- Tác giả: Le’opold Michel Cadière Edmond Gras
- Người dịch: Nguyễn Thanh Hằng

- Nxb: Thế Giới - 2020
-  Khổ sách: 17 x 25 cm
- Số trang: 430 tr
- Hình thức bìa: Bìa cứng
Cuốn sách Nghệ thuật Huế (L’art à Hué) của tác giả Le’opold Cadière (1869-1955) - một nhà Việt Nam học hàng đầu, chủ bút của tập san (Bulletin des Amis du Vieux Hué, Tập san Những người bạn Cố đô Huế), một trong những tạp chí Nghiên cứu Việt Nam hay nhất Đông Dương nửa đầu thế kỷ 20.
Nhắc đến Le’opold Cadière, người đã dành hơn 63 năm cuộc đời mình để nghiên cứu về Việt Nam, chúng ta không khỏi bị choáng ngợp với những công trình khảo cứu của ông trên đủ mọi phương diện như văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, gia tộc, ngôn ngữ, địa lý, khảo cổ học, dân tộc học, nghệ thuật ... Trong đó tác phẩm nổi danh của ông về nghệ thuật dĩ nhiên là Nghệ thuật Huế.
Nguyên thủy L’art à Hué là chuyên khảo số 1 Janv-Mars, năm 1919 của Bulletin des Amis du Vieux Hué về nghệ thuật kinh đô Huế. Song, với hơn 200 phụ bản tranh, ảnh, đồ họa tái hiện chân thực nghệ thuật tạo tác của họa công, của nghệ nhân Huế đương thời, tác phẩm đã vượt quy mô một khảo cứu tạp chí mà trở thành một công trình độc lập có giá trị vượt thời gian. Thực vậy, đây chính là một tuyển tập giàu có và tuyệt đẹp các mô típ, họa tiết của nghệ thuật kinh đô Huế và các tỉnh phụ cận của văn minh Việt Nam xưa. Chỉ riêng với nguồn tư liệu dồi dào, độc sáng, được phân loại và nhận xét rành rẽ thì Nghệ thuật Huế là một trong những số chuyên đề hay nhất của Bulletin des Amis du Vieux Hué
Xuất phát từ tình yêu dành cho đất nước và con người Việt Nam,  Le’opold Cadière đã khởi xướng công trình này. Với độc giả ngày nay, Nghệ thuật Huế có thể được xem là một cuốn art book, một từ điển bằng tranh về nghệ thuật Huế nói riêng và Nghệ thuật Việt Nam xưa nói chung, nơi bạn có thể đắm mình cùng những hoa văn trang trí tưởng đơn sơ nhưng rút cuộc lại thi vị và có nguồn gốc sâu xa, những họa tiết tưởng như mới gặp lần đầu nhưng hóa ra lại gần gặn không ngờ, biến thể của nó ở đâu đó không hề xa nhà bạn. Vì lẽ ấy Nghệ thuật Huế, là một biểu tượng cho sự hòa hợp tốt đẹp giữa tinh thần Pháp và nghệ thuật Việt.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

Các điểm mốc đo hộp sọ - rất quan trọng cho các phép đo chính xác của mô mềm trên khuôn mặt, ví dụ như trong nhiều điểm mốc được đặt trên hộp sọ của tinh tinh. Nguồn: Ryan M. Campbell
 
Một nghiên cứu mới từ Đại học Adelaide và Đại học bang Arizona đã phát hiện ra các phép đo mô mềm chính xác là rất quan trọng khi tái hiện lại cấu trúc khuôn mặt của tổ tiên loài người.
Tác giả chính nghiên cứu sinh,  Ryan M. Campbell từ Đại học Adelaide cho biết:

"Việc tái hiện các thành viên đã tuyệt chủng thuộc họ người, bao gồm cả mô mềm trên khuôn mặt của chúng, ngày càng trở nên phổ biến với nhiều hình ảnh gần đúng về khuôn mặt của chúng được trình bày trong các triển lãm bảo tàng, các ấn phẩm khoa học phổ biến và tại các buổi thuyết trình hội nghị trên toàn thế giới".

"Điều cần thiết là các phép đo độ dày mô mềm trên khuôn mặt chính xác được sử dụng khi tái tạo lại khuôn mặt của các loài thuộc họ người để giảm sự biến đổi thể hiện trong việc tái tạo các cá thể giống nhau".
Các loài thuộc họ người này đã được trưng bày trong các hội trường của một số viện nghiên cứu đáng tin cậy. Chúng chủ yếu được sử dụng để phổ biến thông tin khoa học cho công chúng trong các trưng bày bảo tàng và sinh viên các khóa đại học, điều này sẽ ảnh hưởng đến cách nhân loại được nhìn nhận và định nghĩa chung hơn.

Ông Campbell cho biết: “Cho đến nay, việc tái tạo mô mềm dựa trên các phép đo độ sâu mô trung bình mà không tính đến sự thay đổi độ sâu mô giữa các cá thể”.
Trong nghiên cứu này được công bố trên tạp chí PLOS ONE, các tác giả đã xây dựng bộ dữ liệu độ dày mô mềm trên khuôn mặt cho tinh tinh trưởng thành và một tập hợp các phương trình hồi quy có thể được sử dụng để tái tạo lại các mô mềm cho các loài thuộc họ người cổ đại, chẳng hạn như các mô có niên đại từ 4.0 đến 1,2 triệu năm trước.

                                                                  

Các mô mềm cho các khuôn mặt  họ người gần đúng này đã được dự đoán bằng cách sử dụng các phương trình được phát triển bởi nhóm nghiên cứu. Không có đặc điểm khuôn mặt nào xuất hiện trong họ người cổ đại (C), vì các tác giả thừa nhận các phương trình này không nói gì về chúng. Nguồn: Ryan M. Campbell.

 

Đồng tác giả Gabriel Vinas,Thạc sĩ Mỹ thuật tại Đại học Bang Arizona, người thực hiện tác phẩm điêu khắc trong phòng thí nghiệm, cho biết: “Các mối tương quan đã được tìm thấy và nhiều mô hình hồi quy được sử dụng để tạo ra các phương trình giúp cải thiện ước tính độ dày mô mềm từ phép đo sọ não ở người hiện đại.
"Chúng tôi đã xem xét độ sâu mô của tinh tinh ngày nay để xác định mối tương quan giữa da và xương."

Bài báo thể hiện lần đầu tiên một bộ sưu tập dữ liệu độ sâu mô như vậy được thu thập và đại diện cho tinh tinh một cách có hệ thống.
"Dữ liệu độ dày mô mềm của tinh tinh có sẵn miễn phí cho bất kỳ ai tải xuống trên Figshare.
Ông Campbell cho biết: “Các phương trình, kết quả trực tiếp từ nghiên cứu này, cũng được đưa vào và có thể được thực hiện trong quá trình tái cấu trúc của các học viên trong tương lai.
"Nghiên cứu này là vô giá đối với những nỗ lực trong tương lai nhằm tái tạo các thành viên trong họ Người cổ đại, cũng như các nghiên cứu so sánh trong và ngoài ngành nhân chủng học sinh học và hình thể.
 
 
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo: https://phys.org/news/2021-06-soft-tissue-critical-hominid-reconstruction.html
 
                
                                                  Nguồn:  CC0 Public Domain

Một nghiên cứu khảo cổ học quốc tế, đứng đầu bởi các nhà nghiên cứu từ nhóm nghiên cứu phát triển Xã hội-Sinh thái và Văn hoá (CaSEs) tại Đại học Pompeu Fabra, đã nâng cao sự hiểu biết và bảo tồn các địa điểm khảo cổ cũng như cải thiện khả năng phân tích và khảo sát của chúng, nhờ ứng dụng pXRF (phân tích huỳnh quang tia X di động) đối với trầm tích do con người tạo ra ở Châu Phi. Đây là một qui trình nhanh chóng, mang tính kinh tế, không xâm lấn, cho phép tạo thêm hồ sơ khảo cổ từ các trầm tích bằng cách phân tích các nguyên tố hóa học, kết hợp với thống kê địa lý.

Quy trình này đã được thử nghiệm thành công tại địa điểm Seoke có tường bao quanh bằng đá  ở Botswana, miền nam châu Phi,  niên đại từ thế kỷ thứ 18 sau Công nguyên.  Đây là kết quả nghiên cứu của Stefano Biagetti, một thành viên của nhóm nghiên cứu CaSEs, được công bố gần đây trên tạp chí tạp chí PLOS ONE, nghiên cứu này được đồng tài trợ bởi Quĩ Palarq cùng có sự tham gia của các thành viên CaSEs: Jonas Alcaina-Mateos, Abel Ruiz-Giralt, Carla Lancelotti và Shira Gur-Arie (hiện đang làm việc tại Đại học Munich, Đức), Patricia Groenewald (Đại học Cape Town, Nam Phi), Jordi Ibáñez -Insa (Geosciences Barcelona, GEO3BCN-CSIC), Fred Morton (Đại học Botswana) và Stefania Merlo (Đại học Cambridge, Vương quốc Anh).

Các địa điểm có tường bao bằng đá là các khu định cư thuộc thời đại đồ Sắt phía nam châu Phi, xuất hiện vào khoảng năm 1200 sau Công nguyên, có kích thước và hình dạng khác nhau đáng kể. Tên của chúng phản ánh cấu trúc tường đá khô đặc trưng cho chúng, và các địa điểm này đã bị chiếm đóng bởi các cộng đồng chăn nuôi và trồng trọt nói tiếng Bantu: họ trồng trọt, săn bắn và tôn thờ gia súc như một nguồn của cải kinh tế và chính trị.
"Quy trình của chúng tôi vượt ra ngoài bằng chứng khảo cổ có thể nhìn thấy, vì nó cung cấp thông tin về việc sử dụng không gian và xác nhận hoặc làm rõ các chức năng có thể có của các khu vực được phân tích."

Mặc dù có truyền thống nghiên cứu lâu đời về việc sử dụng không gian trong các khu định cư này, chủ yếu dựa trên bằng chứng dân tộc học và khai quật các khu vực nhỏ ở một số địa điểm, cho đến nay, việc thực hiện phân tích này khó  để sử dụng các phương pháp truyền thống, vượt ra ngoài đánh giá chung về kiến trúc quy mô lớn: những địa điểm này đã bị chiếm đóng trong thời gian ngắn (một hoặc hai thế hệ), chúng được đặc trưng bởi độ dày khan hiếm của trầm tích khảo cổ, nơi có rất ít hiện vật được tìm thấy, và chúng bao gồm một số lượng lớn các cấu trúc đá có hình thái tương tự, điều này làm phức tạp việc xác định các mục đích sử dụng khác nhau của chúng.
Stefano Biagetti giải thích, nghiên cứu mà chúng tôi thực hiện cũng đã tiết lộ sự tồn tại của các đặc điểm khảo cổ không thể xác định được bằng mắt thường trong công tác thực địa truyền thống.  Phân tích pXRF cung cấp các kết quả nhanh (dưới 4 phút trên một mẫu), có thể phân tích các diện tích tương đối lớn trong thời gian ngắn, và phòng thí nghiệm thực địa có thể dễ dàng thiết lập, tránh phải vận chuyển một lượng lớn trầm tích.

Một cách tiếp cận mới để hiểu cách sử dụng biểu tượng và chức năng của địa điểm
Các khu cư trú của con người có thể để lại bằng chứng dưới dạng các nguyên tố hóa học trong trầm tích ở di chỉ, cho phép xác định nhiều hoạt động của con người (ví dụ, các khu vực trong nhà, để chuẩn bị và tiêu thụ thực phẩm, mộ táng, sản xuất thủ công mỹ nghệ, lưu trữ, chăn nuôi, v.v.). Các tác giả cho biết: "Các chất đánh dấu hóa học cung cấp một cách tiếp cận vô giá để xác định các hoạt động trong quá khứ và gần đây của một địa điểm, để hiểu các động lực không gian của các hoạt động này và giải thích các cấu trúc kiến trúc liên quan đến chức năng và mục đích sử dụng của chúng".

Tiềm năng của phương pháp mới này nằm ở chỗ, dấu vết của các nguyên tố hóa học đại diện cho việc sử dụng lặp đi lặp lại trong một số khu vực nhất định. Nhóm nghiên cứu khẳng định : “Trọng tâm chuyển từ giá trị tuyệt đối của các nguyên tố hóa học sang sự có mặt  và sự kết hợp của chúng và đặc biệt là bất kỳ dị thường nào được tạo ra bởi độ lệch của chúng so với giá trị trung bình của các mẫu.

Sau khi phân tích địa điểm Seoke bằng cách sử dụng thiết bị pXRF (phân tích huỳnh quang tia X di động) và kỹ thuật thống kê địa lý được gọi là "Kriging", các nhà nghiên cứu đã phát hiện, ví dụ, phốt pho, cho thấy sự hiện diện của vật nuôi; nồng độ của vật liệu hữu cơ, đề cập đến sự hiện diện của phân bón; kim loại như crom, sắt và Zr (zirconium), phù hợp với giả thuyết về một khu vực được sử dụng làm xưởng hoặc để lưu trữ, nơi các công cụ kim loại có thể đã được sử dụng để tạo hình đồ gốm, khai quang, cắt gỗ, v.v.; và silic, chỉ ra một khu vực có thể để chế biến và lưu trữ ngũ cốc.

Một quy trình sáng tạo chỉ ra việc sử dụng nó trong nghiên cứu trong tương lai
Các tác giả nhấn mạnh rằng quy trình tiên phong trong việc sử dụng các kỹ thuật không xâm lấn này có thể cho phép những khả năng chưa từng có trong việc tìm hiểu các địa điểm khảo cổ châu Phi, mà không làm ảnh hưởng đến di sản văn hóa thông qua các cuộc khai quật mới. Nhóm nghiên cứu khẳng định: "Thành tựu hứa hẹn nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là pXRF hoạt động tốt trong trầm tích của các địa điểm có tường bao bằng đá”.

Người dịch:   Minh Trần
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2021-05-non-invasive-procedure-archaeological-excavating.html
 
 
 
Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 56 của ngành Khảo cổ học Việt Nam do Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, như thường lệ sẽ diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2021.
Ban tổ chức Hội nghị kính mời các tổ chức, cá nhân làm công tác Khảo cổ học và các ngành có liên quan gửi bài viết tham dự hội nghị (Chi tiết xin xem file đính kèm).
Nội dung bài viết: Những phát hiện, nghiên cứu mới về khảo cổ học từ tháng 9/2020 đến nay.
Hình thức: Mỗi bài viết tối đa 03 trang đánh máy khổ A4 và không quá 03 tên tác giả; phông chữ thống nhất Unicode - Time New Roman cỡ chữ 13. Ban tổ chức không chấp nhận các bản text định dạng Pdf.
Địa chỉ nhận bài: Viện Khảo cổ học, số 61 - Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: hoinghitbkch@gmail.com
Thời hạn nhận bài: đến hết ngày 5/9/2021.
Chúng tôi hy vọng với sự quan tâm và hợp tác của quý cơ quan và quý vị, Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 56 sẽ thành công tốt đẹp.
Viện Khảo cổ học xin trân trọng thông báo!
TM. Ban Tổ chức Hội nghị
Q.ViệnTrưởng
Nguyễn Gia Đối đã ký.

 
- Tác giả: Nguyễn Văn Kim, Phạm Hồng Tung
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 623 tr
Từ xa xưa, khu vực Đông Nam Á đã là cầu nối giữa hai đại dương Thái Bình dương và Ấn Độ dương, nối dài thế giới Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương với Biển Đông, tạo nên “con đường tơ lụa” trên biển, con đường mậu dịch từ cổ đại Roma qua Ấn Độ đến Trung Quốc. Tuy nhiên, phải đến cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, người ta mới xem xét Đông Nam Á như một thực thể địa - chính trị, văn hóa, lịch sử.
Cuốn sách này có mục đích giới thiệu đại cương lịch sử Đông Nam Á từ nguyên thủy đến ngày nay như tên gọi của nó. Trong đó, các sự kiện lịch sử chủ yếu của các quốc gia, các vùng được giới thiệu “cắt lát” theo thời gian (khoảng vài thế kỷ ở các thời kỳ xa xưa và vài thập niên gần đây) để thấy mối liên hệ ngang, đồng đại và phác họa ra những nét chung, những nội dung đánh dấu mốc lịch sử nổi bật của các quốc gia trong thời gian đó, cùng những mối liên quan tương đồng, thậm chí tương tác, tạo nên lịch sử vùng, lịch sử khu vực.
Nội dung cuốn sách gồm ba phần chính:
Phần thứ nhất: Đông Nam Á từ tiền sử đến trước chủ nghĩa thực dân
Phần thứ hai: Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến năm 1945: Giao thương, thực dân hóa và phi thực dân hóa
Phần thứ ba: Đông Nam Á từ năm 1945 đến nay: Độc lập dân tộc, liên kết khu vực và phát triển.
 Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
- Tác giả: Nguyễn Văn Kim, Phạm Hồng Tung
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 623 tr
Cuôn sách Lịch sử và văn hóa tiếp cận đa chiều, liên ngành được xây dựng trên cơ sở của 25  chuyên luận mà các tác giả đã hoàn thành và công bố trong khoảng 10 năm gần đây.
Nội dung cuốn sách gồm 3 phần:
Phần 1: Nhìn ra thế giới. Phần này gồm các chủ đề: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á; Văn minh và đế chế - Nhìn lại con đường phát triển của các quốc gia Đông Á; Về cơ chế hai chính quyền cùng song song tồn tại trong lịch sử Việt Nam và Nhật Bản; Đông Á trước những biến chuyển của thế giới và nguy cơ xâm thực của chủ nghĩa tư bản phương Tây; Nhật Bản mở cửa - phân tích nội dung các bản “Hiệp ước bất bình đẳng” do Mạc phủ Edo ký với phương Tây; Nhật Bản - ba lần mở cửa, ba sự lựa chọn; Nhật Bản trong thế giới Đông Á: mấy suy nghĩ về đặc tính và con đường phát triển; Vấn đề dân tộc và phương thức hình dung về cộng đồng dân tộc trong những chuyển biến của thế giới.
Phần 2. Khám phá lịch sử Việt Nam gồm: Vấn đề “ngụy triều” và việc nghiên cứu, đánh giá, trình bày về thể chế quốc gia Việt Nam trong lịch sử dân tộc; Vấn đề dân tộc trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam; Biển Đông - vấn đề an ninh và hợp tác khu vực...
Phần 3: Văn hóa Việt Nam - hội nhập và tiếp biến. Gồm các chủ đề: Cộng đồng và ý thức cộng đồng - khái niệm, cách tiếp cận; Thử bàn về văn hóa cộng đồng; Nguồn lực tri thức - các mối liên hệ và sự phát triển kinh tế - xã hội; Chính sách văn hóa của nhà Minh với Đại Việt...
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Lâm Mỹ Dung, Đặng Hồng Sơn
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 757 tr
Cuốn sách là ấn phẩm của hội thảo khoa học Khảo cổ học Biển đảo Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng do Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Nội dung tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực theo 03 chủ đề lớn:
- Phần 1: Quá trình chiếm lĩnh và khai thác các vùng biển đảo Việt Nam
- Phần 2: Kết quả nghiên cứu khảo cổ học biển đảo Việt Nam
- Phần 3: Ứng dụng một số lý thuyết và phương pháp trong nghiên cứu và khai thác di sản khảo cổ học biển đảo Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

                                  

Hóa thạch oviratorosaur được phục dựng gần đây được tìm thấy ở nam Trung Quốc bị mất hộp sọ và một phần đốt sống, nhưng đáng chú ý là ổ 24 quả trứng hình bầu dục được bảo quản tốt.   (Nguồn:  Shundong Bi)
 
 
CNN đưa tin: Trong các trầm tích 70 triệu năm tuổi ở tỉnh Giang Tây, miền nam Trung Quốc, các nhà nghiên cứu đã khai quật được hóa thạch loài khủng long oviraptorosaur đang ấp 24 quả trứng. 7 trong số những quả trứng này đang trong giai đoạn nở, khiến đây là hóa thạch duy nhất được ghi nhận có bằng chứng về việc  khủng long đang ấp những quả trứng vẫn còn phôi bên trong và là bằng chứng thuyết phục đầu tiên cho thấy loài khủng long này đã ấp con non, theo tin trên Live Science. Nghiên cứu này đã được công bố vào tháng 3 /2021 trên Science Bulletin.
Đồng tác giả của bài báo - Shundong Bi, một nhà cổ sinh  Đại học Ấn Độ, Pennsylvania cho biết: “
"Khủng long bảo vệ tổ của chúng là rất hiếm và phôi hóa thạch cũng vậy. Đây là lần đầu tiên một loài khủng long không thuộc lớp chim được tìm thấy, ấp  trứng để bảo quản các phôi” .
Live Science đưa tin: Oviraptorosaurs - một loài khủng long đi bằng các chân sau, và  có chân trước ngắn, đồng thời có lông vũ với hộp sọ ngắn giống con vẹt nhỏ. Chúng phát triển mạnh trong kỷ Phấn trắng từ 65,5 triệu đến 145,5 triệu năm trước. Nhiều di cốt hóa thạch của chúng được bảo tồn, tìm thấy ở khu vực Cám Châu (Ganzhou), miền nam Trung Quốc. Hóa thạch khủng long oviratorosaur   được phục hồi gần đây được tìm thấy dọc nhà ga Cám Châu bị mất hộp sọ và một phần đốt sống, nhưng cẳng tay, chân sau và một phần đuôi của nó vẫn được bảo tồn. Live Science đưa tin: Đáng nói hơn nữa, ổ trứng gồm 24 quả trứng hình bầu dục bên dưới con khủng long trưởng thành cũng được bảo quản rất tốt. Mỗi quả trứng có chiều dài 8,5 inch (22cm) và chiều ngang 3 inch (7.6 cm). Trong 7 quả trứng, các nhà nghiên cứu tìm thấy xương và phôi của khủng long con ở vị trí cuộn tròn, theo báo Science Alert.
 
 
 

                                            
Oviraptorosaurs - một loài khủng long đi bằng các chân sau, và  có chân trước ngắn, đồng thời có lông vũ với hộp sọ ngắn giống con vẹt nhỏ. Nhiều di cốt hóa thạch của chúng được bảo tồn, tìm thấy ở khu vực Cám Châu (Ganzhou), miền nam Trung Quốc. Nguồn: (Zhao Chuang).
 
Khủng long bố mẹ được tìm thấy đang ngồi phía trên những quả trứng với cẳng tay che tổ. Theo Live Science, một hành vi mà các nhà nghiên cứu nghi ngờ cho thấy con khủng long này đã ấp trứng trong một thời gian dài, một phần là do những quả trứng được bảo quản gần như đã sẵn sàng để nở.
Đồng tác giả nghiên cứu và là nhà cổ sinh học Matt Lamanna cho biết. “Trong mẫu  mới này, các con non gần như đã sẵn sàng nở, điều này cho chúng ta biết ngoài nghi ngờ  loài  Oviraptorosaurs này đã chăm sóc tổ của nó trong một thời gian dài,” "Con khủng long này là một bậc cha mẹ chăm sóc, cuối cùng đã cho nó sự sống trong khi nuôi dưỡng con non."
Live Science đưa tin: Để xác nhận những con khủng long oviraptorosaurs trưởng thành đang ấp trứng, các nhà nghiên cứu đã phân tích đồng vị oxy bên trong phôi khủng long và vỏ trứng hóa thạch.  Science Alert đưa tin: Các nhà nghiên cứu phát hiện ra các phôi được ấp ở nhiệt độ từ 86 đến 100 độ F (tương đương với từ 30 -38 độ C) phù hợp với nhiệt độ cơ thể của khủng long bố mẹ.  Thêm một lớp bằng chứng cho thấy oviraptorid có thể ngồi trên tổ để giữ ấm cho trứng theo tin trên  Live Science.
CNN đưa tin: Phát hiện hóa thạch trên cũng chứa các loại đá, hoặc sỏi trong vùng bụng của khủng long oviraptorosaurs trưởng thành, tiết lộ cho các nhà nghiên cứu rằng những con khủng long này có thể đã ăn đá để nghiền và tiêu hóa thức ăn. Khám phá này cũng là lần đầu tiên quan sát thấy sỏi trong dạ dày của một hóa thạch khủng long oviraptorosaurs.
Xing Xu, nhà cổ sinh vật học tại Học viện Khoa học Trung Quốc, cho biết: "Thật thú vị khi có bao nhiêu thông tin sinh học được thu thập chỉ trong một hóa thạch duy nhất này. Chúng ta sẽ học hỏi từ mẫu vật này trong nhiều năm tới".

Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:  https://www.smithsonianmag.com/smart-news/unearthed-dinosaur-fossil-found-incubating-nest-eggs-180977264/
 
 
                                                                          Hình người từ hang Hermoso Tuliao.  Nguồn: Mark D. Willis

Một nhóm nghiên cứu đứng đầu bởi Đại học Griffith đã định niên đại carbon cho bức hoạ trong hang giống hình người, lần đầu tiên ở Philippines, có khả năng làm rõ chuỗi thời gian hoạt động của người sớm trong khu vực.
Được phát hiện tại một trong các hang động Peñablanca, khu vực tìm thấy các di cốt người cổ nhất ở Philippines, hình vẽ này có niên đại trực tiếp khoảng 3500 năm tuổi.
Tác giả chính, Tiến sĩ Andrea Jalandoni từ  Khoa Di sản Nghệ thuật hang động, Tiến hóa và Cư trú của Đại học Griffith cho biết niên đại này cung cấp một cái nhìn tổng thể hơn về  cư dân sinh sống trong các hang động vào thời điểm đó.
"Niên đại tương ứng với hoạt động khảo cổ được tìm thấy tại các địa điểm khác như hoạt động chăn nuôi ở các hang Eme và Arku và đồ gốm ở hang Callao.
"Giờ đây, chúng tôi có một bức tranh toàn cảnh về những người sinh sống trong hang động Peñablanca hơn 3.500 năm trước, họ kiếm thức ăn, sử dụng đồ gốm và tạo ra tác phẩm nghệ thuật trên đá."
Tiến sĩ Jalandoni cho biết: việc xác định niên đại của các bức hoạ trên đá than tương tự ở vùng Peñablanca có thể giúp giải quyết các câu hỏi còn tồn tại về sự di cư của con người.
Nó được tạo ra bởi những người Austronesia đầu tiên, những người đến khoảng 4000 năm trước và là quần thể người phổ biến hiện nay ở Philippines hoặc những người Agta Negritos di cư trong Kỷ Băng hà. Cả hai nhóm vẫn sống trong khu vực, vì vậy nghệ thuật trên đá cần phải được xác định niên đại để xác định nguồn gốc của nó. "
Nhóm nghiên cứu cũng đã xem xét nghệ thuật hang động hắc tố  trên khắp Đông Nam Á và tìm thấy các dạng tương tự ở Malaysia và Indonesia.
Giáo sư Paul Taçon, Trưởng bộ môn Nghiên cứu Nghệ thuật trên đá của Đại học Griffith cho biết kết quả này rất thú vị vì nó chứng minh một số tác phẩm nghệ thuật trên đá hình người được làm từ than đã được tạo ra từ hàng nghìn năm trước trong quá trình thay đổi văn hóa xã hội khắp khu vực.
"Bây giờ điều quan trọng là phải xác định niên đại của những hình tương tự ở những nơi khác để xem liệu chúng có cùng tuổi hay những loại hình người này được tạo ra trong một khoảng thời gian dài."
Tiến sĩ Jalandoni cho biết thêm:  niên đại mới cũng thách thức quan niệm phỏng đoán trước đây rằng tất cả nghệ thuật đá hắc tố là gần đây.
"Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tầm quan trọng của những địa điểm có nghệ thuật trên đá này và tại sao một kế hoạch bảo tồn là rất cần thiết.
"Những địa điểm nghệ thuật trên đá này đang biến mất nhanh chóng. Nhóm chúng tôi chỉ có thể tìm thấy 94 trong số 250 bức vẽ được tìm từ năm 1976-1977. Một địa điểm nghệ thuật trên đá ở Hunong Spring đã bị mất hoàn toàn và nó đang được quan tâm bởi các nhà nghiên cứu.
Phó phòng Văn Hoá Thung lũng Cagayan, Bảo tàng Văn hóa Quốc gia Philippines - Mylene Lising cho biết nghiên cứu trên góp phần nâng cao nhận thức về các nhóm người sớm ở quần đảo Philippines.
"Đó là một cái nhìn thoáng qua về cách họ tương tác với môi trường và hành vi của họ như thế nào cách đây 3500 năm. Điều này có liên quan trong bối cảnh lớn hơn vì nó thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về chúng ta với tư cách là con người."
 
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2021-05-philippines-cave-art-dated-southeast.html

Guillem Pérez Jordà và Salvador Pardo Gordó -  các nhà nghiên cứu từ Khoa Tiền sử, Khảo cổ học và Lịch sử Cổ đại của Đại học València, đăng một bài báo trên Tạp chí Journal of Archaeological Science Reports  về sự xuất hiện của các loại cây ăn quả ở Bán đảo Iberia thông qua  nghiên cứu các di cốt động thực vật cổ vật. Các nhà khoa học ước tính rằng việc trồng các loài này bắt đầu ở Cộng đồng người Valencia khoảng 3.000 năm trước, trùng với sự phát triển kinh tế và xã hội đáng kể.


                  Nguồn:  Asociacion RUVID
 
Ở những nơi như Fonteta (Guardamar del Segura), Barranc de Beniteixir (Piles), Peña Negra (Crevillent) hoặc L'Alt de Benimaquia (Dénia), vẫn có thể trồng các loại cây ăn quả như nho (Vinis vinifera) , cây ô liu (Olea europaea) hoặc cây lựu (Punica granatum) khoảng 3.000 năm trước. Hình thức nông nghiệp mới này cho phép trao đổi kinh tế và văn hóa của các dân tộc ở bán đảo phía đông với những cư dân khác có nguồn gốc từ phía đông, những người đã thành lập các thuộc địa trên những bờ biển này, chẳng hạn như người Phoenicia.
 
Guillem Pérez  cho biết: "Mặc dù vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên đã có những dấu hiệu về sự trao đổi này giữa Iberia và các dân tộc ở Tây Địa Trung Hải, nhưng phải đến thiên niên kỷ thứ nhất, mô hình nông nghiệp dựa trên cây ăn quả mới thịnh vượng và được hình thành ở Bán đảo Iberia". Bằng chứng đầu tiên của việc trồng cây ăn quả là những vật liệu được phục chế ở Huelva (thế kỉ IX-VIII trước Công nguyên). Tuy nhiên, phải đến thế kỷ VIII-VII trước Công nguyên, những cây trồng này mới được trồng ở bán đảo phía đông.
 
Guillem Pérez, nhà nghiên cứu xuất sắc thuộc Đại học Valencia, giải thích rằng sự xuất hiện của những loại cây trồng mới này ngụ ý sự thay đổi trong mối quan hệ của nông dân với đất đai. Từ trước đến nay họ chỉ trồng những cây có chu kỳ hàng năm và cho năng suất tức thì (ngũ cốc, cây họ đậu, v.v.), nhưng bây giờ họ đầu tư vào những loại cây trồng mất vài năm để đưa vào sản xuất, đòi hỏi phải kiểm soát quyền sở hữu đất đai.
Sự thay đổi trong mô hình nông nghiệp là một phần trong sự chuyển đổi của các cộng đồng này, hướng tới các xã hội phức tạp hơn, kết thúc bằng việc áp dụng mô hình đô thị và lần đầu tiên phát triển một nền nông nghiệp thương mại, trong đó cây ăn quả và các sản phẩm phụ của chúng như rượu vang là những sản phẩm nổi bật nhất.
 
 
Việc áp dụng các loại cây trồng mới này xảy ra với tỷ lệ khác nhau ở các khu vực khác nhau của Bán đảo Iberia và quốc gia Valencia hiện tại là một khu vực mà việc trồng cây ăn quả đã phát triển hơn, với định hướng thương mại rõ ràng, khi xuất khẩu các sản phẩm này sang các khu vực khác của bán đảo.


Người dịch: Minh Trần

Nguồn tham khảo:  

https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/05/fruit-crops-reached-iberian-peninsula.html

 
 
 
 
 
 
 
 
 

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9900879
Số người đang online: 13