- Tác giả: Nguyễn Duy Chính (dịch và chú giải)
- Nxb: Hà Nội - 2016
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 1079 tr
Khâm định An Nam kỷ lược bao gồm 30 quyển tổng cộng 378 văn kiện, phần lớn là chiếu biểu, tấu thư, hịch văn… qua lại từ triều đình nhà Thanh với địa phương (chủ yếu là các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam) và giao thiệp với nước ta trong khoảng từ tháng Năm năm Mậu Thân (1788) đến tháng Ba năm Tân Hợi (1791). Trong khoảng hơn 2 năm ngắn ngủi, cuốn sách phản ánh ba biến cố quan trọng trong mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam: Can thiệp quân sự của nhà Thanh vào nội tình nước ta đưa đến chiến thắng của Ðại Việt đầu năm Kỷ Dậu (1789); Tiến trình nghị hòa và những tương nhượng để tái lập bang giao; Phái đoàn Ðại Việt tham dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ của vua Cao Tông đánh dấu cao điểm của liên hệ hai nước.
Trong các biến cố đó, mỗi thời kỳ chính sách của nhà Thanh đối với nước ta một khác nên tương quan ngoại giao cũng thay đổi theo. Bộ Khâm định An Nam Kỷ lược, tuy chỉ là một số thư từ qua lại, nhưng khi tìm hiểu lồng trong toàn thể chính sách, điển lệ và tổ chức hành chính, quân sự của Trung Hoa chúng ta có thể hiểu được những chi tiết được đề cập. Quan trọng hơn nữa, nếu đối chiếu với một số văn thư của triều đình Tây Sơn còn giữ trong Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội), chúng ta có thể tái tạo một thời kỳ vô cùng đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Có thể nói đây là nguồn tư liệu có giá trị tái hiện lại quan hệ bang giao Việt – Thanh thời Tây Sơn giúp các nhà nghiên cứu hiểu hơn thực chất của mối quan hệ này và vị thế quốc gia Đại Việt thời Tây Sơn từ sau năm 1789 đến đầu năm 1791.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Phạm Hoàng Quân
- Nxb: Văn hóa - văn nghệ - 2016
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 209 tr
Đây là tập bản đồ hàng hải thời Thanh được cất giữ ở Phòng lưu niệm Sterling thuộc hệ thống Thư viện Đại học Yale (Yale University Sterling Memorial Library), nó được học giới Trung - Tây quan tâm không kém “The Seiden map of China” ở Thư viện Đại học Oxford. Nội dung bằng Anh ngữ trên biểu ghi kèm theo tập bản đồ cho biết, chỉ huy chiến hạm H.M.S. Herald (thuộc Hải quân Hoàng gia Anh) lấy được tập bản đồ này từ các thủy thủ trên một tàu buôn Trung Hoa vào năm 1841. Tập bản đồ này không ghi tiêu đề, học giới Trung Quốc dựa theo tính chất mà gọi nhiều cách, thường thấy là “Trung Quốc cổ hàng hải đồ/ Bản đồ hàng hải cổ đại Trung Quốc”.
“Bản đồ 1841” là tập bản đồ gồm 123 trang, trong đó 122 trang hình vẽ tiêu danh bằng chữ Hán, một trang biểu ghi của thư viện về xuất xứ tập bản đồ bằng Anh ngữ. Đây là tập bản đồ vẽ tay, không ghi tiêu đề, không ghi tên tác giả, toàn tập được vẽ mực đen trên nền giấy tuyên chỉ. Không gian diễn tả giới hạn trong phạm vi vùng biển Đông Á và biển Đông Nam Á. Người vẽ bản đồ lấy cảng Nam Áo (Triều Châu, Quảng Đông) làm chuẩn, mô tả nhiều tuyến đường có thể phân hai hướng, phía bắc xa nhất đến cảng Lữ Thuận (Liên Ninh, Trung Quốc), bờ nam bán đảo Triều Tiên, Tsushima và Goto Retto (Nhật Bản), phía nam xa nhất đến cảng Samut Prakan trong vịnh Siam (Paknam Chao Phraya, Thái Lan).
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Nhiều tác giả
- Nxb: Thanh Niên- 2017
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 475 tr

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn đất nước ta phải giàu mạnh, dân tộc ta phải thông thái, xã hội ta phải là một xã hội văn hóa cao. Muốn làm được như vậy, phần quan trọng và cơ bản là xã hội ta phải sản sinh ra nhiều những con người tài đức, tham gia kiến thiết và bảo vệ đất nước, trong lực lượng đông đảo ấy của dân tộc phải kể đến đội ngũ các Giáo sư, Phó Giáo sư. Họ chính là tinh hoa trong lực lượng trí thức đông đảo; tiêu biểu cho trí tuệ, tài năng và nhân cách con người Việt Nam
Qua mỗi bài viết trong tập sách là sự chứa đựng một tấm lòng cao cả, một sự nghiệp vẻ vang, một cuộc đời bình dị ... của các Giáo sư, Phó Giáo sư. Nhiều người trong số họ là những nhà quản lý, nhà giáo, nhà khoa học đầu ngành, tên tuổi đã trở nên quen thuộc trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng không ít các Giáo sư, Phó Giáo sư đang âm thầm, lặng lẽ từng ngày, từng giờ cần mẫn với công việc nghiên cứu, giảng dạy... góp trí tuệ và công sức dựng xây đất nước.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Minh Đường
- Nxb: Văn hóa - Thông tin - 2010
-  Khổ sách: 19 x 27 cm
- Số trang: 362 tr
“Danh bất chính, ngôn bất thuận, tên của con người thể hiện sự tồn tại của một sinh mệnh, là một tiêu chí ký hiệu trong cuộc đời của con người cho nên tên là một trong những tài sản quý giá nhất trong cuộc đời của con người, trong tên có ẩn chứa nội hàm phong phú.
Ý nghĩa ban đầu của họ tên chỉ là “biệt hiệu” của một người, giúp cho việc xưng hô dễ dàng hơn, có tác dụng phân biệt người này với người khác. Cùng với sự tiến triển của lịch sử, mọi người đã nhận thức ra tầm quan trọng của họ tên: Nó liên quan đến sự nghiệp, sức khỏe, sự tôn kính, hôn nhân và quan hệ xã giao của con người.
Họ tên phản ánh văn hóa và tâm lý của con người. Do nó là “biệt hiệu” riêng của một người trong xã hội nên nó có quan hệ chặt chẽ với lịch sử, văn hóa, địa điểm, tư tưởng và phong tục tập quán. Ngoài tác dụng “phân biệt các thành viên của xã hội”, nó còn có nhiều tác dụng khác như biểu đạt tình cảm, ý chí, mong muốn... Một tên gọi hàm súc sẽ tốt hơn nhiều “biệt hiệu” hay “ký hiệu”. Do đó đặt tên là một nghệ thuật có tính khoa học. Đặt tên phải có hàm nghĩa phong phú sâu sắc, độc đáo, tránh từ đa nghĩa gây hiểu nhầm.
Bách khoa thư cách đặt tên tổng hợp một số cách đặt tên thông dụng hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Võ Sĩ Khải
- Nxb: Khoa học xã hội-2018
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 307 tr
Ở Nam Bộ, nhiều di tích kiến trúc cổ thuộc giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên vẫn còn tồn tại trong lòng đất cho đến nay. Khi những người Việt đầu tiên đến đây vào thế kỷ XVII, họ đã nhìn thấy những phế tích rải rác từ miền Đông đến miền Tây. Sự kiện này biểu hiện qua nhiều địa danh có liên quan đến những kiến trúc cổ như Tháp Mười (Đồng Tháp), Gò Thành, Đìa Tháp (Tiền Giang), Lò Gạch (Trà Vinh), Miếu Tháp (Long An), Gò Tháp (Tây Ninh)... Hiện nay 3 kiến trúc cổ hiện còn đứng vững trên mặt đất: Chót Mạt, Bình Thạnh (Tây Ninh) và Vĩnh Hưng (Bạc Liêu)
Từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ, trong quá trình thiết lập nền hành chính thuộc địa, qua các đợt điều tra cơ bản nhiều di tích có liên quan đến kiến trúc cổ được ghi nhận như mộ Cự Thạch Hàng Gòn (Đồng Nai), Tháp Lấp (Long An).
Kết quả nghiên cứu, khảo sát hơn 90 di tích và khai quật 20 di tích thuộc văn hóa Óc Eo và hậu Óc Eo cho thấy Nam Bộ là địa bàn phát triển của văn hóa Óc Eo và hậu Óc Eo trong suốt 10 thế kỷ đầu công nguyên, trong đó kiến trúc là một trong ba yếu tố hợp thành của phức thể văn hóa khảo cổ (cư dân, mộ táng, kiến trúc).
Cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về lịch sử nghiên cứu và nhận thức về kiến trúc Óc Eo - hậu Óc Eo ở Nam Bộ
Chương 2: Di tích kiến trúc cổ và di vật có liên quan ở đồng bằng Nam Bộ
Chương 3: Truyền thống và không gian văn hóa xã hội của các di tích kiến trúc cổ ở Đồng Bằng Nam Bộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
- Tác giả: Trần Thuận
- Nxb: Tổng hợp TP.HCM - 2019
-  Khổ sách: 16 x 24 cm
- Số trang: 343 tr
Nhiều học giả cho rằng, đạo Phật là một đạo bất biến, nhưng cũng là một đạo tùy duyên. Khi được truyền bá đến bất cứ nơi nào, đạo Phật cũng dễ dàng hòa nhập với đời sống của cư dân nơi đó.
Phật giáo từ nghìn xưa đã hài hòa một cách nhẹ nhàng với tất cả mọi hoàn cảnh sống của dân chúng bản địa ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tinh thần vô ngã, vị tha là yếu tố quan trọng giúp cho đạo Phật dễ dàng hòa nhập và thích nghi với phong tục, tập quán của người Việt Nam. Với sự tùy thuận và hài hòa theo tinh thần quên mình vì lợi ích của mọi người, khi du nhập vào nước ta, Phật giáo nhanh chóng được bản địa hóa, để rồi tạo nên sắc thái riêng biệt - Phật giáo Việt Nam. Cũng vì lẽ đó mà Phật giáo Việt Nam có những nét tương đồng và dị biệt so với Phật giáo ở các quốc gia trên thế giới. Phật giáo đã hòa nhập vào đời sống xã hội và đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, gắn bó với dân tộc một cách tự nhiên, không chịu áp đặt của bất cứ thế lực nào, ngay cả trong một số thời kỳ mà Phật giáo đã được tôn làm quốc giáo.
Một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam là sự dung hòa - dung hòa với tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, dung hòa giữa các tông phái phật giáo, dung hòa với Lão và Nho để tạo nên tinh thần viên dung tam giáo, ...
Nội dung cuốn sách gồm nhiều phần chủ đề xung quanh phật giáo Việt Nam dưới các góc nhìn lịch sử và văn hóa.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Phan Huy Lê
- Nxb: Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018
-  Khổ sách: 16x24cm
- Số trang: 1031tr
Di sản văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lịch sử được biên tập trên cơ sở tập hợp những bài nghiên cứu về chủ đề này trong thời gian từ năm 2008 đến cuối năm 2014, kết hợp với một số bài nghiên cứu mới chưa công bố và những chỉnh lý, cập nhật gần đây.
Nội dung cuốn sách gồm 4 phần với nhiều chương khác nhau:
Phần 1: Tổng quan về lịch sử và di sản văn hóa Việt Nam
Phần 2: Trung tâm văn hóa Thăng Long - Hà Nội: 1/ Cấu trúc kinh thành Thăng Long và thành Hà Nội; 2/ Đơn vị hành chính và kết cấu kinh tế xã hội; 3/ Vài chặng đường chiến đấu bảo vệ kinh thành; 4/ Di sản văn hóa
Phần 3: Trung tâm văn hóa Phú Xuân - Huế, phần này gồm 2 chương: 1/ Phú Xuân - Huế: Lịch sử và Di sản văn hóa; 2/ Châu bản triều Nguyễn
Phần 4: Một số trung tâm và vùng miền khác: 1/ Xứ Thanh; 2/ Xứ Nghệ Tĩnh; 3/ Không gian lịch sử - văn hóa vùng đất Nam Bộ; 4/ Một vài trung tâm quyền lực và văn hóa khác.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Đoàn Khắc Tình
- Nxb: Xây Dựng-2020
-  Khổ sách: 19 x 26,5cm
- Số trang: 396tr
Thế kỷ III TCN có Loa Thành của An Dương Vương. Đầu thế kỷ I có thành Dền Mê Linh của Hai Bà Trưng và trấn Hải Tần phòng thủ (trang An Biên) trên đất Hải Đông của nữ tướng Lê Chân. Tiếp đó, suốt nghìn năm giữ nước người Việt xây dựng nhiều thành trì: thành Long Biên (thế kỷ II) tức thành Long Uyên ở xã Hòa Long, Yên Phong - Bắc Ninh; thành Luy Lâu (Tk II-III) ở xã Thanh Khương, Thuận Thành Bắc Ninh; kinh đô Vạn Xuân (541-548) thuộc đất quận Ba Đình và quận Tây Hồ - Hà Nội ngày nay; kinh đô Vạn An (713-723) tại xã Vân Diên, Nam Đàn - Nghệ An. Đặc biệt thành Đại La năm trăm tuổi (TK VI-X) qua nhiều lần xây đắp với 7 tên gọi: Tô Lịch Giang Thành; Thành Tô Lịch, Tử Thành; la Thành; An Nam La Thành; Đại La; Thăng Long. Cuối thế kỷ X, thời vua Đinh, vua Lê tự chủ Việt Nam có đế đô Hoa Lư...
Nội dung cuốn sách gồm 7 phần với nhiều chương khác nhau:
Phần 1: Từ nhà nước Văn Lang đến thế kỷ X. Phần này gồm 4 chương: 1/ Những nghi vấn về kinh đô Văn Lang; 2/ Thời Âu Lạc (TK III TCN- TK II TCN); 3/ Thời kỳ giữ nước quật khởi (TK I-X); 4/ Năm thế kỷ Đại la thành (cuối thế kỷ V-đầu thế kỷ XI)
- Phần 2: Thế kỷ X-XIV. Phần này gồm 5 chương: 1/ Hoa Lư- Đế đô Đại Cồ Việt và các dấu tích thành đất thế kỷ X; 2/ Thăng Long và phòng tuyến Như Nguyệt; 3/ Thăng Long, Thiên Trường và những Thái ấp Vương hầu thời Trần; 4/ Tây Đô và thành lũy nhà Hồ; 5/ Thánh địa và thành cổ Champa.
- Phần 3: Thế kỷ XV-XVIII. Phần này gồm 5 chương: 1/Trăm năm xây dựng thười Lê Sơ; 2/ Đại La, Dương Kinh và các toà thành nhà Mạc; 3/ Đàng Ngoài thời Lê Trung Hưng; 4/ Đàng Trong thời chúa Nguyễn; 5/ Thành thị triều Tây Sơn.
- Phần 4: Huế - thành thị phong kiến hoàn hảo
- Phần 5: Thành trì, trị sở, trấn lỵ (thế kỷ XIX- 1954)
- Phần 6:Thời kỳ 1955-1975
- Phần 7: Những thành phố Việt Nam đương đại.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Thượng tọa,TS. Thích Thanh Quyết và PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh (Đồng chủ biên)
- Nxb: Khoa học xã hội-2020
-  Khổ sách: 19 x 26,5cm
- Số trang: 1056tr
Yên Tử đã trở thành vùng đất Phật từ thời Nhà Lý. Đặc biệt từ thời Trần, khi Đệ nhất tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông thống nhất các thiền phái trong cả nước thành lập Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, vùng đất này trở thành trung tâm văn hóa phật giáo nổi tiếng đương thời.
Hiện nay, ở Yên Tử, di tích phật giáo và tư liệu Hán Nôm khá nhiều, đây là những tư liệu quan trọng khi nghiên cứu lịch sử phật giáo nước nhà nói chung và phật giáo Trúc Lâm Yên Tử nói riêng.
Nội dung cuốn sách gồm 4 phần:
- Phần 1: Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử và danh thắng Yên Tử, phần này tập trung nghiên cứu các vấn đề: lịch sử truyền thừa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, danh thắng Yên Tử - hiện tại và tương lai.
- Phần 2: Di sản Hán Nôm ở Yên Tử, phần này giới thiệu lịch sử các di tích phật giáo, cùng việc sưu tập và biên dịch toàn bộ hệ thống di sản Hán Nôm hiện còn lưu giữ ở Yên Tử, như: hoành phi, câu đối, văn bia, văn chuông và văn trên một số đồ thờ...
- Phần 3: Di sản Hán Nôm của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, phần này giới thiệu di văn Hán Nôm của chư vị Thiền sư Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử.
- Phần 4: Di sản Hán Nôm về Yên Tử, phần này giới thiệu di văn Hán Nôm có liên quan đến vùng đất Phật Yên Tử.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 56 của ngành Khảo cổ học Việt Nam do Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức. Theo kế hoạch Hội nghị sẽ diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2021.
Hiện nay tình hình dịch bệnh Covid-19 có những diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương trong cả nước. Do đó Ban tổ chức Hội nghị quyết định:
- Tạm hoãn tổ chức Hội nghị như thời gian dự kiến và dời ngày tổ chức Hội nghị đến thời điểm thuận lợi (Khi có thời gian tổ chức Hội nghị, Ban tổ chức sẽ thông báo trên website của Viện Khảo cổ học tại địa chỉ: khaocohoc.gov.vn).
- Gia hạn thời gian nhận bài viết tham dự Hội nghị đến hết ngày 05/10/2021.
(Chi tiết xin xem file đính kèm).

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9586887
Số người đang online: 14