Phát hiện nơi cư trú lâu đời nhất của con người ở Bán đảo Ả Rập, phục chế 354 hiện vật và tiết lộ những thay đổi trong hành vi của con người trong lịch sử.

Các hiện vật tìm thấy ở Hail, Ả Rập Saudi. (Ảnh: Thông tấn xã Saudi).Một trong những địa điểm Acheulean cổ nhất thế giới được tìm thấy phía bắc của thành phố Hail, Ả Rập Saudi.
Thông tấn xã Ả Rập Saudi đưa tin, phát hiện về nơi cư trú lâu đời nhất của con người ở Bán đảo Ả Rập được đăng tải trong một bài báo trên tạp chí Nature Scientific Report.
Địa điểm Al Nasim có bằng chứng môi trường cổ về các sông, hồ nước ngọt, và các đặc điểm địa mạo liên quan đến các đặc điểm Pleistocen giữa.
Ủy ban Du lịch và Di sản Quốc gia Ả Rập Saudi bắt đầu các cuộc điều tra về khảo cổ và cổ môi trường của Dự án Ả rập Xanh hơn 10 năm trước với sự hợp tác của Hiệp hội Max Planck Đức, Đại học Oxford, Cơ quan Khảo sát Địa chất Saudi và Đại học King Saudi ở Riyadh.
Cuộc khảo sát cho thấy Bán đảo Ả Rập có điều kiện khí hậu mưa nhiều và ẩm ướt hơn ở miền trung.
Điều này dẫn đến sự hình thành các hồ, sông, thung lũng và thảm thực vật góp phần vào cách sống tốt hơn cho con người và làm thay đổi sự phân bố không gian của hominin trong và giữa các lục địa.
Các nghiên cứu khảo cổ cũng cho rằng người sớm nhất sinh sống ở Tây Nam Á và nền văn minh Acheulean có một trong những truyền thống chế tạo công cụ lâu đời nhất.
Các hiện vật được tìm thấy bao gồm rìu tay và công cụ đá, cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách sống của các cư dân này.
Thông tấn xã Saudi đưa tin “Al Nasim đại diện cho một trong những địa điểm Acheulean lâu đời nhất ở Ả Rập Saudi, tiết lộ các tổ hợp công cụ đá đa dạng trong khu vực được sử dụng bởi cư dân Pleistocen giữa, điều này cho thấy kĩ hơn một mô hình nhập cư nhiều lần của cư dân vào bán đảo trong giai đoạn 'Ả Rập xanh' ẩm.
Địa điểm này bao gồm một lòng chảo sâu và hẹp, nơi một số hiện vật thời kỳ đồ Đá Cũ được khôi phục, tương tự như những hiện vật tìm thấy trước đây tại các địa điểm Acheulean trong sa mạc Nefud.
Sự tương đồng giữa những phát hiện về Acheulean ở Al Nasim và ở Sa mạc Nefud cho thấy rằng những hồ cổ của vùng này đã tạo ra một hành lang quan trọng cho con người đi lại và gặp gỡ những người khác.
Năm ngoái, Ủy ban Di sản đã phát hiện dấu vết của người, voi và lạc đà cùng các loài động vật khác tại một hồ cổ, khô có niên đại hơn 120.000 năm trước đây ở Tabuk.
Đây là phát hiện đầu tiên với bằng chứng khoa học về các dấu chân cổ nhất của con người và động vật ở Bán đảo Ả Rập.
Các chuyên gia Ả Rập Saudi thuộc Ủy ban Di sản tiếp tục làm việc trong Dự án Ả Rập Xanh cùng với các chuyên gia từ Viện Max Planck để nghiên cứu những thay đổi khí hậu ở Bán đảo Ả Rập theo thời gian và lịch sử của những cuộc di cư cổ từ các lục địa khác.
Nguồn tham khảo: https://www.thenationalnews.com/gulf/saudi-arabia/saudi-arabia-discovers-a-350-000-year-old-archaeological-site-in-hail-1.1221864
Người dịch: Minh Trần

Hình minh họa một con voi lùn cư trú trên các hòn đảo ở biển Địa Trung Hải và nó đã tuyệt chủng cho đến khi con người đến. (Nguồn: Peter Schouten / Ross MacPhee © AMNH)
Một nghiên cứu mới cho thấy khi đề cập đến nguyên nhân gây tuyệt chủng, những người sớm có thể không phải là những kẻ dại dột như chúng ta ngày nay.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy: Họ hàng của loài người sớm đã sống trên các hòn đảo kể từ đầu thế Pleistocen (cách đây 2,6 triệu đến 11,700 năm). Nhưng sự tuyệt chủng trên diện rộng trên các hòn đảo phần lớn có thể bắt nguồn từ 11.700 năm qua trong giai đoạn Holocen, khi con người hiện đại bắt đầu tàn phá ở đó - săn mồi quá mức, thay đổi môi trường sống và du nhập các loài xâm lấn.
Đồng tác giả nghiên cứu Ross MacPhee, chuyên gia động vật có xương sống ở Bảo tàng lịch sử Quốc gia Mỹ phát biểu trong email với Live Science : "Trong khi con người chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp cho hàng trăm thiệt hại trên các hòn đảo trong vài trăm năm qua, dấu vết của sự phá huỷ này càng ít đi khi bạn quay ngược thời gian"."Tác động của họ [họ hàng xa của người hiện đại ] là không đáng kể, trong khi tác động của chúng ta đã từ lâu và thật thảm khốc."
Tại sao là các đảo?
Các nhà khoa học viết trong nghiên cứu:
Quần đảo rất nhiều các loài động vật tuyệt chủng. Ví dụ, các hòn đảo ở New Zealand, nơi 9 loài moa, một loài chim khổng lồ, giống như đà điểu, từng sinh sống. Nhưng trong vòng 200 năm kể từ khi con người đến, tất cả chúng đều tuyệt chủng cùng với ít nhất 25 loài động vật có xương sống khác.
Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi các nhà khoa học tại Đại học Griffith ở Úc, tập trung vào các hòn đảo vì một lý do lớn: Chúng "đặc biệt dễ bị tuyệt chủng trên diện rộng". Đó là bởi vì các hòn đảo có xu hướng có các loài động vật có kích thước và số lượng cá thể nhỏ hơn, có tính đa dạng di truyền thấp hơn (một phần là do giao phối cận huyết), dễ bị ảnh hưởng bởi các sự kiện ngẫu nhiên hơn, tạo ra ít cơ hội tái thuộc địa hơn và hỗ trợ mức độ cao hơn của động vật bản địa so với với những loài ở lục địa.
Để điều tra xem liệu sự tuyệt chủng trên đảo có trùng hợp với sự xuất hiện của hominin – hoặc người hiện đại, tổ tiên và những người anh em họ hàng tiến hóa gần gũi của chúng ta hay không - các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào hồ sơ khảo cổ và hóa thạch của 32 nhóm đảo có bằng chứng về sự có mặt của hominin, bao gồm các đảo ở Anh, Đài Loan Okinawa và Tasmania. (Không giống như nhóm hominids, nhóm hominin không bao gồm đười ươi.). Tuy vậy, MacPhee cho biết: việc xác định niên đại xuất hiện của hominin và sự tuyệt chủng trên đảo không phải lúc nào cũng dễ dàng. Hơn nữa, rất khó để phân biệt liệu một loài động vật bị tuyệt chủng phần lớn là do con người hay do các yếu tố khác, chẳng hạn như biến đổi khí hậu.
"Tuy nhiên, những nơi mà chúng tôi thu thập được hầu hết dữ liệu của mình - quần đảo đảo ở phía đông lục địa châu Á - ít bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi khí hậu nghiêm trọng có thể phát hiện được, loại ảnh hưởng đến Bắc Mỹ" vào cuối kỷ băng hà cuối cùng, khi các động vật lớn như voi ma mút đã tuyệt chủng.

Các nhóm đảo đại dương có bằng chứng về hominin kỷ Pleistocen và sự tuyệt chủng của động vật. Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống là (A) San Miguel, Santa Rosa và Santa Cruz; (B) Ireland; (C) Sardinia; (D) Honshu, Shikoku và Kyushu; (E) Ishigaki, Miyako, Kume và Okinawa; (F) Luzon, Mindanao, Mindoro và Palawan; (G) New Ireland và Buka; (H) Sulawesi; (I) Timor, Alor, Flores và Sumba; và (J) Cyprus, Crete và Naxos. MP, Pleistocen giữa; LP, Pleistocen muộn. (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Nhóm nghiên cứu cũng giải thích một số trường hợp tuyệt chủng xảy ra một cách tự nhiên trong suốt quá trình tiến hóa. Ngoài ra, họ dẫn chứng rằng những người hominin thời kỳ đầu đã săn bắn động vật trên cạn – kết quả là có những bộ xương động vật cổ với dấu vết chặt. Nhưng nhóm nghiên cứu nhận thấy những hominin thời kỳ đầu đã không săn bắn một số sinh vật bị tuyệt chủng. MacPhee nói: “Thay vào đó, đã có sự chung sống, giống như luôn tồn tại trong tự nhiên giữa các loài khác nhau. "lặp đi lặp lại, bằng chứng cho thấy" những tổ tiên trước của chính chúng ta ... không làm tăng tỷ lệ tuyệt chủng trên các hòn đảo mà chúng chiếm cư. "
Các mốc thời gian tuyệt chủng của các loài động vật trên các đảo đại dương khác nhau, cho thấy thời điểm những người hominin và Homo sapiens đầu tiên đến. Niên đại xuất hiện lần cuối (LAD) của động vật được hiển thị bằng các đường ngang. Các đường LAD đứt đoạn biểu thị sự không chắc chắn. (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
hoặc ví dụ, trên Flores ở Indonesia, nơi "Người Hobbit", hay Homo floresiensis, sinh sống, "không có cuộc tuyệt chủng nào được biết đến có liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện của hominin đầu tiên", các nhà nghiên cứu viết trong nghiên cứu. Điều này cũng đúng với hominin ở Sardinia.Ngược lại, các nhà nghiên cứu nhận thấy: trong vòng 5.000 năm kể từ khi người hiện đại đến quần đảo California Channel khoảng 13.000 năm trước, voi ma mút Colombia (Mammuthus columbia), voi ma mút lùn (Mammuthus exilis) và loài gặm nhấm (Microtus miguelensis) đã tuyệt chủng. Tương tự như vậy, ở Ireland, một con hươu khổng lồ (Megaloceros giganteus) và một con vượn cáo (Dicrostonyx torquatus) đã tuyệt chủng ngay sau khi người hiện đại đến 13.000 năm trước, như trường hợp của một loài sếu (chi Grus) biến mất ở Timor sau khi người hiện đại đến cách đây 46.000 năm.

Các nhóm đảo lục địa (những vùng đất được kết nối với các lục địa tại các điểm trong suốt lịch sử, nhưng hiện nay là các đảo) có bằng chứng về hominin trong kỷ Pleistocen và sự tuyệt chủng của động vật. Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống là (A) Anh; (B) Sri Lanka; (C) Đài Loan; (D) Hokkaido; (E) Đảo King và Tasmania; (F) Đảo Kangaroo; (G) New Guinea; và (H) Borneo, Java và Sumatra. (LP là viết tắt của Pleistocen muộn.) (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Danh sách tiếp tục: một con voi ở Sulawesi, Indonesia; Cò (Leptoptilos robustus), kền kền (chi Trigonoceps), chim (chi Acridotheres), voi răng kiếm (Stegodon florensis insularis) và thậm chí người Homo floresiensis, đã biến mất ngay sau khi Homo sapiens đến Flores, các nhà nghiên cứu phát hiện.
Tại sao người hiện đại là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt này?
Vậy, tại sao loài người hiện đại lại là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng như vậy, còn các hominin thời kỳ đầu thì không?
MacPhee nói: "Văn hóa, văn hóa, văn hóa". Nếu bạn nhìn nhận sự thích nghi của con người qua lăng kính văn hóa, thì sự khác biệt rõ ràng nhất giữa lúc đó và bây giờ là mức độ mà ngày nay chúng ta có thể kiểm soát các môi trường trên toàn trái đất."
Nói cách khác, các hominin ban đầu có rất ít quyền kiểm soát môi trường của chúng; họ có thể săn bắn, nhưng không sử dụng các công nghệ phức tạp. MacPhee cho biết: “Những người sớm trên các hòn đảo đến đó bằng cách thực hiện các cuộc hành trình trên biển - họ đã định hướng về biển và tài nguyên biển, và không biết cách săn bắt động vật trên cạn hoặc không quan tâm đến việc đó”.
Khi con người trở nên tiên tiến hơn, có khả năng là "hành vi của chúng ta đối với môi trường đã thay đổi và trở nên phá hoại hơn khi chúng ta có khả năng sử dụng công nghệ cao hơn".

Mốc thời gian tuyệt chủng cho thấy thời điểm động vật tuyệt chủng liên quan đến thời điểm hominin và Homo sapiens đến các đảo lục địa. Các thanh màu tím dọc cho biết khi nào những vùng đất này là đảo. Niên đại xuất hiện cuối cùng (LAD) của các loài động vật đã tuyệt chủng được thể hiện bằng các đường ngang, với các đường chấm chấm đánh dấu sự không chắc chắn. (EAD là viết tắt của niên đại xuất hiện sớm nhất.) (Nguồn: Louys, J. và cộng sự PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Ông cũng cho biết: Phát hiện cho thấy rằng con người không nên cho rằng "tổ tiên của mình đã có sẵn ý thức khai thác quá mức mà chúng ta có nó, đâu đó nằm trong gen của chúng ta". "Nếu có một bài học, thì nó chỉ đơn giản là : Hãy hành động như tổ tiên xa xôi của chúng ta đã làm, lấy những gì bạn cần từ thiên nhiên nhưng không phá hủy nó trong quá trình này."Điều này cũng giải thích tại sao các cuộc tuyệt chủng không liên quan đến sự xuất hiện đầu tiên của người Homo sapiens trên các hòn đảo cách đây khoảng 50.000 năm. Julian Hume, một nhà cổ sinh học và cộng tác nghiên cứu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, London Vương quốc Anh, người không tham gia nghiên cứu này, cho biết: “Có vẻ như trong suốt thời gian này, cả hominin và hệ động vật trên đảo đã xuất hiện và phát triển cùng nhau. Vào thời điểm đó, có ít người hơn, công cụ kém tinh vi hơn và tỷ lệ chiếm cư chậm hơn. Điều này đã thay đổi trong suốt thời kỳ Holocen, khi con người hiện đại làm chủ việc di chuyển đường dài vượt biển với số lượng lớn, phát triển các công cụ tinh vi và đưa các loài động vật không bản địa cùng với chúng đến các hòn đảo.
Tuy nhiên, Hume lưu ý rằng các hòn đảo nổi tiếng là những nơi bảo tồn hóa thạch kém. Ngoài ra, các hóa thạch tồn tại lâu dài theo thời gian có xu hướng là từ động vật to lớn và khỏe mạnh, thay vì động vật nhỏ và mỏng manh. Vì vậy, thật khó để nói, khi nhìn vào hồ sơ hóa thạch, liệu các hominin trước đó có gây ra sự tuyệt chủng cho động vật hay không - Hume trả lời Live Science trong một email.
Hume cũng cho hay: Hơn nữa, xương động vật cổ bị chặt để lấy thịt và bị đốt là "cực hiếm". "Bởi vì các tác giả đã tìm thấy rất ít bằng chứng về sự ăn thịt của con người, nhưng không có nghĩa điều đó đã không diễn ra.”
Nhưng ông vẫn đồng ý với thông điệp rút ra của các nhà nghiên cứu. Ông nói: “Chúng ta có thể hiểu và tha thứ cho tổ tiên loài người đã săn lùng những thứ cần thiết khi họ đi khắp các đại dương. "Điều không thể tha thứ là con người hiện đại đang phá hủy thế giới tự nhiên với tốc độ chưa từng có, mặc dù có hiểu chi tiết về cái giá cuối cùng phải trả như thế nào”.
Nghiên cứu được công bố trực tuyến vào thứ Hai (3 tháng 5/2021) trên tạp chí Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia. Bản gốc được công bố trên Live Science.
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo: https://www.livescience.com/early-humans-island-extinctions.html

- Nxb: Khoa học xã hội - 2019
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 411 tr
Huế là mảnh đất nằm giữa miền Trung, là thủ phủ của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi kinh thành Phú Xuân của vương triều Quang Trung. Từ năm 1802 đến năm 1945, Phú Xuân - Huế trở thành kinh đô của vương triều Nguyễn, kinh đô của một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả đất liền, hải đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa biển Đông như lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
Huế gắn liền với triều Nguyễn bởi nơi đây còn lưu dấu nhiều thành lũy, cung đình, các giá trị văn hóa của triều Nguyễn. Cũng chính từ những giá trị đó, cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ năm 1993. Năm 2003, nhã nhạc cung đình Huế lại được UNESCO công nhận là Di sản phi vật thể thế giới. Hiện nay, Huế được biết đến là một thành phố di sản nổi tiếng, một trung tâm du lịch hấp dẫn cả trong và ngoài nước.
Cuốn sách tập hợp hơn 20 công trình nghiên cứu, gồm các bài viết, bài phát biểu, giới thiệu của GS. Phan Huy Lê về Huế và triều Nguyễn. Huế đã gắn bó với Giáo sư từ ngay sau khi đất nước thống nhất.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 1050 tr
Cuốn sách do PGS.TS Phan Phương Thảo tuyển chọn (tái bản lần thứ 4), lần này tuyển chọn những bài viết mới sau năm 1998, bao gồm cả những báo cáo trong các hội thảo quốc gia và quốc tế, đã công bố và chưa công bố. Tất cả những bài viết đó được sắp xếp thành các chương sau:
Chương 1: Tính đa tuyến, toàn bộ, toàn diện của lịch sử Việt Nam
Chương 2: Về những trung tâm văn minh và Nhà nước cổ đại trên lãnh thổ Việt Nam
Chương 3: Bước ngoặt lịch sử vào nửa đầu thế kỷ X
Chương 4: Bước chuyển biến từ thời cuối Trần sang Lê sơ
Chương 5: Thắng lợi và thất bại của Tây Sơn
Chương 6: Một số vấn đề về nông thôn và đô thị
Chương 7: Thành Thăng Long - Hà Nội và di tích Hoàng thành mới phát lộ
Chương 8: Một số sự kiện và nhân vật lịch sử
Chương 9: Sử học, Việt Nam học, Đông phương học. Quan hệ giao lưu văn hóa với thế giới.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Trí Thức - 2020
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 558 tr
Đây là bản tái bản có bổ sung chỉnh sửa của bản trước đây, lý do bổ sung chỉnh sửa mà tác giả đưa ra là:
Thứ nhất, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực liên quan đã có bước tiến đáng kể trong mấy năm gần đây
Thứ hai, suốt những năm vừa qua, đã có rất nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới, cả về chính trị và công nghệ.
Thứ ba, Sapiens vẫn là một cuốn sách bán chạy, và sức ảnh hưởng về mặt văn hóa và chính trị của nó vẫn không ngừng gia tăng. Do đó tác giả thấy rằng nên cập nhật một số đoạn trong cuốn Sapiens, ví dụ như phần nội dung về trí tuệ nhân tạo và chủ nghĩa dân tộc, vốn rất hợp lý 5 hay 10 năm trước nhưng nay đã trở nên lỗi thời.
Nội dung gồm các phần sau
Phần 1. Cách mạng nhận thức.
Phần 2. Cách mạng nông nghiệp
Phần 3: Sự thống nhất của loài người
Phần 4. Cách mạng khoa học
Xin trân trọng giới thiệu!
Đến dự buổi Lễ có đồng chí Lại Xuân Lâm, Phó Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương; PGS.TS. Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; đại diện Văn phòng Trung ương Đảng; Ban Tổ chức Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bộ Nội vụ.
Tham dự buổi Lễ về phía Viện Hàn lâm có: PGS.TS. Bùi Nhật Quang, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Viện Hàn lâm; TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; GS.TS. Đặng Nguyên Anh Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; GS.TS. Phạm Văn Đức, nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm cùng các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ; Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Viện Hàn lâm; Thủ trưởng các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm; đại diện Công đoàn và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Viện Hàn lâm Bùi Nhật Quang đã trao Quyết định số 637/QĐ-TTg ngày 29/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ cho đồng chí Nguyễn Đức Minh.
Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Chủ tịch Bùi Nhật Quang nhiệt liệt chúc mừng và ghi nhận sự cống hiến không ngừng của đồng chí Nguyễn Đức Minh trên các mặt công tác. Đồng chí Nguyễn Đức Minh được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm không chỉ là niềm vinh dự của cá nhân đồng chí mà còn là niềm tự hào chung của Viện Hàn lâm. Đồng chí Chủ tịch Viện Hàn lâm nhấn mạnh, việc bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Đức Minh là sự kiện quan trọng, đánh dấu một bước đổi mới trong kiện toàn nhân sự cấp cao của Viện Hàn lâm.
Đồng chí Chủ tịch Viện Hàn lâm mong muốn, bằng kinh nghiệm công tác lâu năm và năng lực quản lý của mình, tân Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Minh sẽ sát cánh, nỗ lực cùng với Ban Lãnh đạo Viện Hàn lâm tiếp tục phát huy những thành tích đạt được, có nhiều sáng kiến mới, đặc biệt là trong công tác tìm kiếm, phát hiện, đào tạo cán bộ đáp ứng nhiệm vụ của Viện Hàn lâm trong bối cảnh mới. Bên cạnh đó, đồng chí Chủ tịch mong rằng, đồng chí Nguyễn Đức Minh sẽ đóng góp sức mình vào sự phát triển chung của Viện Hàn lâm cũng như Đảng bộ Viện Hàn lâm trong thời gian tới.
Phát biểu tại buổi lễ, tân Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Minh trân trọng và cảm ơn sâu sắc Thủ tướng Chính phủ về sự tín nhiệm và tin tưởng bổ nhiệm đồng chí giữ chức Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm. Đồng chí Nguyễn Đức Minh nhận thức sâu sắc rằng, đây là vinh dự song cũng là trọng trách lớn mà Thủ tướng Chính phủ giao phó. Đồng chí Nguyễn Đức Minh trân trọng cảm ơn Ban cán sự Đảng Chính phủ; Bộ Nội vụ; Ban Tổ chức Trung ương; Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Văn phòng Trung ương Đảng; Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương đã tin tưởng, đề xuất Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm đồng chí giữ chức Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm. Đồng chí cảm ơn Lãnh đạo Viện Hàn lâm, Ban Thường vụ Đảng ủy, Ban chấp hành Đảng bộ Viện Hàn lâm, các đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm đã tín nhiệm.
Tân Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Nguyễn Đức Minh cũng trân trọng cảm ơn các đồng chí nguyên Lãnh đạo Viện Hàn lâm, các đồng chí Lãnh đạo Viện Nhà nước và Pháp luật qua các thời kỳ, các cán bộ Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Nghiên cứu Châu Âu đã giúp đỡ, ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi để đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đồng chí Nguyễn Đức Minh trân trọng cảm ơn đồng chí Chủ tịch Viện Hàn lâm Bùi Nhật Quang về những lời chúc mừng tốt đẹp. Đồng chí Nguyễn Đức Minh tiếp thu nhiệm vụ đồng chí Chủ tịch Viện Hàn lâm vừa giao và coi đó là những định hướng lớn cần triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Đồng chí Nguyễn Đức Minh nguyện tiếp tục phấn đấu, rèn luyện, phối hợp chặt chẽ với các đồng chí trong Ban Lãnh đạo Viện Hàn lâm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham mưu, đề xuất với đồng chí Chủ tịch Viện Hàn lâm chủ trương, định hướng, giải pháp phát triển Viện Hàn lâm trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
Đồng chí Nguyễn Đức Minh mong muốn thường xuyên nhận được sự quan tâm của Thủ tướng Chính phủ, sự giúp đỡ của các Ban Đảng, của các Bộ, ngành Trung ương, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành Đảng bộ và Ban Thường vụ Đảng ủy, trực tiếp là đồng chí Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch Viện Hàn lâm. Tân Phó Chủ tịch cũng mong tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của các đồng chí Lãnh đạo Viện Hàn lâm, sự hỗ trợ của các đồng chí lãnh đạo các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm, sự phối hợp của Ban chấp hành các đoàn thể, cũng như và sự ủng hộ của tất cả công chức, viên chức của Viện Hàn lâm.
Cũng tại buổi lễ, Chủ tịch Viện Hàn lâm Bùi Nhật Quang đã tặng hoa và phát biểu tri ân sâu sắc đến GS.TS. Phạm Văn Đức, nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm. GS.TS. Phạm Văn Đức đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên cương vị Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm trong thời gian vừa qua. Chủ tịch Viện Hàn lâm Bùi Nhật Quang mong muốn Giáo sư Phạm Văn Đức trong thời gian tới tiếp tục cống hiến trí tuệ của mình cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm.
Phát biểu tri ân tại buổi lễ, GS.TS. Phạm Văn Đức nhiệt liệt chúc mừng PGS.TS. Nguyễn Đức Minh được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm. GS.TS. Phạm Văn Đức mong đồng chí Nguyễn Đức Minh phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, cùng với Ban Lãnh đạo Viện Hàn lâm đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Giáo sư Phạm Văn Đức cũng đã cảm ơn chân thành sự quan tâm, ủng hộ của Lãnh đạo Viện Hàn lâm qua các thời kỳ, các cán bộ Viện Triết học và Học viện Khoa học xã hội, nơi đồng chí đã công tác và giữ chức Viện trưởng Viện Triết học và Giám đốc Học viện cũng như sự phối hợp công tác của toàn thể các cán bộ Viện Hàn lâm trong thời gian qua. Giáo sư Phạm Văn Đức hứa sẽ tiếp tục cống hiến hết sức mình trong công tác nghiên cứu khoa học, đóng góp vào sự phát triển chung của Viện Hàn lâm trong thời gian tới.
Nhân dịp này, tân Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Nguyễn Đức Minh đã nhận được nhiều lời chúc mừng và những bó hoa tươi thắm của Ban Lãnh đạo Viện Hàn lâm, Đảng ủy Viện Hàn lâm, Lãnh đạo các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm, của lãnh đạo, Chi bộ Viện Nhà nước và Pháp luật và các đại biểu tham dự.
Tin bài: Thu Trang
https://vass.gov.vn/tin-hanh-chinh-to-chuc/Cong-bo-Quyet-dinh-cua-Thu-tuong-Chinh-phu-bo-nhiem-PGSTS-Nguyen-Duc-Minh-giu-chuc-Pho-Chu-tich-Vien-Han-lam-Khoa-hoc-xa-hoi-Viet-Nam-1172
Trong số các tư liệu được kế thừa từ Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) kho Ảnh (kho ảnh EFEO) là kho tư liệu đồ sộ được đánh giá là vốn tư liệu phong phú, quý hiếm. Kho Ảnh bao gồm gần 60.000 tấm, tập hợp những bức ảnh được chụp trong khoảng thời gian 1870 - 1981, là kết quả của quá trình sưu tầm, nghiên cứu trong gần một thế kỷ của nhiều thế hệ các chuyên gia, nhà nghiên cứu khảo cổ, kiến trúc, lịch sử… thuộc EFEO trước đây và Viện Thông tin KHXH sau này như: L. Finot, H. Parmentier, L. Fomberteaux, Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Khắc Tụng… Kho ảnh với số lượng lớn, nội dung hết sức phong phú, đa dạng được chia thành 20 chủ đề lớn, như di tích lịch sử Việt Nam (chụp các đình, chùa, đền, miếu, điện, nhà thờ, cung điện, thành trì, lăng mộ), ảnh dân tộc (chụp các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, trên cao nguyên miền Trung hay ngư dân ven biển), ảnh sinh hoạt văn hóa (chụp các lễ hội tôn giáo, tục thờ cúng, lên đồng, hát bóng …). Đặc biệt, các bức ảnh chụp các di chỉ, hiện vật khảo cổ, các quá trình khai quật, khu vực khai quật tại một số vùng miền ở Việt Nam (hơn 3.000 ảnh), ảnh chụp các di tích văn hoá, di chỉ hiện vật nghệ thuật Chăm, các tháp ở Thánh địa Mỹ Sơn (hơn 2.000 ảnh, trong đó có ảnh một số tháp hiện nay không còn nữa)… là những tư liệu lịch sử rất có giá trị đối với công tác nghiên cứu hiện nay.
Có những bức ảnh hơn 100 năm tuổi, những bức ảnh ghi lại những thời khắc lịch sử, những bức ảnh khắc họa truyền thống, văn hóa các dân tộc…, tất cả đã tạo nên giá trị lịch sử, giá trị nghiên cứu quý hiếm của kho Ảnh của Viện Thông tin KHXH. Kho Ảnh gốc hiện nay đã được số hóa và bảo quản ở điều kiện đặc biệt để lưu trữ lâu dài. Các bản số được sử dụng để phục vụ bạn đọc vẫn đảm bảo chất lượng và giá trị ban đầu.
Với mong muốn đưa Kho tư liệu ảnh EFEO vào đời sống, phục vụ hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, Viện Thông tin KHXH tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Kho Tư liệu ảnh EFEO lưu trữ tại Thư viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam”.
Hội thảo giới thiệu những giá trị thông tin văn hóa, lịch sử quý hiếm và đồng thời đề cập đến hiện trạng của kho tư liệu ảnh EFEO, mở ra các cơ hội hợp tác đối với các nhà nghiên cứu và các chuyên gia trong và ngoài nước trong hoạt động nghiên cứu, thông tin, bảo quản và khai thác Kho tư liệu, chia sẻ tri thức các giá trị thông tin của Kho tư liệu ảnh EFEO và thu hút sự quan tâm, hỗ trợ và hợp tác trong công tác bảo quản và quảng bá Kho tư liệu ảnh EFEO.
Thông tin chi tiết xem tại link: https://vass.gov.vn/hoi-nghi-hoi-thao/Hoi-thao-quoc-te-Kho-anh-EFEO-luu-tru-tai-Thu-vien-Khoa-hoc-xa-hoi-Vien-Han-lam-Khoa-hoc-xa-hoi-Viet-Nam-1249

- Nxb: Đà Nẵng - 2020
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 858 tr
Cuốn sách The silk Roads - A new History of the World (Những con đường tơ lụa - Một lịch sử mới về thế giới) của Peter Frankopan ngay từ lúc mới xuất bản đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng mới phát hành. Tác phẩm này đưa Peter Frankopan trở thành một tên tuổi mới và sáng giá trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử toàn cầu.
Tác giả đưa ra những con đường tờ lụa gắn với lịch sử thế giới, ông cho rằng không chỉ có hàng hóa chảy dọc theo những tuyến đường huyết mạch kết nối Thái Bình Dương, Trung Á, Ấn Độ, vịnh Ba Tư và Địa Trung Hải thời cổ đại; còn có cả các tư tưưởng tôn giáo, tư tưởng về thần thánh. Sự trao đổi trí thức và tôn giáo đã luôn diễn ra sôi động khắp vùng này; giờ càng trở nên phức tạp và cạnh tranh. Các hệ thống tín ngưỡng và nghi lễ thờ cúng địa phương bắt đầu tiếp xúc với những vũ trụ luận đã được thiết lập lâu đời, tạo ra một nồi lẩu thập cẩm phong phú, nơi các tư tưởng được vay mượn, tinh chỉnh và xây dựng lại hình ảnh.
Nội dung cuốn sách nêu sự ra đời của con đường tơ lụa và những con đường của lịch sử thế giới như: con đường của những đức tin, con đường tới một phương Đông Thiên Chúa giáo, con đường tới cách mạng, con đường nô lệ, con đường của vàng ròng, con đường của bạc, con đường tới phương Bắc Châu Âu ..v.v. và Kết luận con đường tơ lụa mới.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Thế Giới - 2014
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 998 tr
Lịch sử văn học nghệ thuật Trung Quốc có nhiều thành tựu, nhưng có lẽ dòng chảy lịch sử hàng ngàn năm từ thời kỳ Tiên Tần cho đến thời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh Thanh là lịch sử đã để lại nhiều trước tác và học thuật. Đây là sách dịch từ nguyên bản sách Trung Quốc “Trung Quốc Mỹ học sử đại cương” của Diệp Lang, Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, phát hành năm 1985, gồm 663 trang với 480.000 chữ. Sách chia làm 4 thiên.
Thiên thứ nhất: Mở đầu của mỹ học cổ điển Trung Quốc, gồm 8 chương: Từ mỹ học của Lão tử, mỹ học của Khổng Tử, (...) đến mỹ học đời Hán
Thiên thứ hai: đi sâu nghiên cứu mỹ học cổ điển Trung Hoa, gồm 10 chương, từ Ngụy - Tấn - Nam Bắc triều đến mỹ học thời Minh Thanh.
Thiên thứ ba tổng kết mỹ học cổ điển Trung Quốc gồm bốn chương, từ hệ thống mỹ học của Vương Phu Chi đến Lưu Hy Tái
Thiên thứ tư nghiên cứu mỹ học cận đại Trung Quốc gồm ba chương từ mỹ học của Lương Khải Siêu đến mỹ học của Lỗ Tấn.
Bốn thiên với 25 chương, cuốn sách Đại cương Lịch sử Mỹ học Trung Quốc
Có nhiều nội dung phong phú, đề cập, phân tích một cách sâu sắc tinh hoa của mỹ học Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử với nhiều tác gia kiệt xuất, những nhân vật lịch sử, văn hóa tiêu biểu có ảnh hưởng không chỉ đối với lịch sử văn hóa Trung Quốc mà còn ảnh hưởng lớn đến lịch sử và văn hóa của nhân loại.
Xin trân trọng giới thiệu!!

- Nxb: Hà Nội - 2020
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 434 tr
Tiểu luận về dân Bắc kỳ (Essais sur Tonkinois) của Gustave Dumoutier - một nhà Việt Nam học người Pháp thuộc thế hệ đầu đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1886 theo lời đề nghị của Tổng trú sứ Paul Bert, Essais sur Tonkinois đăng lần đầu trên Revue Indo-Chinoise (Tạp chí Đông Dương) từ ngày 15/3/1907 đến 15/2/1908 dưới dạng các bài viết/ tiểu luận. Năm 1908, Essais sur Tonkinois lần đầu được ấn hành tại Nhà in Viễn Đông.
Nội dung cuốn sách gồm 6 chủ đề lớn liên quan tới tổ chức xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán và nếp sống thường nhật của người dân Bắc kỳ cuối thế kỷ thứ XIX: 1/ Xã hội : tổ chức làng xã An Nam, việc xét xử, việc quân ...; 2/ Gia đình: sinh con, cưới hỏi, tang ma...; 3/ Trò giải trí và nghề nghiệp: ca kỹ và đào kép, các nghề, chơi bài lá, đưa đò, sơn và dầu sơn, phu trạm...; 4/ Thực phẩm: tục ăn đất, cỗ (cúng, làng, đám ma, mừng thọ), nước chấm, tín ngưỡng dân gian liên quan đến bữa ăn...; 5/ Y học: thầy lang, hiệu thuốc; 6/ Mê tín: phù thủy và bói toán, hậu vận, cốt tướng, diện tướng... Những chủ đề được trình bày tương đối cụ thể theo quan sát, ghi chép và diễn giải của tác giả. Qua đây độc giả phần nào hình dung được những nét văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của người dân Bắc kỳ cuối thế kỷ XIX.
Xin trân trọng giới thiệu!