Các nhà khoa học phát hiện người Hobbit và những người sớm không phải là 'tác nhân hủy diệt' gây ra sự tuyệt chủng
Các nhà khoa học phát hiện người Hobbit và những người sớm không phải là 'tác nhân hủy diệt' gây ra sự tuyệt chủng
Một nghiên cứu mới cho thấy khi đề cập đến nguyên nhân gây tuyệt chủng, những người sớm có thể không phải là những kẻ dại dột như chúng ta ngày nay.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy: Họ hàng của loài người sớm đã sống trên các hòn đảo kể từ đầu thế Pleistocen (cách đây 2,6 triệu đến 11,700 năm). Nhưng sự tuyệt chủng trên diện rộng trên các hòn đảo phần lớn có thể bắt nguồn từ 11.700 năm qua trong giai đoạn Holocen, khi con người hiện đại bắt đầu tàn phá ở đó - săn mồi quá mức, thay đổi môi trường sống và du nhập các loài xâm lấn.
Đồng tác giả nghiên cứu Ross MacPhee, chuyên gia động vật có xương sống ở Bảo tàng lịch sử Quốc gia Mỹ phát biểu trong email với Live Science : "Trong khi con người chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp cho hàng trăm thiệt hại trên các hòn đảo trong vài trăm năm qua, dấu vết của sự phá huỷ này càng ít đi khi bạn quay ngược thời gian"."Tác động của họ [họ hàng xa của người hiện đại ] là không đáng kể, trong khi tác động của chúng ta đã từ lâu và thật thảm khốc."
Tại sao là các đảo?
Các nhà khoa học viết trong nghiên cứu:
Quần đảo rất nhiều các loài động vật tuyệt chủng. Ví dụ, các hòn đảo ở New Zealand, nơi 9 loài moa, một loài chim khổng lồ, giống như đà điểu, từng sinh sống. Nhưng trong vòng 200 năm kể từ khi con người đến, tất cả chúng đều tuyệt chủng cùng với ít nhất 25 loài động vật có xương sống khác.
Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi các nhà khoa học tại Đại học Griffith ở Úc, tập trung vào các hòn đảo vì một lý do lớn: Chúng "đặc biệt dễ bị tuyệt chủng trên diện rộng". Đó là bởi vì các hòn đảo có xu hướng có các loài động vật có kích thước và số lượng cá thể nhỏ hơn, có tính đa dạng di truyền thấp hơn (một phần là do giao phối cận huyết), dễ bị ảnh hưởng bởi các sự kiện ngẫu nhiên hơn, tạo ra ít cơ hội tái thuộc địa hơn và hỗ trợ mức độ cao hơn của động vật bản địa so với với những loài ở lục địa.
Để điều tra xem liệu sự tuyệt chủng trên đảo có trùng hợp với sự xuất hiện của hominin – hoặc người hiện đại, tổ tiên và những người anh em họ hàng tiến hóa gần gũi của chúng ta hay không - các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào hồ sơ khảo cổ và hóa thạch của 32 nhóm đảo có bằng chứng về sự có mặt của hominin, bao gồm các đảo ở Anh, Đài Loan Okinawa và Tasmania. (Không giống như nhóm hominids, nhóm hominin không bao gồm đười ươi.). Tuy vậy, MacPhee cho biết: việc xác định niên đại xuất hiện của hominin và sự tuyệt chủng trên đảo không phải lúc nào cũng dễ dàng. Hơn nữa, rất khó để phân biệt liệu một loài động vật bị tuyệt chủng phần lớn là do con người hay do các yếu tố khác, chẳng hạn như biến đổi khí hậu.
"Tuy nhiên, những nơi mà chúng tôi thu thập được hầu hết dữ liệu của mình - quần đảo đảo ở phía đông lục địa châu Á - ít bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi khí hậu nghiêm trọng có thể phát hiện được, loại ảnh hưởng đến Bắc Mỹ" vào cuối kỷ băng hà cuối cùng, khi các động vật lớn như voi ma mút đã tuyệt chủng.
Các nhóm đảo đại dương có bằng chứng về hominin kỷ Pleistocen và sự tuyệt chủng của động vật. Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống là (A) San Miguel, Santa Rosa và Santa Cruz; (B) Ireland; (C) Sardinia; (D) Honshu, Shikoku và Kyushu; (E) Ishigaki, Miyako, Kume và Okinawa; (F) Luzon, Mindanao, Mindoro và Palawan; (G) New Ireland và Buka; (H) Sulawesi; (I) Timor, Alor, Flores và Sumba; và (J) Cyprus, Crete và Naxos. MP, Pleistocen giữa; LP, Pleistocen muộn. (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Nhóm nghiên cứu cũng giải thích một số trường hợp tuyệt chủng xảy ra một cách tự nhiên trong suốt quá trình tiến hóa. Ngoài ra, họ dẫn chứng rằng những người hominin thời kỳ đầu đã săn bắn động vật trên cạn – kết quả là có những bộ xương động vật cổ với dấu vết chặt. Nhưng nhóm nghiên cứu nhận thấy những hominin thời kỳ đầu đã không săn bắn một số sinh vật bị tuyệt chủng. MacPhee nói: “Thay vào đó, đã có sự chung sống, giống như luôn tồn tại trong tự nhiên giữa các loài khác nhau. "lặp đi lặp lại, bằng chứng cho thấy" những tổ tiên trước của chính chúng ta ... không làm tăng tỷ lệ tuyệt chủng trên các hòn đảo mà chúng chiếm cư. "
Các mốc thời gian tuyệt chủng của các loài động vật trên các đảo đại dương khác nhau, cho thấy thời điểm những người hominin và Homo sapiens đầu tiên đến. Niên đại xuất hiện lần cuối (LAD) của động vật được hiển thị bằng các đường ngang. Các đường LAD đứt đoạn biểu thị sự không chắc chắn. (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
hoặc ví dụ, trên Flores ở Indonesia, nơi "Người Hobbit", hay Homo floresiensis, sinh sống, "không có cuộc tuyệt chủng nào được biết đến có liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện của hominin đầu tiên", các nhà nghiên cứu viết trong nghiên cứu. Điều này cũng đúng với hominin ở Sardinia.
Ngược lại, các nhà nghiên cứu nhận thấy: trong vòng 5.000 năm kể từ khi người hiện đại đến quần đảo California Channel khoảng 13.000 năm trước, voi ma mút Colombia (Mammuthus columbia), voi ma mút lùn (Mammuthus exilis) và loài gặm nhấm (Microtus miguelensis) đã tuyệt chủng. Tương tự như vậy, ở Ireland, một con hươu khổng lồ (Megaloceros giganteus) và một con vượn cáo (Dicrostonyx torquatus) đã tuyệt chủng ngay sau khi người hiện đại đến 13.000 năm trước, như trường hợp của một loài sếu (chi Grus) biến mất ở Timor sau khi người hiện đại đến cách đây 46.000 năm.
Danh sách tiếp tục: một con voi ở Sulawesi, Indonesia; Cò (Leptoptilos robustus), kền kền (chi Trigonoceps), chim (chi Acridotheres), voi răng kiếm (Stegodon florensis insularis) và thậm chí người Homo floresiensis, đã biến mất ngay sau khi Homo sapiens đến Flores, các nhà nghiên cứu phát hiện.
Tại sao người hiện đại là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt này?
Vậy, tại sao loài người hiện đại lại là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng như vậy, còn các hominin thời kỳ đầu thì không?
MacPhee nói: "Văn hóa, văn hóa, văn hóa". Nếu bạn nhìn nhận sự thích nghi của con người qua lăng kính văn hóa, thì sự khác biệt rõ ràng nhất giữa lúc đó và bây giờ là mức độ mà ngày nay chúng ta có thể kiểm soát các môi trường trên toàn trái đất."
Nói cách khác, các hominin ban đầu có rất ít quyền kiểm soát môi trường của chúng; họ có thể săn bắn, nhưng không sử dụng các công nghệ phức tạp. MacPhee cho biết: “Những người sớm trên các hòn đảo đến đó bằng cách thực hiện các cuộc hành trình trên biển - họ đã định hướng về biển và tài nguyên biển, và không biết cách săn bắt động vật trên cạn hoặc không quan tâm đến việc đó”.
Khi con người trở nên tiên tiến hơn, có khả năng là "hành vi của chúng ta đối với môi trường đã thay đổi và trở nên phá hoại hơn khi chúng ta có khả năng sử dụng công nghệ cao hơn".
Điều này cũng giải thích tại sao các cuộc tuyệt chủng không liên quan đến sự xuất hiện đầu tiên của người Homo sapiens trên các hòn đảo cách đây khoảng 50.000 năm. Julian Hume, một nhà cổ sinh học và cộng tác nghiên cứu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, London Vương quốc Anh, người không tham gia nghiên cứu này, cho biết: “Có vẻ như trong suốt thời gian này, cả hominin và hệ động vật trên đảo đã xuất hiện và phát triển cùng nhau. Vào thời điểm đó, có ít người hơn, công cụ kém tinh vi hơn và tỷ lệ chiếm cư chậm hơn. Điều này đã thay đổi trong suốt thời kỳ Holocen, khi con người hiện đại làm chủ việc di chuyển đường dài vượt biển với số lượng lớn, phát triển các công cụ tinh vi và đưa các loài động vật không bản địa cùng với chúng đến các hòn đảo.
Tuy nhiên, Hume lưu ý rằng các hòn đảo nổi tiếng là những nơi bảo tồn hóa thạch kém. Ngoài ra, các hóa thạch tồn tại lâu dài theo thời gian có xu hướng là từ động vật to lớn và khỏe mạnh, thay vì động vật nhỏ và mỏng manh. Vì vậy, thật khó để nói, khi nhìn vào hồ sơ hóa thạch, liệu các hominin trước đó có gây ra sự tuyệt chủng cho động vật hay không - Hume trả lời Live Science trong một email.
Hume cũng cho hay: Hơn nữa, xương động vật cổ bị chặt để lấy thịt và bị đốt là "cực hiếm". "Bởi vì các tác giả đã tìm thấy rất ít bằng chứng về sự ăn thịt của con người, nhưng không có nghĩa điều đó đã không diễn ra.”
Nhưng ông vẫn đồng ý với thông điệp rút ra của các nhà nghiên cứu. Ông nói: “Chúng ta có thể hiểu và tha thứ cho tổ tiên loài người đã săn lùng những thứ cần thiết khi họ đi khắp các đại dương. "Điều không thể tha thứ là con người hiện đại đang phá hủy thế giới tự nhiên với tốc độ chưa từng có, mặc dù có hiểu chi tiết về cái giá cuối cùng phải trả như thế nào”.
Nghiên cứu được công bố trực tuyến vào thứ Hai (3 tháng 5/2021) trên tạp chí Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia. Bản gốc được công bố trên Live Science.
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo: https://www.livescience.com/early-humans-island-extinctions.html
Hình minh họa một con voi lùn cư trú trên các hòn đảo ở biển Địa Trung Hải và nó đã tuyệt chủng cho đến khi con người đến. (Nguồn: Peter Schouten / Ross MacPhee © AMNH)
Một nghiên cứu mới cho thấy khi đề cập đến nguyên nhân gây tuyệt chủng, những người sớm có thể không phải là những kẻ dại dột như chúng ta ngày nay.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy: Họ hàng của loài người sớm đã sống trên các hòn đảo kể từ đầu thế Pleistocen (cách đây 2,6 triệu đến 11,700 năm). Nhưng sự tuyệt chủng trên diện rộng trên các hòn đảo phần lớn có thể bắt nguồn từ 11.700 năm qua trong giai đoạn Holocen, khi con người hiện đại bắt đầu tàn phá ở đó - săn mồi quá mức, thay đổi môi trường sống và du nhập các loài xâm lấn.
Đồng tác giả nghiên cứu Ross MacPhee, chuyên gia động vật có xương sống ở Bảo tàng lịch sử Quốc gia Mỹ phát biểu trong email với Live Science : "Trong khi con người chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp cho hàng trăm thiệt hại trên các hòn đảo trong vài trăm năm qua, dấu vết của sự phá huỷ này càng ít đi khi bạn quay ngược thời gian"."Tác động của họ [họ hàng xa của người hiện đại ] là không đáng kể, trong khi tác động của chúng ta đã từ lâu và thật thảm khốc."
Tại sao là các đảo?
Các nhà khoa học viết trong nghiên cứu:
Quần đảo rất nhiều các loài động vật tuyệt chủng. Ví dụ, các hòn đảo ở New Zealand, nơi 9 loài moa, một loài chim khổng lồ, giống như đà điểu, từng sinh sống. Nhưng trong vòng 200 năm kể từ khi con người đến, tất cả chúng đều tuyệt chủng cùng với ít nhất 25 loài động vật có xương sống khác.
Nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi các nhà khoa học tại Đại học Griffith ở Úc, tập trung vào các hòn đảo vì một lý do lớn: Chúng "đặc biệt dễ bị tuyệt chủng trên diện rộng". Đó là bởi vì các hòn đảo có xu hướng có các loài động vật có kích thước và số lượng cá thể nhỏ hơn, có tính đa dạng di truyền thấp hơn (một phần là do giao phối cận huyết), dễ bị ảnh hưởng bởi các sự kiện ngẫu nhiên hơn, tạo ra ít cơ hội tái thuộc địa hơn và hỗ trợ mức độ cao hơn của động vật bản địa so với với những loài ở lục địa.
Để điều tra xem liệu sự tuyệt chủng trên đảo có trùng hợp với sự xuất hiện của hominin – hoặc người hiện đại, tổ tiên và những người anh em họ hàng tiến hóa gần gũi của chúng ta hay không - các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào hồ sơ khảo cổ và hóa thạch của 32 nhóm đảo có bằng chứng về sự có mặt của hominin, bao gồm các đảo ở Anh, Đài Loan Okinawa và Tasmania. (Không giống như nhóm hominids, nhóm hominin không bao gồm đười ươi.). Tuy vậy, MacPhee cho biết: việc xác định niên đại xuất hiện của hominin và sự tuyệt chủng trên đảo không phải lúc nào cũng dễ dàng. Hơn nữa, rất khó để phân biệt liệu một loài động vật bị tuyệt chủng phần lớn là do con người hay do các yếu tố khác, chẳng hạn như biến đổi khí hậu.
"Tuy nhiên, những nơi mà chúng tôi thu thập được hầu hết dữ liệu của mình - quần đảo đảo ở phía đông lục địa châu Á - ít bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi khí hậu nghiêm trọng có thể phát hiện được, loại ảnh hưởng đến Bắc Mỹ" vào cuối kỷ băng hà cuối cùng, khi các động vật lớn như voi ma mút đã tuyệt chủng.
Các nhóm đảo đại dương có bằng chứng về hominin kỷ Pleistocen và sự tuyệt chủng của động vật. Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống là (A) San Miguel, Santa Rosa và Santa Cruz; (B) Ireland; (C) Sardinia; (D) Honshu, Shikoku và Kyushu; (E) Ishigaki, Miyako, Kume và Okinawa; (F) Luzon, Mindanao, Mindoro và Palawan; (G) New Ireland và Buka; (H) Sulawesi; (I) Timor, Alor, Flores và Sumba; và (J) Cyprus, Crete và Naxos. MP, Pleistocen giữa; LP, Pleistocen muộn. (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Nhóm nghiên cứu cũng giải thích một số trường hợp tuyệt chủng xảy ra một cách tự nhiên trong suốt quá trình tiến hóa. Ngoài ra, họ dẫn chứng rằng những người hominin thời kỳ đầu đã săn bắn động vật trên cạn – kết quả là có những bộ xương động vật cổ với dấu vết chặt. Nhưng nhóm nghiên cứu nhận thấy những hominin thời kỳ đầu đã không săn bắn một số sinh vật bị tuyệt chủng. MacPhee nói: “Thay vào đó, đã có sự chung sống, giống như luôn tồn tại trong tự nhiên giữa các loài khác nhau. "lặp đi lặp lại, bằng chứng cho thấy" những tổ tiên trước của chính chúng ta ... không làm tăng tỷ lệ tuyệt chủng trên các hòn đảo mà chúng chiếm cư. "Các mốc thời gian tuyệt chủng của các loài động vật trên các đảo đại dương khác nhau, cho thấy thời điểm những người hominin và Homo sapiens đầu tiên đến. Niên đại xuất hiện lần cuối (LAD) của động vật được hiển thị bằng các đường ngang. Các đường LAD đứt đoạn biểu thị sự không chắc chắn. (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
hoặc ví dụ, trên Flores ở Indonesia, nơi "Người Hobbit", hay Homo floresiensis, sinh sống, "không có cuộc tuyệt chủng nào được biết đến có liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện của hominin đầu tiên", các nhà nghiên cứu viết trong nghiên cứu. Điều này cũng đúng với hominin ở Sardinia.Ngược lại, các nhà nghiên cứu nhận thấy: trong vòng 5.000 năm kể từ khi người hiện đại đến quần đảo California Channel khoảng 13.000 năm trước, voi ma mút Colombia (Mammuthus columbia), voi ma mút lùn (Mammuthus exilis) và loài gặm nhấm (Microtus miguelensis) đã tuyệt chủng. Tương tự như vậy, ở Ireland, một con hươu khổng lồ (Megaloceros giganteus) và một con vượn cáo (Dicrostonyx torquatus) đã tuyệt chủng ngay sau khi người hiện đại đến 13.000 năm trước, như trường hợp của một loài sếu (chi Grus) biến mất ở Timor sau khi người hiện đại đến cách đây 46.000 năm.
Các nhóm đảo lục địa (những vùng đất được kết nối với các lục địa tại các điểm trong suốt lịch sử, nhưng hiện nay là các đảo) có bằng chứng về hominin trong kỷ Pleistocen và sự tuyệt chủng của động vật. Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống là (A) Anh; (B) Sri Lanka; (C) Đài Loan; (D) Hokkaido; (E) Đảo King và Tasmania; (F) Đảo Kangaroo; (G) New Guinea; và (H) Borneo, Java và Sumatra. (LP là viết tắt của Pleistocen muộn.) (Nguồn: Louys, J. et al. PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Danh sách tiếp tục: một con voi ở Sulawesi, Indonesia; Cò (Leptoptilos robustus), kền kền (chi Trigonoceps), chim (chi Acridotheres), voi răng kiếm (Stegodon florensis insularis) và thậm chí người Homo floresiensis, đã biến mất ngay sau khi Homo sapiens đến Flores, các nhà nghiên cứu phát hiện.
Tại sao người hiện đại là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt này?
Vậy, tại sao loài người hiện đại lại là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng như vậy, còn các hominin thời kỳ đầu thì không?
MacPhee nói: "Văn hóa, văn hóa, văn hóa". Nếu bạn nhìn nhận sự thích nghi của con người qua lăng kính văn hóa, thì sự khác biệt rõ ràng nhất giữa lúc đó và bây giờ là mức độ mà ngày nay chúng ta có thể kiểm soát các môi trường trên toàn trái đất."
Nói cách khác, các hominin ban đầu có rất ít quyền kiểm soát môi trường của chúng; họ có thể săn bắn, nhưng không sử dụng các công nghệ phức tạp. MacPhee cho biết: “Những người sớm trên các hòn đảo đến đó bằng cách thực hiện các cuộc hành trình trên biển - họ đã định hướng về biển và tài nguyên biển, và không biết cách săn bắt động vật trên cạn hoặc không quan tâm đến việc đó”.
Khi con người trở nên tiên tiến hơn, có khả năng là "hành vi của chúng ta đối với môi trường đã thay đổi và trở nên phá hoại hơn khi chúng ta có khả năng sử dụng công nghệ cao hơn".
Mốc thời gian tuyệt chủng cho thấy thời điểm động vật tuyệt chủng liên quan đến thời điểm hominin và Homo sapiens đến các đảo lục địa. Các thanh màu tím dọc cho biết khi nào những vùng đất này là đảo. Niên đại xuất hiện cuối cùng (LAD) của các loài động vật đã tuyệt chủng được thể hiện bằng các đường ngang, với các đường chấm chấm đánh dấu sự không chắc chắn. (EAD là viết tắt của niên đại xuất hiện sớm nhất.) (Nguồn: Louys, J. và cộng sự PNAS (2021); (CC BY-NC-ND 4.0))
Ông cũng cho biết: Phát hiện cho thấy rằng con người không nên cho rằng "tổ tiên của mình đã có sẵn ý thức khai thác quá mức mà chúng ta có nó, đâu đó nằm trong gen của chúng ta". "Nếu có một bài học, thì nó chỉ đơn giản là : Hãy hành động như tổ tiên xa xôi của chúng ta đã làm, lấy những gì bạn cần từ thiên nhiên nhưng không phá hủy nó trong quá trình này."Điều này cũng giải thích tại sao các cuộc tuyệt chủng không liên quan đến sự xuất hiện đầu tiên của người Homo sapiens trên các hòn đảo cách đây khoảng 50.000 năm. Julian Hume, một nhà cổ sinh học và cộng tác nghiên cứu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, London Vương quốc Anh, người không tham gia nghiên cứu này, cho biết: “Có vẻ như trong suốt thời gian này, cả hominin và hệ động vật trên đảo đã xuất hiện và phát triển cùng nhau. Vào thời điểm đó, có ít người hơn, công cụ kém tinh vi hơn và tỷ lệ chiếm cư chậm hơn. Điều này đã thay đổi trong suốt thời kỳ Holocen, khi con người hiện đại làm chủ việc di chuyển đường dài vượt biển với số lượng lớn, phát triển các công cụ tinh vi và đưa các loài động vật không bản địa cùng với chúng đến các hòn đảo.
Tuy nhiên, Hume lưu ý rằng các hòn đảo nổi tiếng là những nơi bảo tồn hóa thạch kém. Ngoài ra, các hóa thạch tồn tại lâu dài theo thời gian có xu hướng là từ động vật to lớn và khỏe mạnh, thay vì động vật nhỏ và mỏng manh. Vì vậy, thật khó để nói, khi nhìn vào hồ sơ hóa thạch, liệu các hominin trước đó có gây ra sự tuyệt chủng cho động vật hay không - Hume trả lời Live Science trong một email.
Hume cũng cho hay: Hơn nữa, xương động vật cổ bị chặt để lấy thịt và bị đốt là "cực hiếm". "Bởi vì các tác giả đã tìm thấy rất ít bằng chứng về sự ăn thịt của con người, nhưng không có nghĩa điều đó đã không diễn ra.”
Nhưng ông vẫn đồng ý với thông điệp rút ra của các nhà nghiên cứu. Ông nói: “Chúng ta có thể hiểu và tha thứ cho tổ tiên loài người đã săn lùng những thứ cần thiết khi họ đi khắp các đại dương. "Điều không thể tha thứ là con người hiện đại đang phá hủy thế giới tự nhiên với tốc độ chưa từng có, mặc dù có hiểu chi tiết về cái giá cuối cùng phải trả như thế nào”.
Nghiên cứu được công bố trực tuyến vào thứ Hai (3 tháng 5/2021) trên tạp chí Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia. Bản gốc được công bố trên Live Science.
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo: https://www.livescience.com/early-humans-island-extinctions.html
Thông báo
Thứ tư, 12 Tháng 6 2024- 09:59
Thứ bảy, 27 Tháng 5 2023- 14:12
Thứ hai, 06 Tháng 6 2022- 10:10
Thứ tư, 23 Tháng 3 2022- 14:57
Thứ ba, 07 Tháng 9 2021- 16:38
Thư viện
- Tác giả: Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa
- Nhà xuất bản: Thanh Hóa – 2020
- Số trang: 212 tr
- Khổ sách: 21 x 29,7cm
- Tác giả:
GS.TS. Nguyễn Hữu Minh
PGS.TS. Phan Thị Mai Hương
PGS.TS. Vũ Thị Thanh Hương
PGS.TS. Vũ Mạnh Lợi
- Năm xuất bản: ...
- Tác giả: Paul Ory
- Người dịch: Phạm Văn Tuân
- Nhà xb: Dân Trí, 2019
- Khổ: 14 x 20,5
- Số trang: 164tr
- Tác giả :TS.Trần Thị Phương Hoa (Chủ biên), Viện sử học
- Năm xuất bản: 2023
- Số trang: 432tr
- Tác giả: Viện KHXH vùng Nam Bộ
- Năm xuất bản: 2023
- Nhà xb:Lao Động
- Số trang: 500
- Tác giả : TS. Lý Hoàng Mai (Chủ biên)
- Năm xuất bản: 2022
- Số trang: 244
NXB Tổng hợp TPHCM vừa ra mắt trọn bộ 2 quyển sách Khảo cổ học Đồng bằng sông Mê Kông - Tập II: Văn minh vật chất Óc Eo của tác giả Louis Malleret do...
- Tác giả: Phạm Văn Kỉnh
- Nhà xb: Văn hóa dân tộc
- Năm xb: 2024
- Số trang: 302tr
Tạp chí
Khảo cổ học số 2/2024
Khảo cổ học số 1/2024
Khảo cổ học số 1/2024
Huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần nằm ở phía tây tỉnh Hà Giang, cách thành phố Hà Giang 100 - 150 km về phía tây; phía bắc giáp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, phía tây giáp tỉnh Lào Cai, phía đông giáp huyện Vị Xuyên và huyện Bắc Quang, phía nam giáp huyện Quang Bình.
Phần 2: Khảo cổ học Tiền sử
Phần 1: Vấn đề chung
QUY ĐỊNH GỬI BÀI CHO TẠP CHÍ KHẢO CỔ HỌC
Tin tức khác
08 Th11 2024 17:00
08 Th11 2024 15:34
08 Th11 2024 15:15
08 Th11 2024 14:04
05 Th12 2022 15:10
05 Th12 2022 10:59
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9023394
Số người đang online: 30