Ðợt khai quật mới đây được thực hiện bởi Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) lại phát hiện thêm nhiều phế tích kiến trúc, hiện vật quan trọng trong Hoàng thành Thăng Long. Những hiện vật tiếp tục minh chứng cho lịch sử lâu đời, giá trị văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật… của Hoàng thành Thăng Long. Song nhiều nhà khoa học cho rằng, cần đổi mới nhận thức, cách làm, hướng đến mục tiêu chính trong bảo tồn, phát huy giá trị của Hoàng thành.

 


Các nhà khoa học thảo luận về những hiện vật khảo cổ tại Hoàng thành Thăng Long.

Ðợt khai quật mới đây được thực hiện bởi Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) lại phát hiện thêm nhiều phế tích kiến trúc, hiện vật quan trọng trong Hoàng thành Thăng Long. Những hiện vật tiếp tục minh chứng cho lịch sử lâu đời, giá trị văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật… của Hoàng thành Thăng Long. Song nhiều nhà khoa học cho rằng, cần đổi mới nhận thức, cách làm, hướng đến mục tiêu chính trong bảo tồn, phát huy giá trị của Hoàng thành.

Xuất lộ nhiều dấu tích quan trọng

Ðợt khai quật thăm dò mới nhất này được các nhà khoa học đánh giá là “bất ngờ mà không bất ngờ”. Bất ngờ là bởi trên diện tích gần 1.000 m2 khai quật tại khu vực phía đông bắc điện Kính Thiên, gần di tích Hậu Lâu, có những dấu tích kiến trúc, hiện vật chưa từng được thấy trước đây. Ðiển hình là thời Trần, có một dấu tích kiến trúc tròn đường kính hơn 5 m, chung quanh có dấu tích cống ngầm và lớp văn hóa dày đặc gạch, ngói và dấu tích cháy, vỏ nhuyễn thể biển. Cạnh đó, là một chậu đất nung trang trí rất đẹp, có đường kính lên tới 1,2 m. Dấu tích kiến trúc này được xây dựng hết sức công phu. Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam Tống Trung Tín cho rằng, có thể đó là một tiểu cảnh trong Hoàng cung, thậm chí, cũng có thể là một công trình tâm linh thời xưa cho nên mới được tạo tác cẩn thận như vậy. Ðối với hiện vật thời Lê, gây ấn tượng mạnh nhất cho các nhà khoa học là mô hình một bộ mái bằng gốm men xanh. Ðây là lần đầu tiên, các nhà khoa học tìm thấy một mô hình mà hệ thống kèo, xà, đấu củng, đầu dư, cách lợp bộ mái âm dương… được thể hiện chi tiết như thế. Rồng chạm ở phần đầu dư có hình thái giống hệt so với rồng tại thềm điện Kính Thiên. Bộ mái này là cơ sở hết sức quan trọng để phục dựng điện Kính Thiên thời Lê theo chủ trương của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội.

Ðối với hiện vật thời Lê Trung hưng, cũng ở khu vực phía đông bắc điện Kính Thiên, gần với khu vực khảo cổ lần này, đợt khảo cổ năm 2019 đã xác định được tiểu cảnh vườn hoa gồm: Ðường đi, bồn hoa, sân gạch... thì với những kết quả khai quật mới, các dấu tích này tiếp tục xuất hiện về phía bắc, giúp xác định rõ hơn ranh giới của công trình. Ðiển hình như có một ngòi nước, trước đây đã phát hiện 60 m, nay đã đào và phát hiện thêm một đoạn 20 m nữa. Cạnh đó có một công trình kiến trúc chạy dài, dường như ngòi nước chạy đến đâu thì kiến trúc gỗ chạy đến đó.

Ðiều không bất ngờ là tương tự các cuộc khai quật trước, các lớp hiện vật xếp chồng lên nhau, từ thời tiền Thăng Long, cho đến Thăng Long qua các đời Lý, Trần, Lê, Lê Trung hưng, Nguyễn. Những hiện vật tìm được đều đặt ra những câu hỏi mới.

Ðịnh vị lại việc khai quật khảo cổ

Mỗi lần khai quật, chúng ta lại có thêm… những câu hỏi mới. Các nhà khoa học vừa mừng, vừa lo. Nói theo cách của Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, TS Nguyễn Văn Sơn, thì nếu tiếp tục như thế này, có lẽ phải đến hết thế kỷ chúng ta cũng chưa nhận thức được giá trị của Hoàng thành Thăng Long. Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn nhấn mạnh: “Việc nghiên cứu Hoàng thành Thăng Long là nhiệm vụ lâu dài. Nhưng chúng ta cần thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Thí dụ như chúng ta đang mong muốn thực hiện phục dựng điện Kính Thiên, thì nên tập trung khai quật khảo cổ ở những khu vực liên quan trực tiếp, thay vì mỗi năm đào một nơi, khai quật xong chúng ta lấp lại như hiện nay. Chúng ta cần có chương trình nghiên cứu rõ ràng hơn”.

Nhiều nhà khoa học khác cũng chia sẻ quan điểm này của TS Nguyễn Văn Sơn. Vấn đề phục dựng điện Kính Thiên hiện nay đã giải quyết được phần mái. Tuy nhiên, phần bước gian, cột, nội thất ra sao thì còn nhiều câu hỏi. Trước đây, các cuộc khai quật khảo cổ từng đào được một móng cột lớn ở khu vực điện Kính Thiên. Nhưng từ đó, lại chưa có cuộc khai quật nào ở khu vực nền điện Kính Thiên được tiến hành. TS Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng cách mạng Việt Nam cũng cho rằng, chúng ta cần có định hướng rõ ràng hơn trong công tác khai quật khảo cổ. Ðối với phục dựng điện Kính Thiên, khi tìm được hiện vật, tư liệu gì phải xây dựng hồ sơ ngay, giải quyết từng bộ phận. Cần có nghiên cứu đồng bộ, đồng thời cũng phân nhánh các nghiên cứu về Hoàng thành Thăng Long, về điện Kính Thiên. Như vậy, chúng ta mới có đủ tư liệu để phục dựng điện Kính Thiên. Cũng về vấn đề này, TS Nguyễn Viết Chức, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội cho biết, nhận thức về Hoàng thành Thăng Long ngày nay đã khác xưa rất nhiều, giá trị của Hoàng thành Thăng Long đã được khẳng định. Do đó, các nhà khoa học cần phải đề xuất để chính quyền thành phố làm mạnh hơn nữa, nhất là trong phục dựng một số công trình, tổ chức trưng bày các nghiên cứu… để đáp ứng mong mỏi của nhân dân.

Ðến thời điểm này, công tác khai quật khảo cổ Hoàng thành Thăng Long đã thực hiện được trên diện tích gần 10 nghìn m2 tại khu vực Thành cổ (chưa tính Khu khảo cổ số 18 phố Hoàng Diệu). Ðây là một công trường khảo cổ rất lớn, nhưng rõ ràng, công tác khai quật cần triển khai có trọng tâm, để đáp ứng nhiệm vụ lâu dài, đồng thời, đáp ứng yêu cầu trước mắt trong phát huy giá trị, giới thiệu giá trị Hoàng thành đến công chúng, thu hút khách du lịch.

Việt Hưng (Nhân dân)


 
                                                                                               
       Phong cảnh ruộng bậc thang gần Pokhara, Nepal ( nguồn: Erle Ellis)


Nhóm nghiên cứu liên ngành, bao gồm các nhà khảo cổ học, sinh thái học, nhân chủng học và quản lý bảo tồn, đã tái tạo lại dân số cổ và việc sử dụng đất để cho thấy rằng cách đây 12.000 năm, con người đã định hình lại phần lớn sinh quyển trên cạn.  Nghiên cứu được đứng đầu bởi Giáo sư Nicole Boivin, Giám đốc Khoa Khảo cổ học tại Viện Max Planck về Khoa học Lịch sử con người ở Jena, Đức, nhằm xem xét các tác động của việc sử dụng đất trong quá khứ cho  các nỗ lực bảo tồn đương đại. Dữ liệu của họ thách thức ý tưởng: bảo tồn là trả lại các vùng đất về trạng thái tự nhiên và nguyên sơ của chúng.

Giáo sư Boivin nhận xét: "Phần lớn diện tích đất mà chúng ta coi là 'hoang sơ” ngày nay thực tế đã được định hình bởi hàng thiên niên kỷ hoạt động của con người". "Nhưng không phải tất cả các hoạt động của con người đều 'xấu.' Nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện ra mối tương quan chặt chẽ giữa các khu vực đa dạng sinh học cao và các khu vực do cư dân  Bản địa và truyền thống chiếm đóng một thời gian dài. "
Bắt đầu từ hàng nghìn năm trước, xã hội loài người từ lâu đã định hình lại cảnh quan thông qua các hoạt động đốt cháy, quản lý, nông nghiệp và thuần hóa động thực vật. Những hoạt động này đã làm cho cảnh quan trở nên năng suất hơn cho con người. Nhưng rõ ràng là trong nhiều trường hợp, các hoạt động này đã hỗ trợ mức độ phong phú loài cao và làm phong phú đa dạng sinh học.

Giáo sư Boivin lưu ý "Vấn đề không phải là do con người sử dụng".  "Vấn đề là loại hình sử dụng đất mà chúng ta thấy trong các xã hội công nghiệp hóa - được đặc trưng bởi các hoạt động nông nghiệp không bền vững và việc khai thác và chiếm dụng một cách không kiểm soát”.
Công việc này có ý nghĩa lớn đối với các hoạt động bảo tồn. Thay vì cố gắng trả lại đất đai ở trạng thái 'nguyên sơ' không thể đạt được, các tác giả chứng minh rằng nỗ lực bảo tồn sẽ đạt được nhiều hơn như thế nào bằng cách trao quyền cho các xã hội bản địa và truyền thống cũng như hỗ trợ quản lý hệ sinh thái bền vững cộng đồng, địa phương.

Bằng cách so sánh hàng thiên niên kỷ sử dụng đất toàn cầu với mức độ đa dạng sinh học hiện tại, các nhà khoa học chứng minh di sản văn hóa và thiên nhiên thường song hành với nhau như thế nào. Tác giả chính của nghiên cứu, Giáo sư Erle C. Ellis thuộc Đại học Maryland, Baltimore, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Bảo tồn có thể gạt hái được nhiều thành công từ việc hợp tác chặt chẽ hơn với các nhà khảo cổ , các nhà nhân chủng học để hiểu được lịch sử lâu dài của các khu vực mà họ đang nghiên cứu.
Giáo sư Boivin khẳng định: “Một số nỗ lực bảo tồn trước đó tập trung vào việc tách  con người khỏi vấn đề  phức tạp đối với bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, hoặc để cảnh quan do con người thay đổi trở lại trạng thái nguyên sơ của chúng. "Chúng ta đang tranh cãi về một điều gì đó khác biệt. Chúng ta cần nhận ra  một số hoạt động của  con người - đặc biệt là các hoạt động quản lý đất đai truyền thống hơn mà chúng ta thấy trong hồ sơ khảo cổ hoặc được nhiều cư dân bản địa thực hiện ngày nay – chúng thực sự hỗ trợ đa dạng sinh học.  Vì vậy, chúng ta cần thúc đẩy và đưa nó vào thực tiễn . "
 
Tài liệu tham khảo:
https://www.eurekalert.org/pub_releases/2021-04/mpif-add041521.php
 
Người dịch: Minh Trần.
 

 

Các nhà khảo cổ thuộc Đại học York, Anh cho biết vai trò theo giới, không hẳn là một dấu hiệu của sự bất bình đẳng giới, mà nó thể hiện các xã hội nông nghiệp phát triển như thế nào


                               
Cuộc khai quật khảo cổ học di chỉ cư trú thời kỳ Đá mới gần Motza Junction, cách Jerusalem, Israel khoảng 5km về phía tây (nguồn: the Independent)

Theo một nghiên cứu mới làm sáng tỏ hơn về sự gia tăng bất bình đẳng giới trong thời kì Đá mới:  sự lan rộng của các hoạt động nông nghiệp trên khắp châu Âu cách đây 5000 năm có thể đã tạo ra sự phân công lao động theo giới  trong quần thể dân số.
 Trong nhiều thế kỷ, các nhà sử học và khoa học cho rằng khi những người nguyên thuỷ tìm kiếm thức ăn, đàn ông săn bắn và phụ nữ hái lượm, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự phân công lao động dựa trên giới tính có thể chưa tồn tại cho đến khi nông nghiệp ra đời.
Năm ngoái, các nhà khoa học, bao gồm cả các nhà khoa học từ Đại học California, Davis, đã báo cáo kết quả nghiên cứu về mộ nữ thợ săn 9.000 năm tuổi trên dãy núi Andes. Nghiên cứu chỉ ra rằng việc phụ nữ tham gia vào các cuộc săn lớn sơ khai có khả năng phổ biến hơn những suy nghĩ trước đây.
Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà khoa học, bao gồm các nhà khoa học từ Đại học York ở Anh, đã phân tích hơn 400 công cụ  đá được chôn trong các ngôi mộ tại các  nghĩa địa khác nhau ở Trung Âu khoảng 5.000 năm trước trong thời kỳ Đá mới.

Theo nghiên cứu công bố trên tạp chí PLOS ONE, các công cụ tìm thấy trong các ngôi mộ phụ nữ rất có thể liên quan đến hoạt động xử lí da động vật, trong khi những công cụ chôn cùng nam giới có liên quan đến săn bắn và xung đột tiềm ẩn.
Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy sự khác biệt về địa lý trong các kết quả dọc theo hướng đông tây từ Slovakia đến miền đông nước Pháp, cho thấy rằng sự phân công lao động này có liên quan đến sự lan rộng của các phương thức canh tác về phía tây.
Ở các khu vực phía đông, họ tìm thấy bằng chứng cho thấy phụ nữ thời này di chuyển nhiều hơn nam giới và đồ trang trí bằng vỏ sò và đồ trang sức được chôn theo không liên quan đến giới tính của chủ nhân.
Ngược lại, các nhà khảo cổ học phát hiện thấy ở phương Tây, đàn ông di chuyển nhiều hơn và có nhiều công cụ liên quan đến săn bắn hơn phụ nữ.

Dựa trên những phát hiện này, các nhà nghiên cứu cho rằng phân công lao động theo giới có thể là một phần quan trọng của quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp trong các xã hội loài người.
Theo Penny Bickle, đồng tác giả nghiên cứu này từ Khoa Khảo cổ học Đại học York, các vai trò theo giới tính, không hẳn là dấu hiệu của bất bình đẳng giới ban đầu, mà cho thấy các xã hội nông nghiệp phát triển  như thế nào và họ nhận thức được sự khác biệt ra sao về kỹ năng của các thành viên trong cộng đồng của họ.
Các công việc liên quan đến phụ nữ là công việc chân tay đòi hỏi sự khéo léo,tỉ mỉ  và bổ sung cho công việc của nam giới với tư cách là những người đóng góp bình đẳng cho cộng đồng. Việc bạn nhìn thấy những hiện vật này trong mộ của đàn ông và phụ nữ chứng tỏ chúng được đánh giá cao như thế nào đối với những công việc này, ”Bickle khẳng định.
Trong khi các công cụ được phân tích có thể không nhất thiết phải được sử dụng bởi những người mà chúng được chôn cùng, các nhà khảo cổ học cho biết các hện vật này có thể được chọn để đại diện cho các hoạt động được thực hiện bởi các giới tính khác nhau.
Các nhà nghiên cứu tin rằng những phát hiện này có thể làm sáng tỏ hơn các yếu tố phức tạp liên quan đến sự gia tăng bất bình đẳng giới trong thời đại Đá mới và mối liên hệ của chúng với sự phân công lao động trong quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp.

Tài liệu tham khảo 
https://www.independent.co.uk/news/science/archaeology/gender-division-of-labour-farming-b1831763.html
https://www.msn.com/en-gb/news/world/humans-only-started-assigning-men-and-women-different-jobs-with-advent-of-farming-study-suggests/ar-BB1fGjuP

Người dịch: Minh Trần
 

Ngày 22/4 tại Hoàng thành Thăng Long, đoàn khai quật Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long-Hà Nội và Viện Khảo cổ học công bố nhiều phát hiện mới tại khu vực khai quật rộng gần 1.000m2 phía Đông Bắc của di tích nền điện Kính Thiên.

Nổi bật trong số các phát hiện lần này là chiếc giếng sâu nhất từ trước đến nay mà các nhà khảo cổ tìm được, một chiếc chậu lớn đời Trần miệng rộng 1,2m và một khu mộ đôi bằng gạch.

Nhiều phát hiện quý giá

PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ Việt Nam, cho hay trong lớp cắt dày 3,3m, các nhà khoa học tìm thấy 5 lớp văn hóa chồng lên nhau gồm thời Nguyễn, thời Lê trung hưng, thời Lê sơ, thời Trần, thời Lý và thời kỳ tiền Thăng Long.

Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 1PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ Việt Nam, dẫn đoàn chuyên gia khảo sát miệng giếng mới tìm được. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)

Cách di tích Hậu Lâu khoảng 10m về phía Đông Nam, đoàn khảo cổ tìm thấy một chiếc giếng xuất lộ ở độ sâu 1,3m so với mặt đất hiện nay. Giếng có độ sâu gần 7m, là chiếc giếng sâu nhất từng được tìm thấy.

Thân giếng được đào rất rộng, khoảng 3m, đáy lát các phiến đá bằng phẳng, lòng giếng hình tròn, xếp nhiều lớp đá xanh và cuội suối cỡ lớn rất cẩn thận từng lớp, tạo độ bằng phẳng và tính mỹ thuật cao.

“Đây là cách xây dựng quen thuộc của các di tích thời Trần, thế kỷ 13-14. Chúng tôi phỏng đoán giếng nước này được xây dựng để phục vụ điện Cần Chánh, nơi Vua thiết triều hàng ngày,” ông Tín nói.

[Công bố thành tựu nổi bật trong nghiên cứu khảo cổ học tại Việt Nam]

Ông cho biết thêm rằng trong lòng giếng phát hiện tiền đồng “Cảnh Thịnh thông bảo.” Cảnh Thịnh là niên hiệu từ năm 1793 đến năm 1801 của vua Nguyễn Quang Toản (1783-1802), con của Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ. Sự xuất hiện của tiền Cảnh Thịnh ở phần đáy cho thấy giai đoạn này giếng chưa bị lấp.

Cũng tại khu vực này, các nhà khảo cổ tìm thấy một chiếc chậu lớn, đường kính 1,2m, cao 55cm, miệng trang trí hoa mai, hoa sen và liên châu. Đây có thể là chiếc chậu đất nung có kích thước lớn nhất còn khá nguyên vẹn, thuộc thời Trần.

PGS.TS Tống Trung Tín thông tin về kết quả khai quật:

"Tại hố sâu nhất của khu di chỉ, đoàn khảo cổ học cũng phát hiện dấu tích nhiều thời kỳ. Ở độ sâu 4,8m, đây là nơi có niên đại phức tạp nhất và khó khai quật nhất," PGS.TS Tống Trung Tín cho biết.

Tại đây, các nhà khảo cổ cũng đã có một phát hiện lớn nhất trong cả quá trình khai quật thời gian qua, đó là 2 mộ táng gạch thời kỳ tiền Thăng Long.

Hai mộ gạch nằm song song theo hướng Đông Bắc, xây theo kiểu cuốn vòm. Trong khu mộ, phát hiện 3 vò gốm và tiền đồng. Đáng tiếc là ở thời kỳ sau này, có một ngòi nước đi qua nên hiện chỉ còn tìm được thành mộ và đáy mộ.

“Đây là khu trung tâm Hoàng thành, chúng tôi tự đặt câu hỏi tại sao lại có mộ táng ở đây, từ đó có thể cho rằng khu mộ này xuất hiện trước khi có Hoàng thành. Khu mộ ở địa tầng sâu nhất cho thấy dấu tích cư trú của con người khá sớm, từ thế kỷ 4-6, trước thời kỳ Đại La,” ông Tín giả định.

Sáng tỏ thêm giá trị của di sản Hoàng thành

Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 2Mảnh hiện vật từ đời Lê có hoa văn rõ nét. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)

Cuộc khai quật năm 2020-2021 đã phát lộ nhiều thông tin mới, góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị di tích Hoàng thành Thăng Long qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, còn nhiều ẩn số cần thảo luận nghiên cứu thêm, chẳng hạn như một kiến trúc hình tròn rất rộng, có vẻ phổ biến trong kiến trúc đời Trần nhưng hiện nay nhóm các nhà khảo cổ chưa biết đó là gì, có chức năng gì trong khu vực Hoàng thành.

Là người theo đuổi khảo cổ học tại Hoàng thành từ những ngày đầu, PGS.TS Tống Trung Tín khẳng định di tích đang được làm rõ qua từng năm, các nhà khoa học kỳ  vọng sẽ vẽ được toàn bộ mặt bằng Hoàng thành qua các thời kỳ. Tuy nhiên, để tránh việc “thầy bói xem voi,” cần tiếp tục khai quật và tham vấn ý kiến các chuyên gia trong các ngành liên quan.

“Hiện nay chúng tôi ước tính mới khai quật được 7% di tích Hoàng thành, cần tiếp tục nghiên cứu để tiến tới phục dựng một phần nào đó của hoàng cung khi xưa,” ông Tín nói./.

Một số hình ảnh tại khu khai quật:

Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 3Hình ảnh miệng giếng. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 4Kiến trúc hình tròn rộng 5m được các chuyên gia xác định là thuộc thời Trần nhưng chưa rõ chức năng sử dụng. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 5Dấu tích cột đá. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 6(Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 7Chậu đất nung đường kính 1,2m, lớn nhất từ trước đến nay thuộc thời Trần. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 8Hình ảnh giả thiết hình dáng chiếc chậu nguyên vẹn. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 9Hố khai quật chia thành nhiều tầng văn hóa. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 10Hiện nay, hố khai quật này có tổng diện tích gần 1.000m2. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 11Những viên gạch thời Nguyễn. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 12Các hiện vật được sắp xếp theo các thời kỳ. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 13Hoa văn trên gạch mái thời Lê trung hưng. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Cong bo nhieu phat hien khao co quan trong o Hoang thanh Thang Long hinh anh 14Chiếc chậu thời Trần còn nguyên vẹn. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Minh Thu (Vietnam+)
Sáng 20/4 (tức 9/3 âm lịch), tại sân Lễ hội Cố đô Hoa Lư, Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức hội thảo báo cáo sơ bộ kết quả nghiên cứu khảo cổ học vùng đất từ ngã ba sông Bôi đến Kinh đô Hoa Lư giai đoạn đầu Công Nguyên đến thời kỳ Nhà nước Đại Cồ Việt.
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia đầu tiên ở châu Á sản xuất đồ gốm hoa lam và đồ gốm vẽ nhiều màu. Ý tưởng của phát minh đồ gốm hoa lam được bắt nguồn từ màu men xanh quyến rũ phủ trên những chiếc bình gốm xốp của người Hồi giáo vùng Tây Á mà họ đã đem sang thị trường châu Á qua con đường giao lưu thương mại biển diễn ra từ thời Đường (618-907). Sau đó, người Trung Quốc đã nhập men xanh của người Hồi và dùng nó để vẽ hoa văn trên đồ gốm trước khi phủ men và đem nung, từ đó họ đã sáng chế ra loại gốm hoa lam đầu tiên tại lò Trường Sa (tỉnh Hồ Nam). Nhưng phải đến thời Nguyên (thế kỷ 14), những đồ gốm hoa lam đích thực và hoàn hảo mới được ra đời từ các lò gốm ở vùng Cảnh Đức Trấn (tỉnh Giang Tây) (S.T.Yeo & Jean Martin 1978; Bùi Minh Trí - Kerry Nguyễn Long 2001).
Trong cùng bối cảnh đó, vào cuối thời Trần (đầu thế kỷ 14), lò gốm Thăng Long cũng bắt đầu sản xuất đồ gốm hoa lam, tuy chất lượng của nó chưa thể sánh vai với đồ sứ hoa lam Trung Quốc. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, gốm hoa lam Việt Nam đã nhanh chóng đạt được nhiều thành tựu rất đáng kể. Nó không những được sản xuất rộng rãi cho thị trường nội địa mà còn là mặt hàng xuất khẩu trong cùng bối cảnh với đồ sứ Trung Quốc sang thị trường Đông Nam Á, Đông Á và các nước vùng Tây Á xa xôi. Đặc biệt, từ thế kỷ 15, dưới triều đại Lê sơ (1428-1527), sau khi thoát khỏi ách thống trị của nhà Minh (1407-1427), ngành công nghệ chế tạo gốm Việt Nam thực sự phát triển cả về qui mô và chất lượng sản phẩm. Đây chính là thời kỳ gốm hoa lam Việt Nam thăng hoa, đạt đến đỉnh cao của sự hoàn mỹ cả về hình dáng và hoa văn trang trí (Bùi Minh Trí - Kerry Nguyễn Long 2001).
Trong thời đại hoàng kim đó, đồ gốm hoa lam Việt Nam bắt đầu nâng tầm lên đỉnh cao của sự hoàn hảo bằng phương thức trang trí mới. Đó là việc đưa công nghệ vẽ nhiều màu trên men vào gốm hoa lam, tạo cho đồ gốm hoa lam có nhiều màu sắc hơn, mang vẻ đẹp quyền quý, cao sang hơn mà hiếm có dòng gốm nào có thể sánh được. Những sản phẩm gốm này được xem là một trong những dòng gốm sứ đẹp và quý hiếm, được gọi chung là Gốm vẽ nhiều màu.
Gốm vẽ nhiều màu sử dụng hai loại màu chính là màu vẽ dưới men (men nặng lửa) và màu vẽ trên men (men nhẹ lửa). Màu vẽ dưới men là màu xanh lam được vẽ phác họa lên sản phẩm rồi phủ men, sau đó đưa vào lò nung thành đồ gốm hoa lam. Màu vẽ trên men là những màu được vẽ tiếp ở các phần mẫu phác họa màu lam dưới men trước đó bằng các men màu sắc khác nhau (xanh, đỏ, vàng), sau đó đem nung lần 2 với nhiệt độ thấp để màu bám chặt lên men. Hoa văn màu lam dưới men và các đường nét trang trí nhiều màu trên men được kết hợp tinh tế, hài hòa, tạo thành tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo. Từ thành công của phát minh này, các thợ gốm Việt Nam đương thời tiếp tục sáng tạo ra loại gốm vẽ hoàn toàn bằng nhiều màu sắc trên men như lối vẽ trên đồ gốm hoa lam mà không kết hợp với việc vẽ màu xanh lam dưới men. Từ phân tích công nghệ này có thể thấy, gốm vẽ nhiều màu Việt Nam có hai loại chính: Loại thứ nhất là vẽ hoa lam dưới men và vẽ men đỏ, men xanh lục và vàng trên men; Loại thứ hai chỉ vẽ men đỏ, men xanh lục và vàng trên men, không vẽ lam dưới men.
Vì hoa văn màu lam vẽ dưới men và các trang trí trên men dường như hòa hợp lại, tạo vẻ đẹp độc đáo riêng biệt cho loại gốm đặc biệt này nên người Trung Quốc gọi là Doucai (Đấu thái). Người Nhật Bản sử dụng thuật ngữ Iroe (vẽ trên men) để nói đến kỹ thuật vẽ men màu lên trên đồ gốm hoa lam như dòng gốm Kakiemon[1] nổi tiếng. Các học giả phương Tây và châu Âu thường dùng thuật ngữ tiếng Anh là gốm nhiều màu (polychrome) hay vẽ trên men (enamel) khi mô tả các loại gốm vẽ nhiều màu (John Stevenson - John Guy 1997).
Thuật ngữ gốm nhiều màu (polychrome) nêu trên mang tính chất chung chung, chưa phản ánh được bản chất, bao hàm sự lẫn lộn giữa gốm men nhiều màu và gốm vẽ nhiều màu men. Thuật ngữ này chỉ phù hợp khi dùng để phân biệt với loại gốm đơn sắc (monochrome), tức là loại gốm có một màu men (men trắng, men ngọc, men nâu, men vàng). Những đồ gốm được phủ 3 màu men hay 5 màu men được gọi là gốm nhiều màu. Do đó, nếu sử dụng thuật ngữ gốm nhiều màu, ta sẽ không có sự phân biệt về kỹ thuật học cũng như lịch sử ra đời và phát triển của loại gốm phủ nhiều men màu và loại gốm vẽ hoa văn bằng nhiều màu men (hay gọi là gốm vẽ nhiều màu). Theo lịch sử gốm sứ Trung Quốc, thì gốm nhiều màu (tam thái, ngũ thái) đã có từ thời Đường (618-907), nhưng gốm vẽ nhiều màu men (đấu thái) thì đến đời Thành Hóa triều Minh (1465-1487) mới bắt đầu sản xuất tại lò Cảnh Đức Trấn (National Palace Museum 2007: 85-89; Li Zhiyan and Cheng Wen 1996: 71-96). Theo đó, khái niệm gốm nhiều màu ở đây cần hiểu là nói đến những loại gốm được phủ hoặc tô điểm nhiều màu men trên cùng sản phẩm, giống như gốm Trung Quốc thời Đường hay gốm Bát Tràng thời Nguyễn. Gốm vẽ nhiều màu về kỹ thuật và nghệ thuật nó hoàn toàn khác về bản chất so với loại gốm nhiều màu. Bởi trước hết đây là loại gốm được vẽ trang trí hoa văn bằng bút lông và được đưa vào lò nung hai lần chứ không phải là loại gốm được phủ men, nung một lần để tạo thành những mảng màu trang trí.
Làm rõ khái niệm trên chính là để chúng ta có cơ sở khoa học hơn trong việc nghiên cứu đánh giá về thành tựu công nghệ chế tác đồ gốm, cũng như nhận diện rõ hơn về đặc trưng nghệ thuật và lịch sử phát triển đồ gốm Việt Nam.
Gốm vẽ nhiều màu Việt Nam tuy đã được giới thiệu trong một số công trình nghiên cứu, nhưng chưa bao giờ được xem là một dòng gốm riêng biệt mà thường được đặt trong cùng bối cảnh đồ gốm hoa lam. Do đó, sự hiểu biết về lịch sử và sự phát triển của gốm vẽ nhiều màu Việt Nam còn chưa đầy đủ và có rất nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề kỹ thuật, nghệ thuật, niên đại, nguồn gốc và vai trò của nó trong đời sống văn hóa xã hội đương thời.
Kết quả nghiên cứu đồ gốm khai quật được tại Hoàng thành Thăng Long trong những năm 2002-2004 và 2008-2009 đã cung cấp thêm nhiều tư liệu mới quan trọng, minh chứng thuyết phục về nguồn gốc, niên đại và kỹ thuật sản xuất đồ gốm vẽ nhiều màu Việt Nam. Theo đó, dựa trên kết quả nghiên cứu hệ thống tư liệu từ các sưu tập gốm Việt Nam phát hiện được tại các di tích khảo cổ học hay trong các sưu tập bảo tàng và tư nhân nổi tiếng ở trong và ngoài nước cùng ký sự đương thời, bài viết này sẽ giới thiệu tổng quan về gốm vẽ nhiều màu Việt Nam cùng những phân tích sâu hơn về niên đại, nguồn gốc và những thành tựu nổi bật về công nghệ chế tạo cũng như vai trò của nó trong đời sống văn hóa xã hội đương thời với hy vọng góp phần nâng cao sự hiểu biết về lịch sử và nghệ thuật gốm sứ Việt Nam.
(Than Hang theo Tạp chí KCH số 1/2021)
 
[1] Kakiemon là tên một người làm gốm nổi tiếng đã phát minh ra đồ sứ tráng men ở Nhật Bản vào giữa thế kỷ 17 ở Arita trong tỉnh Hizen. Tác phẩm của ông cũng như những sản phẩm làm theo phong cách của ông đều được gọi theo tên ông. Sản phẩm nổi tiếng của Kakiemon là loại đồ sứ vẽ nhiều màu trên men với sắc màu rạng rỡ, gồm màu đỏ, màu vàng, màu xanh lá cây và màu xanh tím (xem thêm Noritake Tsuda, 1990: Sổ tay Nghệ thuật Nhật Bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội).
Ngày 20-4, tại Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình và Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội) phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học báo cáo kết quả nghiên cứu khảo cổ học năm 2021, tại khu vực di tích cố đô Hoa Lư và vùng lân cận.
 

Xuất lộ những dấu vết kiến trúc gợi mở về quy mô kinh đô

Theo sử liệu văn bản, khu vực này, xưa là huyện Vô Công/Vô Thiết của quận Cửu Chân thời thuộc Hán, là Trường Châu thời thuộc Đường. Cuộc khai quật tại Di tích cố đô Hoa Lư năm 2021, nhằm nghiên cứu tìm kiếm những tư liệu, hiện vật có thể xác định khu vực trị sở huyện lỵ của chính quyền phong kiến đóng tại vùng đất Ninh Bình từ đầu Công nguyên đến thời kỳ Nhà nước Đại Cồ Việt, làm rõ quy mô, vị trí, kỹ thuật xây dựng… của các kiến trúc cung điện thời Đinh - Tiền Lê phân bố ở đây.

Các đại biểu tham quan các di tích xuất lộ trong hố khai quật cạnh đền Vua Lê

Các hố khai quật tại khu vực Di tích Cố đô Hoa Lư đã làm xuất lộ các lớp kiến trúc thời Đại La và thời Đinh - Tiền Lê nằm chồng xếp lên nhau, nền kiến trúc và lớp nền, móng kiến trúc thời Đại La.

Qua nghiên cứu so sánh có thể nhận định, nền kiến trúc thuộc thời Đại La, có niên đại trước thế kỷ 10 cho đến giai đoạn tu sửa, tôn tạo kiến trúc thời Đinh - Tiền Lê.

Tại khu vực hố khai quật ở cánh đồng Nội Trong, phía nam Đền Vua Đinh đã làm lộ ra nền móng kiến trúc dùng cát sỏi laterite màu nâu sẫm trộn cùng đất và vỏ nhuyễn thể, trên bề mặt rải đầm thêm các mảnh gạch ngói vỡ vụn đắp trải rộng thành nền kiến trúc cung điện rất cứng chắc.

Thêm những điều thú vị về kinh đô Hoa Lư -0
 Cuộc khai quật đã làm xuất lộ những  dấu vết kiến trúc độc đáo.

Trong phạm vi hố đào phát lộ ba cụm cọc và gia cố cọc gỗ nằm gần thẳng hàng, có cột đường kính hơn 30cm được đóng âm vào sinh thổ đến độ sâu từ 1,8m đến 2,5m tính từ mặt nền kiến trúc. Đây là cột nhà và cột móng kè của kiến trúc nhà cửa, cung điện.

Di vật thu được là các loại gạch, ngói, gốm sứ, sành… gồm nhiều niên đại kéo dài từ thời Hán đến thời Đinh - Tiền Lê. Trong đó vật liệu xây dựng giai đoạn thế kỷ 7-9 có số lượng nhiều nhất.

 
Dấu tích hàng cọc gia cố móng kiến trúc được các nhà khảo cổ học tìm thấy tại kinh đô Hoa Lư.

Từ các di tích kiến trúc và di vật xuất lộ, bước đầu ghi nhận, đây là kiến trúc giai đoạn Đại La, sau đó được nhà Đinh sử dụng lại ở giai đoạn đầu lập quốc.

Từ kết quả đợt khai quật năm 2021, bước đầu cho phép nhận định về quy hoạch chung của kinh thành Hoa Lư, gồm hai khu vực Thành Nội và Thành Ngoại. Hoàng thành nằm ở phía bắc Cấm thành, hiện là khu vực từ Cổng Bắc Di tích Cố đô Hoa Lư đến núi Cột Cờ, có thể là nơi ở của giới tăng lữ, quý tộc và tướng lĩnh cấp cao. Các di tích còn lại là chùa Nhất Trụ có lẽ xưa là nơi ở của các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Đa Bảo… và các phủ đệ nay là nơi thờ tự.

Thêm những điều thú vị về kinh đô Hoa Lư -0
Dấu tích các lớp kiến trúc xếp chồng lên nhau.


Các đại biểu tham dự Hội thảo tại Hoa Lư

Nhiều minh chứng về sự phát triển văn hóa, kinh tế và chính trị

Kết quả khai quật khảo cổ ở Di tích Cố đô Hoa Lư và các mộ gạch Đền Hạ, Đồi Cò (Nho Quan), Đồi Chùa (Gia Viễn) đóng góp thêm những nhận thức mới về vùng đất Ninh Bình giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên và Kinh đô Hoa Lư ở thế kỷ 10 lịch sử.

Khai quật di tích mộ gạch ven bờ sông Na

Các di tích mộ gạch phân bố quanh ngã ba sông Bôi - sông Hoàng Long từ đầu Công nguyên cho đến các dấu tích di tích, di vật thời Đại La ở Cố đô Hoa Lư đều ghi nhận vùng đất Ninh Bình xưa đã được các triều đại phong kiến phương Bắc quan tâm xây dựng từ rất sớm. Kết quả khai quật bước đầu ghi nhận, đây là những ngôi mộ thời Đông Hán. Mộ gạch là minh chứng cho trình độ phát triển không chỉ về văn hóa, kinh tế mà còn cả về mặt chính trị. Những tư liệu về mộ gạch mới được khai quật góp phần làm phong phú thêm bức tranh lịch sử, văn hóa, xã hội vùng đất Ninh Bình trong 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Điều này có thể lý giải cho sự hình thành và phát triển vượt bậc của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh cũng như việc thành lập và phát triển kinh đô Hoa Lư sau này.

Đợt khai quật đã làm phát lộ nhiều di tích kiến trúc và nhiều di vật phản ánh sinh động công cuộc dựng nước và giữ nước, cũng như đời sống văn hóa cung đình, hé mở phần nào diện mạo của một trị sở hành chính của chính quyền Bắc thuộc và sau đó là kinh thành Hoa Lư ở thế kỷ 10 lịch sử.

Thêm những điều thú vị về kinh đô Hoa Lư -0
Một số hiện vật của cuộc khai quật

Các nhà khoa học tham dự Hội thảo đã thống nhất với đoàn nghiên cứu kiến nghị UBND tỉnh Ninh Bình một số vấn đề:
- Cho phép Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp các cơ quan hữu quan tiếp tục khai quật nghiên cứu để có thêm những nhận thức rõ ràng hơn về lịch sử vùng đất Ninh Bình ở giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên và đặc biệt là sự hình thành, phát triển của Nhà nước Đại Cồ Việt với trung tâm là kinh đô Hoa Lư ở thế kỷ 10.
- Kết quả khai quật nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực Di tích Cố đô Hoa Lư đã xác định không gian phân bố của Kinh đô Hoa Lư xưa kéo dài từ Ngòi Chẹm (Cửa Bắc) đến hết khu cánh đồng Nội Trong, tổng diện tích phân bố trong khoảng gần 40ha. Chính vì vậy cần giữ nguyên hiện trạng di tích Cố đô Hoa Lư khu vực từ Ngòi Chẹm đến hết cánh đồng Nội Trong phục vụ nghiên cứu khảo cổ học.
- Hiện nay khu vực cánh đồng Nội Trong đã được giao cho Doanh nghiệp tư nhân khai thác các dự án khác. Do đó Hội thảo nhất trí đề nghị UBND tỉnh Ninh Bình cho phép Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp với các cơ quan hữu quan điều chỉnh Bản đồ Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch chi tiết bảo tồn - tôn tạo và phát huy giá trị vùng bảo vệ đặc biệt Cố đô Hoa Lư.

Những tư liệu thu được của đợt nghiên cứu sẽ góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá, giáo dục lịch sử - văn hóa Cố đô Hoa Lư nói riêng, lịch sử - văn hóa vùng đất Ninh Bình nói chung, thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách trong nước và quốc tế, phát huy tiềm năng du lịch của Khu di tích Cố đô Hoa Lư và cả tỉnh Ninh Bình nói chung.

Nguyễn Thơ Đình, Ngữ Thiên

 

Ngày 15/4/2021, tại Hà Nội, Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia đã tổ chức hội thảo “Chuyển đổi số tạp chí khoa học của Việt Nam” với mong muốn đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số của các tạp chí khoa học thông qua nền tảng Tạp chí Khoa học Việt Nam trực tuyến (Vietnam Journals Online-VJOL).
Tham dự hội thảo có ông Trần Đắc Hiến, Cục trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (sau đây gọi tắt là Cục Thông tin); ông Đào Mạnh Thắng, Phó Cục trưởng Cục Thông tin và gần 200 đại biểu là lãnh đạo của hơn 100 tạp chí khoa học của các Bộ, ngành, Viện Nghiên cứu, các trường đại học và hội nghề nghiệp.
Chuyển đổi số hiện nay đang là yêu cầu cấp thiết đối với các cơ quan tạp chí khoa học của Việt Nam. Trong những năm vừa qua, Cục Thông tin KH&CN quốc gia đã tích cực hỗ trợ các tạp chí khoa học thông qua hệ thống VJOL. Đây là nền tảng số cho phép tổng hợp lưu giữ, giới thiệu thông tin về các bài báo khoa học đã được xuất bản trên giấy của những tạp chí khoa học tự nguyện tham gia cung cấp thông tin trên website VJOL. VJOL cung cấp các công cụ giúp các tạp chí triển khai chuyển đổi số, giúp đơn giản hóa và chuyên nghiệp hóa quá trình biên tập, xuất bản tạp chí trên môi trường xuất bản trực tuyến, đồng thời VJOL là nền tảng hiệu quả giúp tăng cường sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các tạp chí khoa học đối với bạn đọc trong nước và quốc tế, phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy và tăng cường hội nhập quốc tế về KH&CN. Hiện nay đã có 120 tạp chí khoa học của Việt Nam tham gia đăng tải tạp chí lên website VJOL (
http://www.vjol.info.vn).

Hội thảo là cơ hội để đại biểu lắng nghe ý kiến, kinh nghiệm của các chuyên gia liên quan đến định hướng, xu thế xuất bản cũng như cách tiếp cận và ứng dụng chuyển đổi số trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Kết luận tại Hội thảo, ông Trần Đắc Hiến bày tỏ mong muốn qua hội thảo, các tạp chí khoa học nỗ lực hơn nữa cũng như tích cực, chủ động đưa tạp chí kịp thời lên VJOL để chia sẻ với cộng đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo VJOL phát triển mạnh hơn nữa, cán bộ kỹ thuật của Cục Thông tin sẵn sàng hỗ trợ đắc lực đối với những tạp chí chưa có đủ nguồn lực và năng lực để đăng ký tham gia VJOL và xây dựng tạp chí khoa học, nhằm đáp ứng được nhu cầu thông tin của bạn đọc đồng thời đáp ứng được yêu cầu về đảm bảo kinh doanh/phát hành ấn phẩm của các đơn vị xuất bản tạp chí.
(Theo https://vista.gov.vn/)

Thực hiện chương trình công tác Đoàn và phong trào Thanh niên năm 2021, thiết thực chào mừng Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931-26/3/2021), được sự đồng ý của Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, sáng ngày 26/3/2021, tại trụ sở số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Đoàn Viện Hàn lâm) tổ chức “Lễ mít tinh kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2021) và Đối thoại với Lãnh đạo Viện Hàn lâm”.



Tham dự buổi lễ có TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; PGS.TS. Nguyễn Đức Minh, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Trưởng ban Dân vận Viện Hàn lâm KHXHVN; đại diện Lãnh đạo các ban chức năng Viện Hàn lâm. Buổi lễ cũng vinh dự được đón tiếp các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm kể từ khi thành lập (năm 1953) đến nay (Đồng chí Phong Lê, Nguyên Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Nguyên Viện trưởng Viện Văn học; Đồng chí Hồ Anh Dũng, Nguyên Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Nguyên Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam; Đồng chí Lê Đức Thúy, Nguyên Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Đồng chí Võ Đại Lược, Nguyên Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Chính trị thế giới…). Về phía Đoàn Viện Hàn lâm có TS. Phạm Quang Linh, Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm; TS. Nguyễn Xuân Bách và ThS. Nguyễn Thị Hiền, Phó Bí thư Đoàn Viện Hàn lâm cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban chấp hành Đoàn Viện Hàn lâm, các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành các cơ sở đoàn thuộc và trực thuộc Đoàn Viện Hàn lâm, các đồng chí đoàn viên tiêu biểu được khen thưởng cấp Trung ương Đoàn và Đoàn Khối các cơ quan Trung ương năm 2020.
Chi tiết xem tại website:https://vass.gov.vn/tin-hoat-dong-doan-thanh-nien/Mit-tinh-Ky-niem-90-nam-ngay-751

 
         Thực hiện công văn số 515/VP-HCTH ngày 7 tháng 4 năm 2021 của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam về việc hưởng ứng cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND”.
           Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đề nghị Thủ trưởng các cơ quan trực thuộc chỉ đạo viên chức và người lao động triển khai và hưởng ứng cuộc thi, xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật năm 2021, góp phần tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2016.
           Thông tin cập nhật về Cuộc thi và các tài liệu liên quan được Ban tổ chức đăng tải trên website https://thitimhieuphapluat.moj.gov.vn/qt/cuocthi/Pages/trang-chu.aspx

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9744961
Số người đang online: 9