- Khổ sách: 16 x 24 cm
Là một thời đoạn đặc biệt của lịch sử, Vương triều Lê sơ (1428-1527) được đánh giá là ngọn núi cao nhất trong dãy núi của chế độ Phong kiến Việt Nam. Khác với nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Lê xác lập vương vị, trở thành vương triều có vầng hào quang rực rỡ đầy uy tín sau khi giải phóng dân tộc, củng cố chủ quyền đất nước và mở rộng lãnh thổ, đưa Đại việt tiến lên một cường quốc trong khu vực lúc đó, khiến lân bang phải e dè, kính nể. Cũng triều Lê sơ đã thực hiện những thành tích lớn lao về kinh tế, quân phân ruột đất để đảm bảo đời sóng nhân dân ổn định, chấn chỉnh giáo dục khoa cử để đào tạo bồi dưỡng hiền tài làm nguồn nguyên khí quốc gia. Nói như những lời văn khắc trên núi Bài Thơ của Nhà vua Lê Thành Tông, triều Lê Sơ đã kết hợp được cả võ công văn trị, thực hiện sự nghiệp “Trời nam sông núi bền muôn thuở / Ngưng võ sửa văn chính lúc này” (Thiên Nam vạn cổ sơn hà tại/Chín thị tu văn yển vũ niên).
“Vương triều Lê (1428-1527)” do GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc làm chủ biên là công trình tiếp nối những cuốn sách về các vương triều trong lịch sử Việt Nam của Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến giai đoạn 2. Đây là công trình khoa học tập hợp và tổng kết tương đối đầy đủ, khách quan và chuẩn xác về một thế kỷ của Vương Triều Lê (1428-1527), một trong ba vương triều rạng rỡ võ công, văn trị thời kỳ Văn hóa Thăng Long, Văn minh Đại Việt, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của đất nước Kinh đô Đông Kinh.
Nội dung sách đã cung cấp khá đầy đủ, hệ thống và toàn diện về lịch sử dân tộc trong 100 năm dưới Vương triều Lê sau khi khời nghĩa đã giành thắng lợi mang lại độc lập cho dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của nhà Minh: Khắc phục hậu quả sau 20 năm đô hộ của nhà Minh; từng bước xây dựng và củng cố nhà nước quân chủ tập quyền trên cơ sở một nền chính trị vững chắc (tổ chức chính quyền từ trung ương đến địa phương, quân đội vững mạnh, luật pháp hoàn chỉnh, chính sách đối nội và đối ngoại thể hiện một nhà nước vững mạnh và một quốc gia văn hiến); những chính sách khôi phục và phát triển kinh tế vừa góp phần ổn định xã hội, vừa chăm lo được đời sống nhân dân; văn hóa giáo dục có nhiều thành tựu rực rỡ thể hiện Đại Việt ở thế kỷ XV là một quốc gia văn hiến; hoạt động đối ngoại, đặc biệt trong quan hệ với nhà Minh, thể hiện một tinh thần độc lập, tự chủ...Một triều đại đạt được những thành tựu như vậy xứng đáng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Chương 1. Lê Thái Tổ (1428-1433): Sự nghiệp cứu nước, sáng lập vương triều, ổn định và phát triển.
Chương 2. Từ Lê Thái Tông đến Lê Nghi Dân (1433-1460): Bước thăng trầm của một chặng đường chuyển đổi.
Chương 3. Lê Thánh Tông (1460-1497): Giai đoạn phát triển toàn thịnh của vương triều.
Chương 4. Lê Hiến Tông và những triều vua cuối cùng (1497-1527): Quá trình suy yếu và lụi tàn.
Chương 5. 100 năm vương triều Lê trong tiến trình lịch sử đất nước.
Ngoài nội dung chính, sách còn có hai phụ lục: Một số văn khắc Hán nôm thời Lê sơ và Tuyển chọn môt số công trình viết về Vương triều Lê sơ.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Hà Nội - 2019
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 804 tr
Sau khi nhận “chuyển giao quyền lực” một cách êm thấm, từ họ Lý vào ngày 10 tháng 1 năm 1226, vương triều Trần chính thức bước vào lịch sử Đại Việt, mở đầu những trang vàng chói lọi của một thời kỳ mới đưa đất nước tiếp tục phát triển rực rỡ với những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực: Chính quyền trung ương được củng cố, tổ chức bộ máy quản lý đất nước được kiện toàn, nhanh chóng ổn định được tình hình hỗn loạn cuối đời Lý; nền kinh tế phát triển khá năng động với cả nông - công - thương nghiệp... Đặc biệt, vua tôi nhà Trần đã lãnh đạo quân dân Đại Việt anh dũng vượt qua ba lần xâm lăng của đế quốc Mông - Nguyên - đế quốc đã từng thôn tính và xóa sổ nhiều nền văn minh, nhiều dân tộc từ Á sang Âu - với quy mô và mức độ khốc liệt ngày càng cao vào các năm 1258, 1285 và 1287 - 1288. Đây là thắng lợi của tinh thần đoàn kết toàn dân, “cả nước đồng lòng, anh em hòa thuận”, “vua sáng tôi trung”, của ý chí và quyết tâm của những hoàng đế, quý tộc anh hùng và đông đảo những người lính - dân binh anh hùng khắc trên tay hai chữ Sát Thát.
Từ ngày thành lập vương triều cho đến lúc suy vong cách nay gần bảy trăm năm, sử sách đã tốn không ít giấy mực viết về giai đoạn này. Và có lẽ vương triều Trần với hào khí Đông A còn tiếp tục là đề tài nghiên cứu, sáng tác cho nhiều thế hệ mai sau. Công trình “Vương triều Trần (1226 - 1400)” do PGS.TS. Vũ Văn Quân chủ biên được chia làm 5 chương cùng với phần phụ lục. Tên gọi của từng chương cũng nói lên được đầy đủ nội dung.
Chương 1. Vương triều Trần thành lập: Chương này nói về triều Lý suy vong và thời kỳ vương triều Trần thành lập
Chương 2. Những năm tháng hào hùng: Trải qua các đời vua” Trần Thái Tông (1226 - 1258), Trần Thánh Tông (1258 - 1278), Trần Nhân Tông (1278 - 1292).
Chương 3. Tiếp tục ổn định và phát triển: Qua 3 triều vua: Trần Anh Tông (1293 - 1314), Trần Minh Tông (1314 – 1329), Trần Hiến Tông (1329 - 1341).
Chương 4. Thời kỳ suy vong: Đây là thời kỳ của 3 triều vua chính: Trần Dụ Tông (1341 - 1369), Dương Nhật Lễ (1369 – 1370), Trần Nghệ Tông (1370 – 1372). Cùng những hoàng đế cuối cùng: Trần Duệ Tông (1373 - 1377), Trần Phế Đế (1377 - 1388), Trần Thuận Tông (1388 - 1398), Trần Thiếu Đế (1398 -1400).
Chương 5. Vương triều Trần - Quốc gia Đại Việt thế kỷ XIII - XIV.
Là chương tổng quát về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quân sự, ngoại giao... một lát cắt dọc theo suốt chiều dài lịch sử của cả vương triều gồm 5 mục chính sau: 1/Thể chế chính trị; 2/ Một nền kinh tế năng động; 3/Văn minh Đại Việt - Văn hóa Thăng Long; 4/Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc; 5/Quan hệ Đại Việt với Trung Quốc, Chawmpa và các nước khác trong khu vực.
Cuốn sách được kết thúc bằng một bài nghiên cứu chuyên sâu “Kết luận”.
Ngoài ra công trình còn phần Phụ lục, chọn lọc 14 bài viết tiêu biểu của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học tên tuổi đã công bố trước đây như: Hệ tư tưởng Trần, Tổ chức hành chính và quy hoạch đô thị Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XI - XIV, Vài nhận xét về tổ chức và tính chất nhà nước thời Trần, Những nhân tố đưa đến chiến thắng quân Nguyên hồi thế kỷ XIII, Mỹ thuật thời Trần...
Ngoài bộ sách đồ sộ “Lịch sử Thăng Long - Hà Nội”, công trình “Vương triều Trần (1226 - 1400)” được biên soạn, xuất bản tiếp theo “Vương triều Lý (1009 - 1226)” nhằm tiếp tục bổ sung những lát cắt tiêu biểu về lịch sử của thành phố - Thủ đô 1000 năm tuổi trong khuôn khổ Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung

- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 1079 tr
Khâm định An Nam kỷ lược bao gồm 30 quyển tổng cộng 378 văn kiện, phần lớn là chiếu biểu, tấu thư, hịch văn… qua lại từ triều đình nhà Thanh với địa phương (chủ yếu là các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam) và giao thiệp với nước ta trong khoảng từ tháng Năm năm Mậu Thân (1788) đến tháng Ba năm Tân Hợi (1791). Trong khoảng hơn 2 năm ngắn ngủi, cuốn sách phản ánh ba biến cố quan trọng trong mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam: Can thiệp quân sự của nhà Thanh vào nội tình nước ta đưa đến chiến thắng của Ðại Việt đầu năm Kỷ Dậu (1789); Tiến trình nghị hòa và những tương nhượng để tái lập bang giao; Phái đoàn Ðại Việt tham dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ của vua Cao Tông đánh dấu cao điểm của liên hệ hai nước.
Trong các biến cố đó, mỗi thời kỳ chính sách của nhà Thanh đối với nước ta một khác nên tương quan ngoại giao cũng thay đổi theo. Bộ Khâm định An Nam Kỷ lược, tuy chỉ là một số thư từ qua lại, nhưng khi tìm hiểu lồng trong toàn thể chính sách, điển lệ và tổ chức hành chính, quân sự của Trung Hoa chúng ta có thể hiểu được những chi tiết được đề cập. Quan trọng hơn nữa, nếu đối chiếu với một số văn thư của triều đình Tây Sơn còn giữ trong Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội), chúng ta có thể tái tạo một thời kỳ vô cùng đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Có thể nói đây là nguồn tư liệu có giá trị tái hiện lại quan hệ bang giao Việt – Thanh thời Tây Sơn giúp các nhà nghiên cứu hiểu hơn thực chất của mối quan hệ này và vị thế quốc gia Đại Việt thời Tây Sơn từ sau năm 1789 đến đầu năm 1791.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Văn hóa - văn nghệ - 2016
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 209 tr
Đây là tập bản đồ hàng hải thời Thanh được cất giữ ở Phòng lưu niệm Sterling thuộc hệ thống Thư viện Đại học Yale (Yale University Sterling Memorial Library), nó được học giới Trung - Tây quan tâm không kém “The Seiden map of China” ở Thư viện Đại học Oxford. Nội dung bằng Anh ngữ trên biểu ghi kèm theo tập bản đồ cho biết, chỉ huy chiến hạm H.M.S. Herald (thuộc Hải quân Hoàng gia Anh) lấy được tập bản đồ này từ các thủy thủ trên một tàu buôn Trung Hoa vào năm 1841. Tập bản đồ này không ghi tiêu đề, học giới Trung Quốc dựa theo tính chất mà gọi nhiều cách, thường thấy là “Trung Quốc cổ hàng hải đồ/ Bản đồ hàng hải cổ đại Trung Quốc”.
“Bản đồ 1841” là tập bản đồ gồm 123 trang, trong đó 122 trang hình vẽ tiêu danh bằng chữ Hán, một trang biểu ghi của thư viện về xuất xứ tập bản đồ bằng Anh ngữ. Đây là tập bản đồ vẽ tay, không ghi tiêu đề, không ghi tên tác giả, toàn tập được vẽ mực đen trên nền giấy tuyên chỉ. Không gian diễn tả giới hạn trong phạm vi vùng biển Đông Á và biển Đông Nam Á. Người vẽ bản đồ lấy cảng Nam Áo (Triều Châu, Quảng Đông) làm chuẩn, mô tả nhiều tuyến đường có thể phân hai hướng, phía bắc xa nhất đến cảng Lữ Thuận (Liên Ninh, Trung Quốc), bờ nam bán đảo Triều Tiên, Tsushima và Goto Retto (Nhật Bản), phía nam xa nhất đến cảng Samut Prakan trong vịnh Siam (Paknam Chao Phraya, Thái Lan).
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Thanh Niên- 2017
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 475 tr
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn đất nước ta phải giàu mạnh, dân tộc ta phải thông thái, xã hội ta phải là một xã hội văn hóa cao. Muốn làm được như vậy, phần quan trọng và cơ bản là xã hội ta phải sản sinh ra nhiều những con người tài đức, tham gia kiến thiết và bảo vệ đất nước, trong lực lượng đông đảo ấy của dân tộc phải kể đến đội ngũ các Giáo sư, Phó Giáo sư. Họ chính là tinh hoa trong lực lượng trí thức đông đảo; tiêu biểu cho trí tuệ, tài năng và nhân cách con người Việt Nam
Qua mỗi bài viết trong tập sách là sự chứa đựng một tấm lòng cao cả, một sự nghiệp vẻ vang, một cuộc đời bình dị ... của các Giáo sư, Phó Giáo sư. Nhiều người trong số họ là những nhà quản lý, nhà giáo, nhà khoa học đầu ngành, tên tuổi đã trở nên quen thuộc trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng không ít các Giáo sư, Phó Giáo sư đang âm thầm, lặng lẽ từng ngày, từng giờ cần mẫn với công việc nghiên cứu, giảng dạy... góp trí tuệ và công sức dựng xây đất nước.

- Nxb: Văn hóa - Thông tin - 2010
- Khổ sách: 19 x 27 cm
- Số trang: 362 tr
“Danh bất chính, ngôn bất thuận, tên của con người thể hiện sự tồn tại của một sinh mệnh, là một tiêu chí ký hiệu trong cuộc đời của con người cho nên tên là một trong những tài sản quý giá nhất trong cuộc đời của con người, trong tên có ẩn chứa nội hàm phong phú.
Ý nghĩa ban đầu của họ tên chỉ là “biệt hiệu” của một người, giúp cho việc xưng hô dễ dàng hơn, có tác dụng phân biệt người này với người khác. Cùng với sự tiến triển của lịch sử, mọi người đã nhận thức ra tầm quan trọng của họ tên: Nó liên quan đến sự nghiệp, sức khỏe, sự tôn kính, hôn nhân và quan hệ xã giao của con người.
Họ tên phản ánh văn hóa và tâm lý của con người. Do nó là “biệt hiệu” riêng của một người trong xã hội nên nó có quan hệ chặt chẽ với lịch sử, văn hóa, địa điểm, tư tưởng và phong tục tập quán. Ngoài tác dụng “phân biệt các thành viên của xã hội”, nó còn có nhiều tác dụng khác như biểu đạt tình cảm, ý chí, mong muốn... Một tên gọi hàm súc sẽ tốt hơn nhiều “biệt hiệu” hay “ký hiệu”. Do đó đặt tên là một nghệ thuật có tính khoa học. Đặt tên phải có hàm nghĩa phong phú sâu sắc, độc đáo, tránh từ đa nghĩa gây hiểu nhầm.
Bách khoa thư cách đặt tên tổng hợp một số cách đặt tên thông dụng hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu

- Nxb: Khoa học xã hội-2018
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 307 tr
Ở Nam Bộ, nhiều di tích kiến trúc cổ thuộc giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên vẫn còn tồn tại trong lòng đất cho đến nay. Khi những người Việt đầu tiên đến đây vào thế kỷ XVII, họ đã nhìn thấy những phế tích rải rác từ miền Đông đến miền Tây. Sự kiện này biểu hiện qua nhiều địa danh có liên quan đến những kiến trúc cổ như Tháp Mười (Đồng Tháp), Gò Thành, Đìa Tháp (Tiền Giang), Lò Gạch (Trà Vinh), Miếu Tháp (Long An), Gò Tháp (Tây Ninh)... Hiện nay 3 kiến trúc cổ hiện còn đứng vững trên mặt đất: Chót Mạt, Bình Thạnh (Tây Ninh) và Vĩnh Hưng (Bạc Liêu)
Từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ, trong quá trình thiết lập nền hành chính thuộc địa, qua các đợt điều tra cơ bản nhiều di tích có liên quan đến kiến trúc cổ được ghi nhận như mộ Cự Thạch Hàng Gòn (Đồng Nai), Tháp Lấp (Long An).
Kết quả nghiên cứu, khảo sát hơn 90 di tích và khai quật 20 di tích thuộc văn hóa Óc Eo và hậu Óc Eo cho thấy Nam Bộ là địa bàn phát triển của văn hóa Óc Eo và hậu Óc Eo trong suốt 10 thế kỷ đầu công nguyên, trong đó kiến trúc là một trong ba yếu tố hợp thành của phức thể văn hóa khảo cổ (cư dân, mộ táng, kiến trúc).
Cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về lịch sử nghiên cứu và nhận thức về kiến trúc Óc Eo - hậu Óc Eo ở Nam Bộ
Chương 2: Di tích kiến trúc cổ và di vật có liên quan ở đồng bằng Nam Bộ
Chương 3: Truyền thống và không gian văn hóa xã hội của các di tích kiến trúc cổ ở Đồng Bằng Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Tổng hợp TP.HCM - 2019
- Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 343 tr
Nhiều học giả cho rằng, đạo Phật là một đạo bất biến, nhưng cũng là một đạo tùy duyên. Khi được truyền bá đến bất cứ nơi nào, đạo Phật cũng dễ dàng hòa nhập với đời sống của cư dân nơi đó.
Phật giáo từ nghìn xưa đã hài hòa một cách nhẹ nhàng với tất cả mọi hoàn cảnh sống của dân chúng bản địa ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tinh thần vô ngã, vị tha là yếu tố quan trọng giúp cho đạo Phật dễ dàng hòa nhập và thích nghi với phong tục, tập quán của người Việt Nam. Với sự tùy thuận và hài hòa theo tinh thần quên mình vì lợi ích của mọi người, khi du nhập vào nước ta, Phật giáo nhanh chóng được bản địa hóa, để rồi tạo nên sắc thái riêng biệt - Phật giáo Việt Nam. Cũng vì lẽ đó mà Phật giáo Việt Nam có những nét tương đồng và dị biệt so với Phật giáo ở các quốc gia trên thế giới. Phật giáo đã hòa nhập vào đời sống xã hội và đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, gắn bó với dân tộc một cách tự nhiên, không chịu áp đặt của bất cứ thế lực nào, ngay cả trong một số thời kỳ mà Phật giáo đã được tôn làm quốc giáo.
Một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam là sự dung hòa - dung hòa với tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, dung hòa giữa các tông phái phật giáo, dung hòa với Lão và Nho để tạo nên tinh thần viên dung tam giáo, ...
Nội dung cuốn sách gồm nhiều phần chủ đề xung quanh phật giáo Việt Nam dưới các góc nhìn lịch sử và văn hóa.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
- Khổ sách: 16x24cm
- Số trang: 1031tr
Di sản văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lịch sử được biên tập trên cơ sở tập hợp những bài nghiên cứu về chủ đề này trong thời gian từ năm 2008 đến cuối năm 2014, kết hợp với một số bài nghiên cứu mới chưa công bố và những chỉnh lý, cập nhật gần đây.
Nội dung cuốn sách gồm 4 phần với nhiều chương khác nhau:
Phần 1: Tổng quan về lịch sử và di sản văn hóa Việt Nam
Phần 2: Trung tâm văn hóa Thăng Long - Hà Nội: 1/ Cấu trúc kinh thành Thăng Long và thành Hà Nội; 2/ Đơn vị hành chính và kết cấu kinh tế xã hội; 3/ Vài chặng đường chiến đấu bảo vệ kinh thành; 4/ Di sản văn hóa
Phần 3: Trung tâm văn hóa Phú Xuân - Huế, phần này gồm 2 chương: 1/ Phú Xuân - Huế: Lịch sử và Di sản văn hóa; 2/ Châu bản triều Nguyễn
Phần 4: Một số trung tâm và vùng miền khác: 1/ Xứ Thanh; 2/ Xứ Nghệ Tĩnh; 3/ Không gian lịch sử - văn hóa vùng đất Nam Bộ; 4/ Một vài trung tâm quyền lực và văn hóa khác.
Xin trân trọng giới thiệu!

- Nxb: Xây Dựng-2020
- Khổ sách: 19 x 26,5cm
- Số trang: 396tr
Thế kỷ III TCN có Loa Thành của An Dương Vương. Đầu thế kỷ I có thành Dền Mê Linh của Hai Bà Trưng và trấn Hải Tần phòng thủ (trang An Biên) trên đất Hải Đông của nữ tướng Lê Chân. Tiếp đó, suốt nghìn năm giữ nước người Việt xây dựng nhiều thành trì: thành Long Biên (thế kỷ II) tức thành Long Uyên ở xã Hòa Long, Yên Phong - Bắc Ninh; thành Luy Lâu (Tk II-III) ở xã Thanh Khương, Thuận Thành Bắc Ninh; kinh đô Vạn Xuân (541-548) thuộc đất quận Ba Đình và quận Tây Hồ - Hà Nội ngày nay; kinh đô Vạn An (713-723) tại xã Vân Diên, Nam Đàn - Nghệ An. Đặc biệt thành Đại La năm trăm tuổi (TK VI-X) qua nhiều lần xây đắp với 7 tên gọi: Tô Lịch Giang Thành; Thành Tô Lịch, Tử Thành; la Thành; An Nam La Thành; Đại La; Thăng Long. Cuối thế kỷ X, thời vua Đinh, vua Lê tự chủ Việt Nam có đế đô Hoa Lư...
Nội dung cuốn sách gồm 7 phần với nhiều chương khác nhau:
Phần 1: Từ nhà nước Văn Lang đến thế kỷ X. Phần này gồm 4 chương: 1/ Những nghi vấn về kinh đô Văn Lang; 2/ Thời Âu Lạc (TK III TCN- TK II TCN); 3/ Thời kỳ giữ nước quật khởi (TK I-X); 4/ Năm thế kỷ Đại la thành (cuối thế kỷ V-đầu thế kỷ XI)
- Phần 2: Thế kỷ X-XIV. Phần này gồm 5 chương: 1/ Hoa Lư- Đế đô Đại Cồ Việt và các dấu tích thành đất thế kỷ X; 2/ Thăng Long và phòng tuyến Như Nguyệt; 3/ Thăng Long, Thiên Trường và những Thái ấp Vương hầu thời Trần; 4/ Tây Đô và thành lũy nhà Hồ; 5/ Thánh địa và thành cổ Champa.
- Phần 3: Thế kỷ XV-XVIII. Phần này gồm 5 chương: 1/Trăm năm xây dựng thười Lê Sơ; 2/ Đại La, Dương Kinh và các toà thành nhà Mạc; 3/ Đàng Ngoài thời Lê Trung Hưng; 4/ Đàng Trong thời chúa Nguyễn; 5/ Thành thị triều Tây Sơn.
- Phần 4: Huế - thành thị phong kiến hoàn hảo
- Phần 5: Thành trì, trị sở, trấn lỵ (thế kỷ XIX- 1954)
- Phần 7: Những thành phố Việt Nam đương đại.
Xin trân trọng giới thiệu!