lệ khác nhau ở các khu vực khác nhau của Bán đảo Iberia và quốc gia Valencia hiện tại là một khu vực mà việc trồng cây ăn quả đã phát triển hơn, với định hướng thương mại rõ ràng, khi xuất khẩu các sản phẩm này sang các khu vực khác của bán đảo.


Người dịch: Minh Trần

Nguồn tham khảo:  

https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/05/fruit-crops-reached-iberian-peninsula.html

 
 
 
 
 
 
 
 
 

Các nhà khảo cổ học thuộc Đại học Northern Arizona (NAU), Mỹ  đang hy vọng một công nghệ mới giúp họ đi tiên phong trong việc thay đổi cách các nhà khoa học nghiên cứu những mảnh vỡ để lại từ các xã hội trước đó.

Nhóm nghiên cứu từ Khoa Nhân chủng học của NAU đã thành công trong việc dạy máy tính thực hiện một nhiệm vụ phức tạp mà nhiều nhà khoa học nghiên cứu các xã hội cổ đã mơ ước từ lâu: phân loại nhanh chóng và nhất quán hàng nghìn hoạ tiết trang trí trên gốm thành các nhóm loại. Bằng cách sử dụng một dạng máy  được gọi là Mạng nơ ron phức hợp (Convolutional Neural Networks: CNN), các nhà khảo cổ học đã tạo ra một phương pháp máy tính mô phỏng gần như các quá trình suy nghĩ của con người trong việc phân tích thông tin trực quan.

 
Leszek Pawlowicz, trợ giảng tại Khoa Nhân chủng học cho biết “Giờ đây, bằng cách sử dụng các ảnh kỹ thuật số về đồ gốm, máy tính có thể hoàn thành công việc đã từng đòi hỏi hàng trăm giờ làm việc tẻ nhạt, mệt mỏi và căng mắt của các nhà khảo cổ học, những người đã phân loại các mảnh gốm vỡ thành từng nhóm, trong một khoảng thời gian ngắn và có tính nhất quán cao ". Ông và giáo sư nhân chủng học Chris Downum đã bắt đầu nghiên cứu tính khả thi của việc sử dụng máy tính để phân loại chính xác các mảnh gốm vỡ”, thành các loại gốm được biết đến vào năm 2016. Kết quả nghiên cứu của họ được đăng trên Tạp chí Khoa học Khảo cổ học/ số tháng 6


                    

Một dải các mảnh gốm trắng Tusayan, cho thấy sự thay đổi về kiểu dáng từ loại sớm nhất ở bên trái sang loại muộn nhất ở bên phải. Học sâu cho phép phân loại chính xác và có thể phân loại lặp lại các loại mảnh vỡ này.
 (Nguồn: Chris Downum).
 

Downum nói :" Rất nhiều trong số hàng nghìn địa điểm khảo cổ rải rác khắp Tây Nam Hoa Kỳ, các nhà khảo cổ học thường sẽ tìm thấy những mảnh gốm vỡ. Nhiều trong số các mảnh này sẽ có kiểu dáng có thể được sắp xếp thành các loại đã được xác định trước có tương quan với cả khoảng thời gian chung mà chúng được sản xuất và địa điểm sản xuất chúng " . "Những điều này cung cấp cho các nhà khảo cổ học thông tin quan trọng về thời gian một địa điểm được chiếm cư, nhóm văn hóa và cả các nhóm văn hoá khác mà chúng đã tương tác."
Nghiên cứu này dựa trên những đột phá gần đây trong việc sử dụng máy  để phân loại hình ảnh theo loại, cụ thể là CNN. CNN hiện đang là trụ cột chính trong nhận dạng hình ảnh máy tính, được sử dụng cho mọi thứ, từ hình ảnh X-quang trong y tế và hình ảnh khớp nối trong công cụ tìm kiếm động cơ cho xe ô tô tự lái. Pawlowicz và Downum lý luận rằng nếu CNN có thể được sử dụng để xác định các giống chó và các sản phẩm mà người tiêu dùng có thể thích, thì tại sao không áp dụng cách tiếp cận này để phân tích đồ gốm cổ?
Cho đến nay, quá trình nhận biết các đặc điểm thiết kế chẩn đoán trên đồ gốm còn nhiều khó khăn và tốn nhiều thời gian. Nó có thể đòi hỏi nhiều tháng hoặc nhiều năm đào tạo để nắm vững và áp dụng chính xác các tiêu chí phân loại cho các mảnh nhỏ của một chiếc nồi bị vỡ. Tệ hơn nữa, quá trình này dễ xảy ra lỗi của con người vì các nhà khảo cổ chuyên nghiệp thường không đồng ý loại nào được đại diện bởi một mảnh và có thể khó giải thích vì sao lại đưa ra quyết định như vậy. Một nhà phản biện ẩn danh của bài báo đã gọi đây là "bí mật trong khảo cổ học mà không ai nói đủ."
 
Quyết tâm tạo ra một quy trình hiệu quả hơn, Pawlowicz và Downum đã thu thập hàng nghìn bức ảnh về các mảnh gốm với một bộ xác định các đặc điểm vật lý cụ thể, được gọi là Gốm trắng Tusayan, phổ biến trên phần lớn phía đông bắc Arizona và các bang lân cận. Sau đó, họ tuyển dụng bốn chuyên gia gốm hàng đầu khu vựcTây Nam để xác định kiểu thiết kế đồ gốm cho mỗi mảnh vỡ và tạo ra một 'bộ các tiêu chí phân loại' các mảnh vỡ để máy có thể học được. Cuối cùng, họ huấn luyện  máy tính học các loại gốm bằng cách tập trung vào các mẫu gốm mà các nhà khảo cổ học đã đồng ý.
Pawlowicz nói : “Kết quả thật đáng chú ý,”. "Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, máy tính đã tự đào tạo để xác định đồ gốm với độ chính xác tương đương, và đôi khi tốt hơn cả các chuyên gia con người."
Đối với bốn nhà khảo cổ học với hàng chục năm kinh nghiệm phân loại hàng chục nghìn mảnh gốm thực tế, chiếc máy này vượt trội hơn hai trong số họ và có thể so sánh với hai chuyên gia còn lại. Ấn tượng hơn nữa, cỗ máy đã có thể làm được điều mà nhiều nhà khảo cổ có thể gặp khó khăn: mô tả lý do tại sao nó lại đưa ra quyết định phân loại như vậy. Sử dụng bản đồ nhiệt được mã hóa bằng màu sắc của mảnh gốm, máy chỉ ra các đặc điểm thiết kế mà nó sử dụng để đưa ra quyết định phân loại, từ đó cung cấp bản ghi trực quan về "suy nghĩ" của nó.
 
Downum cho biết: “Một phần phụ thú vị của quá trình này là khả năng máy tính có thể tìm thấy các điểm phù hợp  gần như chính xác các đoạn, mảnh của các thiết kế đồ gốm được thể hiện trên các mảnh vỡ riêng lẻ. "Bằng cách sử dụng các phép đo độ tương đồng do CNN nhận được cho các thiết kế, chiếc máy này có thể tìm kiếm qua hàng nghìn hình ảnh để tìm ra bản sao tương tự nhất của một thiết kế đồ gốm riêng lẻ."
 
Pawlowicz và Downum tin rằng khả năng này có thể cho phép máy tính tìm thấy các mảnh vỡ rải rác của một chiếc nồi bị vỡ trong vô số các mảnh tương tự ở một bãi rác cổ hoặc tiến hành phân tích toàn khu vực về những điểm tương đồng và khác biệt trong phong cách của nhiều cộng đồng cổ. Cách tiếp cận này có khả năng liên kết tốt hơn các thiết kế đồ gốm cụ thể từ các cấu trúc khai quật đã được xác định niên đại bằng phương pháp vòng cây.
Nghiên cứu của họ đã nhận được nhiều lời khen ngợi.
Stephen Plog, giáo sư danh dự về khảo cổ học tại Đại học Virginia và là tác giả của cuốn sách "Sự thay đổi phong cách trong gốm sứ thời tiền sử" cho biết: "Tôi thực sự hy vọng rằng các nhà khảo cổ học Tây Nam sẽ áp dụng cách tiếp cận này và thực hiện nhanh chóng. "Chúng tôi đã học được rất nhiều điều từ hệ thống cũ, nhưng nó đã kéo dài quá mức độ hữu dụng của nó, và đã đến lúc phải chuyển đổi cách chúng ta phân tích các trang trí gốm sứ."
Các nhà nghiên cứu đang khám phá các ứng dụng thực tế về phân loại của mô hình CNN và đang viết thêm các bài báo trên tạp chí để chia sẻ công nghệ này với các nhà khảo cổ học khác. Họ hy vọng cách tiếp cận mới này về phân tích khảo cổ học đồ gốm có thể được áp dụng cho các loại hiện vật cổ khác, và khảo cổ học có thể bước vào một giai đoạn mới của phân loại bằng máy, mang lại hiệu quả cao hơn cho các nỗ lực khảo cổ học và các phương pháp dạy thiết kế đồ gốm hiệu quả hơn cho các thế hệ sinh viên.

Người dịch:     Minh Trần

Nguồn tham khảo:
https://www.eurekalert.org/pub_releases/2021-05/nau-atc051721.php

 
 

Làm chủ được lửa đã mang lại cho con người quyền thống trị thế giới tự nhiên. Một nghiên cứu do đại học Yale, Mỹ cung cấp bằng chứng sớm nhất cho đến nay về việc người cổ đã dùng lửa làm thay đổi đáng kể toàn bộ hệ sinh thái.


Nghiên cứu trên được công bố ngày 5 /  5 /2021 trên tạp chí Science Advances, kết hợp bằng chứng khảo cổ học - những cụm dày đặc hiện vật đá có niên đại cách đây 92.000 năm cùng với dữ liệu môi trường cổ ở bờ biển phía bắc Hồ Malawi thuộc đông Phi để ghi lại bằng chứng những người sớm là các kĩ sư hệ sinh thái. Họ đã sử dụng lửa để ngăn chặn sự phát triển lại của các khu rừng trong vùng, tạo ra một vùng đất bụi rậm rạp tồn tại cho đến ngày nay.
Jessica Thompson, trợ lý giáo sư nhân chủng học tại Khoa Nghệ thuật và Khoa học, đồng thời là tác giả chính của bài báo cho biết: “Đây là bằng chứng sớm nhất cho thấy việc con người biến đổi cơ bản hệ sinh thái của họ thông qua lửa. “Nó cho thấy rằng trước giai đoạn cuối thời kì Pleistocen muộn, con người đã học cách sử dụng lửa theo những cách thực sự mới lạ. Trong trường hợp này, việc đốt cháy của họ đã gây ra sự thay thế các khu rừng rậm trong vùng bằng các khu rừng thưa mà chúng ta thấy ngày nay ”.
Thompson - tác giả nghiên cứu chính cùng 27 đồng nghiệp đến từ các tổ chức ở Hoa Kỳ, Châu Phi, Châu Âu, Châu Á và Úc. Thompson dẫn đầu dự án khảo cổ học này với sự hợp tác của Sở Bảo tàng và Di tích Malawi; David Wright , Đại học Oslo - người dẫn đầu trong các nỗ lực xác định niên đại các địa điểm khảo cổ của nghiên cứu; và Sarah Ivory ở Penn State, người dẫn đầu các phân tích môi trường cổ.

Các hiện vật thời kỳ đồ Đá được khai quật ven hồ Malawi ở phía đông châu Phi, kết hợp với dữ liệu môi trường cổ từ lòng hồ, cung cấp bằng chứng sớm nhất về việc những người cổ đã sử dụng lửa để tác động  lên hệ sinh thái.
 

Các hiện vật này được các nhà nghiên cứu giám định là các loại được sản xuất trên khắp châu Phi vào thời kỳ Đá giữa có niên đại ít nhất là 315.000 năm. Những người hiện đại sớm nhất xuất hiện trong thời kỳ này, với bằng chứng khảo cổ học châu Phi cho thấy những tiến bộ đáng kể trong nhận thức và tính phức tạp xã hội.
Thompson và Wright đã ghi lại một số mùa thực địa khảo cổ trong khu vực trước khi có cuộc trò chuyện với Ivory giúp họ hiểu được các mẫu mà họ quan sát được trong dữ liệu của mình. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hồ sơ khảo cổ khu vực, những thay đổi sinh thái của nó và sự phát triển của các quạt phù sa gần Hồ Malawi - một sự tích tụ trầm tích bị xói mòn từ cao nguyên của khu vực - có cùng thời kỳ nguồn gốc, cho thấy chúng có mối liên hệ với nhau.
Mực nước của Hồ Malawi đã dao động mạnh qua các thời kỳ. Trong thời kỳ khô hạn nhất của hồ, lần cuối cùng kết thúc khoảng 85.000 năm trước, nó giảm dần thành hai vùng nước mặn nhỏ. Theo nghiên cứu, hồ đã phục hồi sau những dải đất khô cằn này và mực nước của nó vẫn ở mức cao kể từ đó.
Dữ liệu khảo cổ học được thu thập từ hơn 100 hố đào trên hàng trăm km của các quạt phù sa đã phát triển trong thời gian mực nước hồ ổn định này. Dữ liệu môi trường cổ dựa trên số lượng phấn hoa và than tro lắng xuống đáy hồ và sau đó được phục hồi trong lõi trầm tích dài được khoan từ một chiếc thuyền được sửa đồi.
Theo các nhà nghiên cứu, dữ liệu tiết lộ rằng sự gia tăng đột biến trong tích tụ than xảy ra ngay trước khi sự đa dạng các loài của khu vực giữ ở mức ổn định - số lượng các loài khác biệt sinh sống ở đó. Nghiên cứu cho thấy, mặc dù mực nước hồ luôn cao, nghĩa là hệ sinh thái ổn định hơn, nhưng sự phong phú của các loài vẫn không thay đổi sau thời kỳ khô cằn cuối cùng dựa trên thông tin từ phấn hoa hóa thạch lấy mẫu từ đáy hồ. Ivory giải thích:  Điều này thật bất ngờ vì trong các chu kỳ khí hậu trước, môi trường mưa đã tạo ra những khu rừng cung cấp các khu vực sống phong phú cho vô số loài.
Cô cho biết thêm: “Phấn hoa mà chúng ta thấy trong thời kỳ khí hậu ổn định gần đây nhất rất khác so với trước đây,”.   “Cụ thể, những cây biểu thị tán rừng rậm rạp, có cấu trúc phức tạp không còn phổ biến và được thay thế bằng phấn hoa từ những loài thực vật thích nghi với cháy thường xuyên và xáo trộn”.


                                                

                                Các cuộc khai quật phát hiện được  những cụm hiện vật đá dày đặc có niên đại cách đây 92.000 năm.
 

Các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự gia tăng các địa điểm khảo cổ sau thời kỳ khô cằn gần đây nhất, cùng với sự gia tăng đột biến của than củi và sự vắng mặt của rừng, cho thấy rằng con người đang tác động hệ sinh thái bằng lửa. Quy mô tác động đến môi trường của họ về lâu dài thường liên quan đến nông dân và người chăn nuôi, hơn là săn bắn hái lượm. Điều này cho thấy sự tác động sớm vào hệ sinh thái một cách khéo léo tương đương với người hiện đại và cũng có thể giải thích tại sao các ghi nhận khảo cổ được tạo ra.
Các nhà nghiên cứu giải thích, việc đốt cháy kết hợp với những thay đổi do khí hậu đã tạo ra các điều kiện cho phép bảo quản hàng triệu hiện vật trong khu vực. “Bụi bẩn sẽ lăn xuống dốc trừ khi có thứ gì đó ngăn nó lại,” Wright nói. "Chặt  cây cối đi, và khi trời mưa, có rất nhiều cát bụi di chuyển xuống dốc trong môi trường này."



                                            
Đốt cháy kết hợp với những thay đổi do khí hậu đã tạo các điều kiện cho phép bảo quản hàng triệu hiện vật.
 

Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng các quá trình chuyển đổi trước đây từ điều kiện khô sang ẩm ướt trong khu vực không tạo ra một loại quạt phù sa tương tự và không có cùng sự tăng vọt về than tro.
Thompson cho biết: không rõ tại sao mọi người lại đốt cảnh quan. Có thể họ đang thử nghiệm đốt có kiểm soát để tạo ra các môi trường sống đa dạng có lợi cho việc săn bắn và hái lượm, một hành vi được ghi nhận giữa những người săn bắn hái lượm. Cô giải thích, có thể là do ngọn lửa của họ bùng cháy ngoài tầm kiểm soát, hoặc đơn giản là có rất nhiều người đốt nhiên liệu trong môi trường của họ để sưởi ấm, nấu ăn hoặc xã hội hóa.
Cô cho biết:  “Bằng cách này hay cách khác, nó gây ra bởi  hoạt động con người”. “Nó cho thấy những người sớm, trong một thời gian dài, đã kiểm soát môi trường của họ hơn là bị kiểm soát bởi nó. Họ đã thay đổi toàn bộ cảnh quan một cách tốt hơn hay xấu đi đó là mối quan hệ với môi trường của chúng ta vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. "
Công trình này được tài trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu Úc, Quỹ Địa lý Quốc gia Waitt, Quỹ Wenner-Gren, Trường Khảo cổ học Đại học Queensland, Mạng lưới Nghiên cứu Toàn cầu của Quỹ Nghiên cứu Hàn Quốc, Deutsche Forschungsgemeinschaft, Đại học Emory, và Diễn đàn Belmont.


 
Người dịch:  Minh Trần

Nguồn tham khảo:
https://news.yale.edu/2021/05/05/study-offers-earliest-evidence-humans-changing-ecosystems-fire


 
 

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9744906
Số người đang online: 10