Trong đợt công tác mới đây tại Viện nghên cứu di sản văn hóa biển Quốc gia Hàn Quốc tôi được tiếp xúc với Trung tâm Khảo cổ học dưới nước và trực tiếp tham gia hai cuộc hai quật Khảo cổ học dưới nước của bạn. Có thể nói Hàn Quốc giờ đây là một cường quốc trong lĩnh vực này song cách đây vài ba chục năm họ cũng ở trong điều kiện, hoàn cảnh và xuất phát điểm tương đồng với Việt Nam của chúng ta, vì vậy trong bài thông báo nhỏ này tôi muốn nêu lên một số kinh nghiệm về mô hình xây dựng Trung tâm Khảo cổ học dưới nước và đặc biệt là phương pháp khai quật khảo cổ học dưới nước của bạn để tham khảo và có thể ngiên cứu áp dụng trong việc xây dựng chuyên nghành Khảo cổ học dưới nước của chúng ta.
- Mô hình xây dựng Trung tâm Khảo cổ học dưới nước
Trước thập niên 80 đầu thế kỷ XX, cũng như chúng ta, Hàn Quốc bắt đầu chú ý đến Khảo cổ học dưới nước khi các cư dân địa phương phát hiện một xác tàu đắm ở vùng biển Sinan tỉnh Jeolla thuộc Tây - Nam Hàn Quốc và họ đã bắt đầu khai quật con tàu này từ năm 1976. Qua 5 năm khai quật, tất cả các hiện vật và xác con tàu này đã được trục vớt thành công. Năm 1981, Trung tâm Bảo quản và Phục dựng Di sản văn hóa dưới nước được thành lập với mục đích chủ yếu là bảo quản và phục dựng tàu đắm Sinan. Những năm tiếp theo, Trung tâm này ngoài việc tiếp tục phục dựng, bảo quản tàu Sinan, đã tiến hành khai quật 2 tàu đắm khác ở vùng biển Tây Nam là tàu Wando và tàu Jindo. Năm 1994, Bảo tàng văn hóa dưới nước được thành lập với chức năng là trưng bày, giới thiệu các di sản văn hóa biển, năm 2009 được đổi tên thành Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa dưới nước Quốc gia Hàn Quốc bao gồm cả Trung tâm Khảo cổ học dưới nước. Đến thời điểm này, Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa biển Quốc gia Hàn Quốc là cơ quan quan trọng nhất và duy nhất của Hàn Quốc trực tiếp nghiên cứu, khai quật và trưng bày di sản văn hóa dưới nước ở quốc gia này. Họ đã có một trung tâm chuyên về khai quật khảo cổ học dưới nước, có trung tâm trưng bày và trung tâm nghiên cứu với một đội ngũ chuyên gia dày dặn kinh nghiệm có thể quán xuyến công tác nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước ở Hàn Quốc và mở rộng hợp tác với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Bài học kinh nghiệm của họ ở đây là mạnh dạn khởi đầu với những gì mình có, không có sự khởi đầu thì không có các quá trình tiếp theo. Lúc đầu, khi phát hiện tàu đắm Sinan, họ cũng đã bắt đầu từ con số 0, không thiết bị, không chuyên gia, không có kinh phí dồi dào, song họ mạnh dạn đưa một số cán bộ Khảo cổ học trên cạn học lặn và học cách làm việc dưới nước, thuê phương tiện như tàu, xà lan công trình và các thiết bị lặc của hải quân với một số kinh phí ít ỏi họ đã kiên trì khai quật con tàu. Đó là một quá trình vừa làm vừa học và họ đã thành công. Khi có thành công bước đầu họ mạnh dạn khuếch trương thành quả và xin thêm kinh phí của nhà nước để duy trì và phát triển. Có thể nói, Hàn Quốc bây giờ là một cường quốc về Khảo cổ học dưới nước.
- Một số kinh nghiệm về phương pháp khai quật
Do trực tiếp tham gia khai quật, tham gia lặn và làm việc với bạn trên di chỉ nên chúng tôi đã học được rất nhiều kinh nghiệm về phương pháp khai quật của bạn. Nói chung, những phương pháp đó không xa lạ gì với chúng ta, cái khác là môi trường làm việc và mục đích của cuộc khai quật.
Khi phát hiện được tàu đắm, công việc đầu tiên là tiến hành khảo sát, nghiên cứu kỹ vị trí con tàu, độ nông sâu của nước cùng với các đặc điểm về địa hình, dòng chảy và khí hậu của khu vực, để có thể xác định thời gian, kinh phí và phương pháp thích hợp cho cuộc khai quật. Tất cả các cuộc khai quật đều do cán bộ của Trung tâm Khảo cổ học dưới nước đảm nhiệm.
Bước thứ hai là xác định chính xác mục tiêu khoa học của cuộc khai quật, thường mục tiêu được xác định là: nghiên cứu nguồn gốc và hàng hóa chuyên chở của con tàu, chủ nhân của tàu, hải trình tàu, nguyên nhân bị đắm… Trong đó, điều quan trọng nhất là bản thân con tàu như kích thước, kỹ thuật đóng tàu, nguồn gốc và chủ nhân của tàu để từ đó nghiên cứu về kỹ thuật đóng tàu, nguồn gốc và chủ nhân của tàu để từ đó nghiện cứu về kỹ thuật đóng tàu và các lĩnh vực khác liên quan khác như lịch sử hàng hải, giao thông, thương mại…Với cách tiếp cận như vậy nên hàng hóa mà con tàu chuyên chở bị đặt xuống hàng thứ yếu, điều này khác hẳn với chúng ta.
Xác định chính xác mục tiêu khoa học như vậy nên trong quá trình khai quật, tất cả các cứ liệu không bị bỏ qua dù là những chi tiết nhỏ nhất của con tàu. Tại cuộc khai quật tàu đắm Jindo, do đáy biển ở đây có nhiều bùn nên khi khai quật tầm quan sát rất hạn chế (khoảng 15-20cm), sợ bị bỏ sót tư liệu nhỏ nên họ đã sử dụng một máy hút công suất lớn hút bùn và nước tại di chỉ đưa lên sà lan công trình và cho chảy qua một hệ thống sàng nhằm thu lại những tư liệu có thể bị bỏ sót dưới đáy biển. Do khai quật tỉ mỉ như vậy nên đã thu được nhiều hiện vật nhỏ nhưng rất quý giá về mặt khoa học như: những thanh tre trên đó có ghi rất rõ loại hàng hóa, số lượng, tên, địa chỉ người gửi và người nhận; những thùng bằng gỗ hoặc bằng tre dùng để đựng hàng, hay những mẩu xương cá nằm trong lọ… Những hiện vật đó cung cấp thông tin khoa học chính xác về chủ nhân của con tàu, hàng hóa chuyên chở từ đâu đến đâu. Từ các thông tin trên, chúng ta dễ dàng phục dựng được con tàu, chủ nhân của tàu hay hải trình của tàu.
Cuộc khai quật tàu đắm ngoài khơi biển Incheon là một cuộc khai quật có quy mô rất lớn, đã huy động rất nhiều trang thiết bị hiện đại, đội ngũ chuyên gia lành nghề và được rất nhiều các phương tiện thông tin đại chúng đề cập song cách làm việc của họ lại rất tỉ mỉ, cẩn thận. Tôi đã cùng họ lặn xuống di chỉ nhiều lần nhưng chỉ quan sát, đo, vẽ, chụp ảnh từng chi tiết một, công việc này chiếm phần lớn thời gian khai quật ở đây. Họ không vội đưa hiện vật lên chúng ta có hỏi bạn tại sao không đưa hiện vật lên? Và được bạn trả lời đó là khâu cuối cùng của khai quật. Họ nói, nếu chú trọng đưa hiện vật lên thì sẽ bỏ qua nhiều thông tin khoa học của con tàu vì khi lấy hiện vật thì địa tầng sẽ bị xáo trộn, các vị trí của hiện vật trong và xung quanh tàu sẽ bị thay đổi do song của máy thổi gây nên. Điều quan trọng nhất là phải lấy hết các thông tin quan trọng trước, đó mới lấy hiện vật.
Do có phương pháp và mục đích khai quật khoa học như vậy nên họ đã thu được nhiều thành quả khoa học, đặc biệt là họ đã phục dựng lại được tất cả các con tàu họ đã khai quật về cả hình dáng, kích thước, kỹ thuật lẫn hải trình và đầy đủ hang hóa chuyên chở để trưng bày, giới thiệu; và quan trọng hơn từ đó họ phục dựng được lịch sử hành trình trên biển của các con tàu cũng như con đường thương mại cổ của Hàn Quốc mà ta thường gọi là con đường tơ lụa trên biển.
Liên hệ lại sáu cuộc khai quật của chúng ta trong vài chục năm trở lại đây tôi không khỏi luyến tiếc vì chúng ta chỉ chú trọng trục vớt hiện vật mà bỏ quên nhiều thông tin khoa học khác; duy chỉ cuộc khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm là ngoài 240.000 cổ vật chúng ta đã lấy được một số thông tin khác như vài mảnh gỗ thân tàu, di cốt người…Đặc biệt là các xác tàu thì chúng ta chưa đưa về được cái nào; đáng tiếc hơn cuộc khai quật tàu cổ Bình Châu vừa rồi tại Quảng Ngãi, cả xác tàu đắm hầu như còn nguyên vẹn và đã xuất lộ rõ ràng mà Ban khai quật lại không đưa lên dù đây là khâu dễ nhất và ít tốn kém nhất của cuộc khai quật.
Việt Nam chúng ta có nguồn di sản văn hóa dưới nước dồi dào, đặc biệt là các di tích tàu đắm và nguồn di sản đó đang đứng trước nguy cơ bị phá hoại nghiêm trọng. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu khai quật Khảo cổ học dưới nước đang được đặt ra một cách cấp thiết nhằm khai thác, bảo vệ nguồn di sản văn hóa quý giá này. Đặc biệt, tình hình tranh chấp biển Đông trong khu vực ngày càng trở nên phức tạp thì việc đẩy mạnh hơn nữa nghiên cứu di sản văn hóa biển sẽ giúp chúng ta có nhiều bằng chứng về chủ quyền biển đảo góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước một cách thuyết phục hơn. Việc hợp tác nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm của các nước tiên tiến nhằm xây dựng và phát triển chuyên ngành Khảo cổ học dưới nước của chúng ta, theo tôi, là con đường ngắn nhất để mà chúng ta có thể đưa sự nghiệp nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước phát triển lên một tầm cao mới.
(Tác giả: Nguyễn Tuấn Lâm)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Trong năm 2013, Viện Khảo cổ học phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội tiếp tục tiến hành công tác khai quật, nghiên cứu khảo cổ học tại trục trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Kết quả mới nhất: đã xác định được không gian của trục trung tâm Cấm thành Thăng Long thời Lê kéo dài từ cửa Đoan Môn vào đến thềm rồng của nền điện Kính Thiên. Tại khu A (khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) đã xác định được 1 di tích kiến trúc thời Lê còn khá rõ mặt bằng với các móng trụ và nền đất đắp.
1. Vị trí phát hiện
- Phía đông: Kiến trúc nằm sát vách đông của khu khai quật.
- Phía tây: Kiến trúc nằm chồng đè lên các kiến trúc Lý-Trần và lớp đất đắp nền phủ đè lên bề mặt của các kiến trúc đó khoảng 60cm. Các móng trụ ngoài cùng phía tây nằm sát với dấu tích của dòng chảy thời Lê.
- Phía bắc: Kiến trúc chạy dài theo chiều bắc-nam.
2. Phạm vi phân bố
Trên các dấu tích đã được xác định, mặt bằng kiến trúc xuất lộ dài theo chiều bắc-nam: 42,5m, rộng theo chiều đông-tây: 9,0m với 17 móng trụ được gia cố bằng gạch vồ đầm chặt và đất sét.
3. Mặt bằng di tích
Các móng trụ được đầm gia cố bằng gạch vồ thời Lê và đất sét, ngoài ra quan sát tại một số móng trụ còn thấy có sự tận dụng một số mảnh gạch bìa đỏ, một số mảnh gốm sứ và các mảnh ngói nhỏ.
Hiện trạng kiến trúc đã xuất lộ dấu tích của 17 móng trụ, theo chiều từ bắc xuống nam xếp thành 10 hàng, tạo thành 09 khoảng cách gian, trong đó khoảng cách 1 có kích thước là 2,6m (đây có thể là chái phía bắc của kiến trúc), các khoảng cách gian còn lại có kích thước tương đương nhau từ 3,6m đến 4,1m . Theo chiều từ đông sang tây, dấu tích các móng trụ xếp thành 03 hàng, tạo thành 02 khoảng cách, trong đó khoảng cách 1 có số đo là 2,6m, khoảng cách 2 chưa xác định do dấu tích các móng trụ còn lại trong các hàng không đồng đều (trên bản vẽ, tạm xác định được số đo khoảng 4,5m).
Mặt bằng hiện trạng di tích
Đây là dấu tích kiến trúc duy nhất của thời Lê còn xác định được trên mặt bằng khu di tích, mặt bằng các di tích thời Lê có thể đã bị thời sau phá hủy rất mạnh. Bản thân kiến trúc, ngoài các móng trụ đã được xác định nêu trên, các thành phần kiến trúc khác đều đã bị mất (ngoại trừ dấu tích đất tôn đắp nền còn được nhận diện được tại các rìa cạnh móng trụ).
Phía tây của khu A, xuất lộ dấu tích của 02 móng trụ được dùng gạch vồ đầm chặt, đây là dấu tích các móng trụ đầm của thời Lê. Trong số 02 móng trụ trên, thì dấu tích móng trụ phía bắc nằm thẳng hàng với dấu tích của các móng trụ thuộc hàng 1 (theo chiều bắc-nam). Dấu tích móng trụ phía nam nằm thẳng hàng với các móng trụ thuộc hàng móng trụ 3.
a. Nền kiến trúc
Nền kiến trúc gồm 02 bộ phận, đất đắp nền và nền lát gạch, tuy nhiên chỉ còn nhận diện được dấu tích còn lại của đất đắp nền tại các rìa cạnh móng trụ. Đất đắp nền dày 60cm, màu nâu, lẫn nhiều các mảnh gạch, ngói, sành vụn, kết cấu đất khá chặt, bề mặt trên cao tương đương với bề mặt còn lại của các móng trụ, và đều nằm trên lớp vật liệu của thời Trần.
b. Móng trụ
Trên tổng thể mặt bằng, kiến trúc đã xuất lộ với dấu tích của 17 móng trụ, theo chiều từ bắc xuống nam xếp thành 10 hàng, theo chiều từ đông sang tây xếp thành 03 hàng. Dấu tích các móng trụ xuất lộ đã bị thời sau phá hủy nghiêm trọng, một số móng trụ trong phạm vi của kiến trúc không còn dấu tích.
- Khoảng cách giữa các móng trụ theo chiều từ đông - tây: theo chiều này, kiến trúc đã xuất lộ 3 hàng móng trụ tạo thành 2 khoảng cách:
+ Khoảng cách 1: Có số đo dao động từ 2,6m đến 2,8m. Đây có thể là khoảng cách giữa cột quân và cột cái trong vì của kiến trúc.
+ Khoảng cách 2: Hiện trạng không đo được kích thước do các móng trụ bị phá huỷ, tuy nhiên căn cứ số đo của khoảng cách 1 thì đoán định khoảng cách 2 có số đo dao động từ 4,5m đến 5,0m. Đây có thể là khoảng cách giữa 2 cột cái trong 1 vì kiến trúc.
- Khoảng cách giữa các móng trụ theo chiều bắc-nam: Theo chiều này, các móng trụ xếp thành 10 hàng, tạo thành 9 khoảng cách.
+ Khoảng cách 1: Có số đo nhỏ nhất (2,6m). Và đây có thể là khoảng cách gian chái phía bắc của kiến trúc.
+ Khoảng cách 2 đến khoảng cách 9: có số đo dao động từ 3,6m đến 4,1m. Đây có thể là khoảng cách gian của kiến trúc.
Nhận xét:
Trên tổng thể mặt bằng khu di tích, các dấu tích thời Lê được nhận diện chủ yếu là loại hình giếng nước (có lẽ do được đào sâu xuống dưới, nên không bị phá hủy hoàn toàn), dấu tích kiến trúc rất mờ nhạt có thể đã bị thời sau phá hủy. Việc còn nhận diện được dấu tích kiến trúc thời Lê như trên là tư liệu hết sức đáng chú ý.
Hiện trạng kiến trúc đã xuất lộ tổng số 17 móng trụ, theo chiều đông-tây xếp thành 03 hàng, theo chiều bắc-nam gồm 10 hàng tạo thành 09 khoảng cách gian, như vậy mặt bằng 01 chái phía bắc và 08 khoảng cách gian.
Các khoảng cách theo chiều từ đông sang tây có số đo lần lượt là 2.6m và 4.5m – 5,0m, nên có thể mặt bằng kiến trúc có kết cấu gồm 4 móng trụ trong 1 vì, tuy nhiên hàng móng trụ ngoài cùng phía tây có thể đã bị phá hủy.
Như vậy, ở thời Lê, khu vực 18 Hoàng Diệu vẫn tồn tại các kiến trúc cung điện, lầu gác (có thể đã bị phá hủy ở thời sau - thời Nguyễn?) cho thấy khu vực này vẫn là trung tâm của Cấm thành Thăng Long từ thời Lý đến thời Lê.
(Tác giả: Phạm Văn Triệu)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Di chỉ Dương Xá thuộc thôn Dương Đình, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Di chỉ được phát hiện một cách ngẫu nhiên từ những năm 80 của thế kỷ trước, trong quá trình cải tạo và quy hoạch đất đai, nhân dân địa phương phát hiện những ngôi mộ gạch và những đồ đồng, đồ gốm mang phong cách Đông Sơn.
Toàn cảnh di chỉ khảo cổ học Dương Xá
Tháng 4 năm 1987, Sở Văn hóa – Thông tin Hà Nội kết hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật di chỉ này với diện tích 30m2. Kết quả khai quật này cho thấy, Dương Xá là di chỉ cư trú kết hợp mộ táng, rộng khoảng 3 vạn m2, có tầng văn hóa dày và khá ổn định, chia thành hai lớp: Gò Mun lớp dưới và Đông Sơn lớp trên, không có lớp vô sinh ngăn cách giữa hai lớp này. Cư dân Dương Xá cổ làm nhiều nghề khác nhau, đặc biệt là nghề gốm, nghề luyện đồng và nghề cá khá phát triển.
Tháng 1 năm 1998, Viện Khảo cổ học đã đào thám sát di chỉ Dương Xá. Kết quả cũng cho thấy Dương Xá là di chỉ cư trú có 1 tầng văn hóa chia thành 2 lớp phát triển liên tục, không có lớp vô sinh ngăn cách: Lớp dưới là nơi cư trú của cư dân Gò Mun; lớp trên là nơi cư trú của cư dân Đông Sơn và mộ táng Đông Sơn. Trong hố thám sát không phát hiện được đồng, đồ đá nghèo nàn, đồ gốm (các mảnh vỡ) có số lượng lớn. Diễn biến đồ gốm rất phù hợp với sự phân chia các lớp văn hóa. Từ lớp I đến lớp III: Gốm Đông Sơn mang đặc trưng loại hình Đường Cồ có số lượng áp đảo.
Tháng 12 năm 2008, đoàn thực tập của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tiến hành khai quật di chỉ Dương Xá với diện tích 50m2. Tầng văn hóa gồm các lớp đất xám đen, xám nâu, vàng nhạt, trong đó lớp đất xám đen là dày nhất và được ngăn cách với lớp xám nâu bởi một dải đất vàng nhạt dày mỏng không đều và liền mạch. Thông qua các hiện vật thu được ở các lớp đất ta có thể thấy rõ, lớp đất xám đen tương ứng với văn hóa Đông Sơn, lớp đất xám nâu mang nhiều yếu tố của văn hóa Gò Mun. Còn lớp đất vàng nhạt gần giống như sinh thổ có thể là do cư dân Đông Sơn đào những hố đất đen xuyên qua lớp văn hóa Gò Mun xuống sinh thổ, rồi đất đào từ các hố đó được phủ lên mặt lớp văn hóa Gò Mun. Dựa trên các dấu tích còn lại trong địa tầng văn hóa, đặc điểm di tích, di vật, những người khai quật đồng ý với ý kiến của TS. Lại Văn Tới cho rằng niên đại di chỉ Dương Xá này là thuộc cuối giai đoạn văn hóa Gò Mun chuyển tiếp sang giai đoạn Đông Sơn.
Diễn biến địa tầng trong hố khai quật năm 2008.
Dựa vào di vật đồng, đá và gốm, chúng ta thấy rất rõ nhận định trên. Các mũi lao, mũi giáo đều là những loại hình xuất hiện trong các di chỉ thuộc văn hóa Gò Mun và Đông Sơn. Tuy các di vật mang đậm tính chất của văn hóa Gò Mun, nhưng trên thực tế, khi chưa bị san ủi, di chỉ Dương Xá vốn cao hơn hiện tại gần 1m nên có thể các di vật Đông Sơn ở phần đất này có lẽ cũng chiếm một tỷ lệ nhất định. Ngoài ra, hiện vật Đông Sơn và Gò Mun cũng bị xáo trộn ở các lớp văn hóa. Người Đông Sơn đã kế thừa sản phẩm của người Gò Mun, trên cơ sở những thành tựu văn hóa Gò Mun, người Đông Sơn đã tạo cho mình một nền văn hóa rưc rỡ.
Một số di vật khai quật năm 2008.
Như vậy, Dương Xá là một di chỉ khảo cổ học tiêu biểu cho giai đoạn chuyển tiếp từ văn hóa Gò Mun lên văn hóa Đông Sơn. Chủ nhân của nó chính là những người Gò Mun sau đó người Đông Sơn tiếp tục kế thừa và phát triển thêm một bước cao hơn nữa. Tuy lớp văn hóa của giai đoạn Đông Sơn bị san bạt đi đi khá nhiền, nhưng độ dày của di chỉ vẫn còn trên 1m và mang đậm những yếu tố văn hóa Gò Mun pha lẫn với một số dấu tích văn hóa Đông Sơn. Nghiên cứu di chỉ khảo cổ học Dương Xá góp phần tìm hiểu tiến trình phát triển từ giai đoạn Tiền Đông Sơn lên Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng. Hiện nay, với tầng văn hóa còn tương đối dày và diện tích tiềm năng cho khai quật tương đối còn lớn, trong tương lai, chúng ta cần có thêm những đợt khảo sát và khai quật để có một cái nhìn toạn diện về di chỉ khảo cổ học quan trọng này.
Chu Mạnh Quyền, n
Tại nút Đào Tấn đầu năm 2013 Viện Khảo cổ học đã khai quật 6 hố với tổng diện tích 600m2. Các di tích xuất lộ trong các hố H1, H2, H3 và H6 cho thấy kỹ thuật đắp La Thành thời Lý và thời Trần góp phần củng cố thêm những nghiên cứu từ trước đến nay về vòng thành này. Theo thứ tự xuất lộ từ trên xuống dưới có những kỹ thuật như sau:
- Lớp đầm/đắp thời Trần
Xuất lộ ở lớp 2 của các hố khai quật với các mảnh ngói, mảnh sành được đầm vụn trong đất thịt pha sét mịn, màu nâu đỏ. Trong đó, các loại vật liệu được đầm vụn ở phía dưới chân tường thành tạo thành bề mặt phẳng rộng 1,2m, dày khoảng 25cm. Trong lớp đầm này đa số là mảnh ngói phẳng, màu đỏ, sành mịn và một số mảnh gốm men. Đồ gốm và sành có niên đại thời Trần. Tuy nhiên, có một số mảnh gốm men Trung Quốc, thời Tống. Trên lớp vật liệu này được đầm/đắp bằng đất phù sa pha sét màu nâu đỏ tạo thành taluy lên tới mặt trong của tường thành. Phần đất này còn để lại nhiều dấu vết cho thấy người xưa chuyển đất thành từng khối lớn 30x40cm và đắp ập vào tường thành. Cách này khác hẳn việc đầm đắp của thời Lý được trình bày dưới đây. Qua địa tầng các hố ở khu vực Đào Tấn chúng tôi nhận thấy, lớp đầm đắp thời Trần chỉ có ở phía trên và ở mặt trong của đê.
- Lớp đầm/đắp thời Lý
Tường La Thành đầm/đắp thời Lý xuất lộ trong các hố khai quật với phần trên là tường đất dùng kỹ thuật đầm chân cừu và phần dưới là tường đất được đầm/đắp không dùng kỹ thuật đầm chân cừu. Phần tường trên xuất lộ ở độ sâu từ -280cm đến -500cm (so với mốc 0 giả định). Đây là phần lõi tường thành bằng đất được đầm chặt thành nhiều lớp mỏng mỗi lớp dày khoảng 5 – 10cm (phía trên dày 10cm, càng xuống dưới lớp càng mỏng chỉ khoảng 5 – 7 cm). Người xưa đã dùng dụng cụ đầm có nhiều núm đinh gần tròn khi đầm để lại các lỗ rỗng với độ dài đinh khoảng 2cm, đường kính từ 2,2 – 3,4cm, lớp đất đầm tiếp theo đất trám vào vị trí các lỗ rỗng đó tạo sự liên kết rất chặt giữa các lớp đất đầm (ngành Xây dựng gọi là kỹ thuật đầm chân cừu). Khi tách các lớp đầm ra chúng tôi phát hiện bề mặt các lớp đều có một lớp tro đen rất mỏng cho thấy tro thực vật đã được dùng để tránh chống dính khi đầm. Đất trong tường đầm là đất phù sa pha sét mịn màu nâu đỏ được chọn lọc và nhào trộn rất kỹ nên đến nay không hề có vết nứt ngang trong thân đê. Dựa theo vết tách tự nhiên khi đất khô và dấu đinh đầm để lại, từ độ sâu -317 đến -500cm (dày 1,83m) tách ra được 23 lớp đầm.
Phần tường dưới là lớp đất đắp lõi thành có mặt cắt ngang gần hình thang với chiều rộng ngang thân thành khoảng 9m, dày hơn 1m. Đất trong lớp này được chọn lọc rất kỹ nên không hề lẫn vật liệu hay đá sỏi, là loại sét vàng loang lổ, đầm chặt. Không thấy sử dụng kỹ thuật đầm có dấu đinh. Mặt trong lớp đất được đặt gỗ kè vuông vức, nhưng mặt ngoài lại được đắp vát chéo xuống.
Các lớp đầm đắp La thành thời Lý tại hố khai quật Đào Tấn
Phân tách giữa hai phần tường có hai móng sỏi chạy dọc hai bên tường thành. Hai móng sỏi xuất lộ dưới lớp đất đầm chân cừu cuối cùng, móng được đào sâu vào lớp tường dưới trước khi dổi sỏi vào đầm. Khoảng cách giữa hai đường sỏi hai bên lõi tường thành khoảng 8,4m. Vật liệu đầm trong di tích này là cuội sông trộn với đất phù sa pha sét mịn màu nâu làm kết dính. Cuội có nhiều kích thước khác nhau, to nhất 3x4cm, trung bình 3x2cm, nhỏ 1x0,5cm. Lớp sỏi được dải/đầm có chiều rộng 50 – 52cm và dày 10cm. Về phía đông của đường sỏi phía trong thành có hàng cọc gỗ đóng với khoảng cách từ tâm cọc nọ đến cọc kia là 95cm, rộng nhất là 105cm, ngắn nhất 85cm. Các lỗ cọc để lại với đường kính phổ biến 14cm, to nhất 23cm.
Trong lớp sỏi cũng như phần tường đất đầm chân cừu bên trên, thi thoảng có mảnh gốm thô, sành, ngói cong thời Đường và thời Lý. Phần tường bên dưới đất không hề có hiện vật.
La thành tuyến đê Bưởi mang hai tính chất vừa là đê ngăn nước vừa là thành quân sự vì vậy khi đắp thành người xưa đã xử lý đất rất kỹ để đáp ứng cả hai mục tiêu này và cho đến nay trong thân đê vẫn không hề có những vết nứt ngang. Việc xây dựng La thành thời Lý đã rất quy chuẩn với kỹ thuật đầm nén kỹ lưỡng, thành được đắp cao. Đến thời Trần La thành được bồi đắp thêm ở mặt trong cho rộng mặt thành và thêm vững chắc.
Việc đầm đắp tường thành thời Lý và thời Trần trên tuyến đê Bưởi khá thống nhất. Các dấu tích như đã trình bày trên đây còn được phát hiện trong các hố khai quật tại nút giao thông Đội Cấn giao với đê Bưởi.
Josdar (NPHM 2013)
Tháng 7 năm 2013, trong khuôn khổ thực hiện Đề tài cấp Cơ sở, chúng tôi đã tiến hành phúc tra lại hệ thống các di tích văn hóa Tiền Đông Sơn tỉnh Phú Thọ trên địa bàn các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông và thành phố Việt Trì. Hiện trạng các di chỉ như sau:
1. Hệ thống các di tích văn hóa Phùng Nguyên
1.1. Huyện Lâm Thao:
- Di chỉ Gò Chùa Cao (xã Cao Xá): Hiện tại khu gò cây cối mọc um tùm. Trên sườn gò xây dựng một ngôi chùa, cổng tam quan rất rộng, đẹp. Phía trước gò là khu nghĩa địa.
- Di chỉ Thành Dền (xã Cao Xá): Hiện tại nhà dân ở kín phạm vi gò. Có một số khu vực còn rõ tầng văn hóa, dày khoảng 80cm - 100cm nhưng cũng khó thực hiện khai quật do người dân đã xây dựng những công trình kiên cố
- Di chỉ Xóm Kiếu (xã Tứ Xã): Khu vực này giờ là khu dân cư đông đúc.
- Di chỉ Gò Mả Nguộn (xã Tứ Xã): Toàn bộ gò đã bị san bạt để xây dựng trường học. Khu di chỉ giờ là trường THCS Tứ Xã rất khang trang.
- Di chỉ Gót Rẽ (xã Tứ Xã): Vẫn là cánh đồng lúa, sau đợt khai quật của Viện Khảo cổ học vào năm 1995 thì bà con đi làm ruộng hầu như không nhặt được những chiếc búa đá nữa (đồ đá bà con thường gọi là búa đá).
- Di chỉ Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ): Khu vực ao gần chợ tầng văn hóa còn rất rõ, đồ gốm còn rải rác trên vách ao, khu vực giáp cánh đồng trồng lúa ở ngoài ao còn có gốm vỡ rải rác trên bề mặt.
1.2. Huyện Phù Ninh:
- Di chỉ An Đạo (xã An Đạo): Gò vẫn còn gần nguyên nhưng giờ thành đất của chùa Hoàng Long, phần sườn gò có thể khai quật nhưng vị sư trụ trì không cho phép đào trong đất chùa.
- Di tích Xóm Rền (xã Gia Thanh): Di tích nằm trong khu vườn của các gia đình dân nên vẫn còn được bảo tồn, vẫn có khu vực có thể khai quật được. Tuy nhiên, có một tình trạng là di tích hiện giờ không được sự quan tâm của các cấp chính quyền cũng như các cơ quan chức năng có liên quan. Biển giới thiệu di tích lịch sử cấp Quốc gia đã bị rơi xuống đất không biết từ bao giờ.
- Di tích Gò Diễn (xã Tiên Du): Khu gò này đã bị san phẳng và phá hủy hoàn toàn để xây hai trường học của xã Tiên Du (trường THCS và trường TH Tiên Du).
1.3. Huyện Tam Nông:
- Di chỉ Gò Chùa (xã Hương Nộn): Giờ trở thành khu dân cư đông đúc với nhà cửa xây san sát.
- Di chỉ Gò Chè (xã Dậu Dương): Giờ trở thành khu dân cư đông đúc với nhà cửa xây san sát.
- Di chỉ Gò Bông (xã Thượng Nông): Khu vực này cũng nhà cửa san sát, dân ở đông đúc. Trong vườn một số nhà dân vẫn rải rác có gốm.
- Di chỉ Hồng Đà (xã Hồng Đà): Đã bị xóa sổ, không còn chút dấu tích nào của công xưởng chế tác đá quy mô lớn. Theo một số người dân cao tuổi, khu di chỉ Hồng Đà nằm trên Gò Tôm và đến nay người ta đã đào thành đầm để thả sen.
1.4. Thành phố Việt Trì:
- Di chỉ Đồng Ghệ (trước thuộc xã Thanh Đình, huyện Lâm Thao, nay thuộc TP. Việt Trì): Khu di chỉ này hiện nay là các ruộng lúa nước, chỉ còn lại rải rác một số ụ đất nhô cao ở trong các ruộng lúa.
- Di chỉ Đồng Dạ (trước thuộc xã Thanh Đình, huyện Lâm Thao, nay thuộc TP. Việt Trì): Khu di chỉ này hiện nay không còn dấu tích khảo cổ, dân đã san bạt gò và xây dựng nhà ở san sát, trở thành khu dân cư đông đúc.
- Di chỉ Gò Mồng (trước thuộc xã Thanh Đình, huyện Lâm Thao, nay thuộc TP. Việt Trì): Khu di chỉ này hiện nay không còn dấu tích khảo cổ, dân đã san bạt gò và xây dựng nhà ở san sát, trở thành khu dân cư đông đúc.
- Di chỉ Khu Đường (xã Vĩnh Lại, trước đây thuộc huyện Lâm Thao, nay thuộc TP. Việt Trì): Hiện là khu vực trồng màu và ruộng lúa, trên bờ ruộng có xuất lộ mảnh gốm vỡ.
- Di chỉ Đồi Giàm (Phường Trưng Vương): Gò vẫn còn cây cối um tùm, nhưng ngay dưới phần lưng chừng gò có một cộc mốc, qua tìm hiểu chúng tôi được biết đây là cộc mốc quy hoạch đường. Một con đường trong thành phố sẽ chạy vòng quanh khu di chỉ.
2. Hệ thống các di tích văn hóa Đồng Đậu
- Di chỉ Đồng Đậu con (xã Tứ Xã): Vẫn là cánh đồng lúa, nhưng rất tiếc khi chúng tôi chuẩn bị ra di chỉ thì trời đổ mưa rất to và đường ra cánh đồng là đường đất nhỏ nên chúng tôi không thực hiện được việc định vị GPS tại di chỉ này.
3. Hệ thống các di tích văn hóa Gò Mun
3.1. Huyện Lâm Thao:
- Di chỉ Mã Lao (xã Thụy Vân): Khu di chỉ này đến nay đã bị xóa sổ, toàn bộ phạm vi khu di chỉ dân đã san bạt gò để xây dựng nhà ở. Các khu nhà khang trang đã phủ kín khu gò.
- Di chỉ Gò Đồng Sấu (xã Thụy Vân): Khu di chỉ hiện tại là khu đồi trồng sắn của dân.
- Di chỉ Gò Chiền (xã Tứ Xã): Gò hiện tại đã bị san phẳng, là khu ruộng trồng cà và mướp.
- Di chỉ Gò Mun (xã Tứ Xã): Di tích đã được xếp hạng Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, có bảo vệ nhưng không hiệu quả. Đây là di chỉ hiếm hoi còn có thể khai quật.
- Di chỉ Gò Tro Trên (xã Thụy Vân): Toàn bộ khu vực gò cây hoang mọc um tùm, nhiều bụi xương rồng to, bụi dứa dại và mộ cải táng được xây dựng tại đây.
- Di chỉ Gò Tro Dưới (xã Thụy Vân): Khu vực trên đỉnh gò trồng sắn và phi lao, lưng chừng gò người dân đã xây dựng một khu mộ tổ quy mô lớn.
- Di chỉ Nội Gan (xã Kinh Kệ): Khu gò đã bị san phẳng, hiện là khu nghĩa trang và vườn trồng cây ăn quả của người dân.
Lời kết
Phú Thọ là một vùng đất hội tụ đậm đặc nhất những di tích khảo cổ thuộc các văn hóa Tiền Đông Sơn từ Phùng Nguyên đến Gò Mun.
Tuy nhiên cho đến nay, đa số các di chỉ đã bị phá hủy một phần hoặc phá hủy hoàn toàn nhằm lấy đất xây dựng nhà ở của dân hoặc thực hiện các mục đích khác như canh tác lúa nước, trồng màu, xây trường học, lập trại chăn nuôi...
Trong tình trạng các di tích gần như bị xóa sổ hết, các cơ quan quản lý văn hóa cũng như các cấp chính quyền cần có những chương trình cụ thể bảo vệ và gìn giữ các di tích, đặc biệt là các di tích đã được xếp hạng.
(Nhóm tác giả: Bùi Thu Phương, Nguyễn Tiến Đông, Nguyễn Anh Tuấn)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
- Từ lâu, biển đã là môi trường sống của con người trên đất nước ta
Mở đầu là lớp người cư trú ở Cát Bèo (Bến Bèo) trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), cách ngày nay khoảng 6.000 năm (niên đại C14: 5.640±115 năm, hiệu chỉnh theo tuổi vòng cây: 6.475±205 năm). Tại nơi cư trú của con người, bên cạnh công cụ bằng đá, đồ đựng, đồ đun nấu bằng đất nung, còn cả một khối lượng lớn di cốt cá biển do con người bắt về, trong di cốt cá biển, phổ biến là loại cá sạo, cá úc…, là những loại cá chịu được sự biến đổi lớn về độ mặn trong nước, chúng thường xuất hiện ở hồ, vịnh, cửa sông, v.v… Chứng tỏ vùng biển xung quanh đảo Cát Bà, lúc này còn là vùng biển nông (thấp hơn hiện nay khoảng - 2m).
Một biến cố lớn của thiên nhiên xảy ra, mực nước biển tăng nhanh (khoảng + 4m so với mực nước hiện nay), đạt tới mức cực đại, nước biển bắt đầu hạ xuống, lùi dần ra phía đông.
Từ khoảng 5.000 năm cách nay, theo vết nước biển rút đi, nhiều lớp người đến cư trú sinh sống lâu dài tại vùng biển – hải đảo từ bắc vào nam:
Tại vùng ven biển và hải đảo đông bắc (Vịnh Bắc Bộ), phân bố các di chỉ thuộc văn hóa Hạ Long. Trên đảo Cát Bà đã phát hiện được hai di chỉ thuộc văn hóa Hạ Long, trong đó một di chỉ phân bố ngay trên di chỉ Cát Bèo trước đây, phân cách giữa hai lớp cư trú thuộc hai văn hóa khác nhau là lớp sạn con, mỏng, vát dần từ phía biển vào chân núi, có 91% qua sàng 5mm. Lớp sạn con có nguồn gốc biển và thuộc tướng bãi biển; ở các đảo xa, như đảo Ngọc Vừng có tới ba địa điểm cư trú của cư dân Hạ Long.
Trên doi cát - dấu vết của mực nước biển dâng cao nhất, thuộc huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa), đã phát hiện di chỉ Gò Trũng - một di chỉ thuộc văn hóa Đa Bút và một số di chỉ muộn hơn, thuộc văn hóa Hậu Lộc.
Tại cánh đồng lúa phía đông (giáp biển) của huyện Quỳnh Lưu, trước đây, vào khoảng 5.000 năm, nơi đây còn là vùng vịnh nông, nửa hở, nơi rất thuận lợi cho điệp sinh sống và phát triển, đã phát hiện trên 20 đống vỏ điệp, là di chỉ của văn hóa Quỳnh Văn. Điệp biển và sò do con người bắt về sử dụng, vỏ của chúng chất thành đống, có đống rộng tới 500m2, có đống cao trên 10m, …
Tại xã Thạch Lạc (huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh), tại mép nước biển cổ, cách nay khoảng 5.000 năm (cách mép nước biển hiện tại khoảng 4km) phân bố di chỉ thuộc văn hóa Thạch Lạc, những tích tụ trong nơi cư trú của người Thạch Lạc là vỏ điệp, vỏ sò, và rất nhiều xương cá biển, v.v…
Tại vùng biển từ miền Trung Trung Bộ trở vào, lần lượt đã phát hiện: di chỉ Bàu Tró, di chỉ Xóm Cồn, các di chỉ thuộc các giai đoạn phát triển văn hóa Sa Huỳnh v.v…
Trên đảo Thổ Chu, điểm tận cùng của phía nam đất nước ta, cũng đã phát hiện di chỉ cư trú và mộ chum, mang những nét điển hình ở vùng Nam Bộ.
- Biển đảo không chỉ là môi trường sống của con người, các loài hải sản, như xương cá, vỏ các loại nhuyễn thể là nguồn cảm hứng bất tận trong đời sống tinh thần của con người, nhất là người thợ làm đồ gốm đương thời
Sinh sống trong môi trường biển đảo, hoạt động đi lại của con người ắt phải dựa vào phương tiện giao thông. Trong các văn hóa đã đề cập đến ở trên thì đến nay chúng ta chưa phát hiện được bất kỳ một dấu tích nào của phương tiện đi lại. Trong các di chỉ cư trú của những lớp người cư trú ở vùng biển - đảo này, tồn tại những chiếc bôn đá có nấc, bôn đá có vai có nấc, những chiếc bôn đá hình răng trâu, v.v… là những công cụ dùng để chế tạo đồ gỗ, trong đó hẳn có các phương tiện đi lại, như thuyền, bè, v.v…
Văn hóa Đông Sơn, một văn hóa có địa bàn cư trú khá rộng mà trung tâm là vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã. Địa bàn cư trú có cả chiều dài phía đông giáp với Biển Đông. Một môi trường sống đa dạng, rất thuận lợi cho sự sống và phát triển của cư dân Đông Sơn.
Khác với các lớp cư dân nói trên, trong di chỉ cư trú của cư dân Đông Sơn đã phát hiện được một số dấu tích quan trọng của phương tiện đi lại trên sông nước.
Từ hoa văn trang trí trên trống đồng Đông Sơn, Parmentier và Goloubew là những người đầu tiên nhận ra hình thuyền trên trống là hình thuyền đi biển. Bởi trên thuyền có cột buồm, trên cột buồn trang trí hình lông chim và đầu chim, đuôi thuyền và ở mũi thuyền đều có bánh lái, cùng người cầm lái. Đào Duy Anh có cùng một nhận định, đó “là thuyền chạy trên biển bằng buồm” và giải thích thêm “bánh lái ở mũi để đi khi ngược gió” (Đào Duy Anh: “Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt” trong “Lịch sử cổ đại Việt Nam” - Nxb. Văn hóa thông tin - năm 2005). Nhà khảo cổ học Trung Quốc - Lý Vĩ Khanh, không đồng tình với nhận định của Parmentier, Goloubew và Đào Duy Anh, cho rằng cột có trang trí lông chịm không phải là cột buồm, mà là hình tượng của “doanh cổ” trang trí trên đồ đồng của Trung Quốc. Đồng thời, Lý Vĩ Khanh còn nhấn mạnh: tất cả thiết bị thấy được trên thuyền, không có một thiết bị nào, chứng tỏ đây là thuyền vượt biển (Lý Vĩ Khanh: “Tìm hiểu thêm về hoa văn thuyền trên trống đồng” – trong “Tập luận văn hội thảo khoa học lần thứ hai của Hội Nghiên cứu trống đồng Trung Quốc” – Nxb.VV - năm 1986).
Hình thuyền trên trống đồng cũng như trên đồ đồng khác của văn hóa Đông Sơn, không phải là ảnh chụp, mà là bản vẽ do người thợ đúc đồng tạo ra, nên độ chính xác không cao và không đầy đủ như đối tượng vốn có; do vậy, những chi tiết trên đó không giống với đối tượng cũng là điều bình thường. Có điều, học giả Lý Vĩ Khanh đã không phát hiện ra, dưới hình thuyền còn có hình các loại hải sản, như: cá đuối, cá heo, rùa biển v.v… đang bơi theo thuyền (!). Điều đó chẳng khác gì một lời “chú giải” về chức năng của chiếc thuyền: Đây là thuyền đang đi biển!
Trong biển có tới hàng trăm loại hải sản, nhưng chỉ có vài ba loại nhất định được cư dân Đông Sơn chọn để thể hiện cùng với thuyền đang vận hành trên biển (?). Theo những người đi biển, những loài hải sản đó rất gần gũi và thân thiện với con người, nó có thể hỗ trợ người đi biển trong lúc gặp nạn, và đã có biết bao câu chuyện cá heo cứu người rơi xuống biển, v.v… Để có thể nhận định được những thuộc tính quý báu của các loài hải sản này, cư dân Đông Sơn đã phải có một quá trình hoạt động lâu dài và thường xuyên trên biển.
Những hình thuyền thể hiện trên đồ đồng của văn hóa Đông Sơn, như trống đồng, thạp đồng, v.v… đều được thể hiện theo cách thống nhất: chúng đang vận hành theo một hướng từ phải qua trái, chiều ngược kim đồng hồ. Điều đó có ẩn ý gì (?).
Vùng biển của nước ta là vùng biển của bão thuộc bắc bán cầu, đường đi của bão vừa xoay tròn theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, vừa di chuyển vào lục địa. Người đi biển gặp bão, cần phải biết mình đang ở đâu trong vùng có bão để tìm cách thoát ra. Theo kinh nghiệm của người đi biển, khi gặp bão, nhìn theo hướng di chuyển của tâm bão, khu vực nguy hiểm sẽ ở bên phải hướng di chuyển của bão, bên trái là khu vực có thể đi được. Một khi bão đổi hướng, nếu thấy gió thổi thuận theo chiều kim đồng hồ, lúc đó thuyền đang ở nửa vòng nguy hiểm, nếu ngược kim đồng hồ, lúc đó thuyền đang ở nửa vòng có thể đi được. Do vậy, hướng ngược kim đồng hồ là hướng hy vọng của sinh tồn.
Hướng vận động ngược kim đồng hồ đã được thể hiện trong một số điệu múa dân gian sau này, đặc biệt trong điệu hát trống quân Đức Bác (Phú Thọ), khi di chuyển từ bờ sông vào đình làng, người hát đã tái hiện chính xác đường di chuyển của bão: vừa xoay tròn vừa di chuyển.
Ngoài hình thuyền trang trí trên đồ đồng, trong mộ táng của văn hóa Đông Sơn còn phát hiện được một số mộ táng có quan tài là thân cây khoét rỗng; điều đó gợi ra hình ảnh của những chiếc thuyền độc mộc trong cuộc sống hằng ngày. Đặc biệt hơn cả là chiếc thuyền cùng mái chèo đã được chôn cùng với người chết và đồ tùy táng của họ ở Việt Khê (Hải Phòng), cách ngày nay khoảng 2.500 năm, hiện nay tại một số nơi ở vùng ven biển vẫn còn giữ tục dùng thuyền để đưa người chết đến nơi yên nghỉ cuối cùng.
Cho nên có thể nói, biển thực sự là một thành tố quan trọng của văn hóa Đông Sơn.
(Tác giả: Nguyễn Văn Hảo)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh có nhiều chức năng khác nhau: đồ chứa đựng hài cốt mai táng, đồ thờ cúng, đồ gốm dùng trong sinh hoạt (đồ đun nấu, đồ đựng đồ ăn uống), đồ gốm chứa đựng, đồ trang sức, đồ sản xuất. Các đồ gốm có kiểu dáng đa dạng, thậm chí cùng một loại đồ gốm nhưng cũng có dáng khác nhau. Điều này do chức năng sử dụng, môi trường sống và tư duy thẩm mỹ của các cư dân đã sáng tạo nên các đồ gốm. Dựa trên chức năng và kiểu dáng đồ gốm, các thợ gốm đã tạo nên các mô típ hoa văn đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh và đặc trưng cho từng loại đồ gốm khác nhau.
Đồ gốm Sa Huỳnh ở vùng Trung Trung bộ và Nam Trung bộ có nhiều khác biệt với nhau cả về hình dáng và hoa văn. Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến sự tương quan giữa loại hình và hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Sa Huỳnh ở vùng Trung Trung Bộ.
Các mô típ hoa văn đặc trưng trên đồ gốm văn hóa Sa Huỳnh
- Chum, vò gốm: Đây là loại đồ gốm có kích thước lớn nhất trong số các đồ gốm Sa Huỳnh, được dùng với chức năng như các quan tài mai táng. Gồm có chum hình trụ, chum hình trứng, chum hình cầu, nồi - vò. Các loại chum hình trụ, hình trứng thường có nắp hình nón cụt được trang trí hoa văn khá đẹp, trong khu đó các loại chum hình cầu hoặc nồi - vò nắp không thống nhất một kiểu loại và hầu như không được trang trí hoa văn.
Các loại chum hình trụ, hình trứng thường có văn thừng phủ bên thân bên ngoài, từ dưới vành miệng (hoặc từ 2/3 thân) xuống gần đáy. Đây là loại văn mang tính kỹ thuật được sử dụng khi làm đồ gốm. Nắp của các loại chum này được trang trí những mô típ hoa văn cầu kỳ thường là các băng khắc vạch - khắc vạch ngắn tạo các đường cong dạng hình sin hoặc các hình tam giác, hình chữ nhật, hình thoi, các băng thẳng… xen giữa các băng khắc vạch - khắc vạch ngắn là băng màu đỏ. Các hoa văn này thường được trang trí từ sát đỉnh nắp tới gần vành mép. Một số nắp được trang trí đơn giản, chỉ gồm một băng chì đen trên vành miệng.
- Bình gốm: Có thể nói là loại đồ gốm được trang trí nhiều nhất và có những hoa văn đẹp nhất. Trang trí trên vành miệng phía ngoài, thậm chí cả phía trong, trên cổ, vai, chân đế, phổ biến nhất vẫn là vị trí trên vai.
Các mô típ hoa văn trang trí cho bình gốm tiêu biểu trong văn hóa Sa Huỳnh là: Khắc vạch thành từng nhóm gồm 3 đường song song nằm dọc, khoảng cách giữa các nhóm được tô màu đỏ trên loại hình gốm vai xuôi, gờ gãy góc thấp gần đáy, chân đế thấp choãi. Hoa văn được trang trí trên phần vai. Tiêu biểu là bình ở Lai Nghi, Hậu Xá, An Bang,… Cũng trên loại bình tương tự loại này có hoa văn khắc vạch hình tam giác bên trong các tam giác chứa các đường khắc vạch song song, màu đỏ được tô ở bên ngoài.
Mô típ tiêu biểu thứ hai trang trí trên vai các bình gốm là mô típ chữ S nằm ngang nối đuôi nhau có đệm các tam giác. Màu đỏ thường nằm len lỏi giữa những khoảng trống của các đường khắc vạch kết hợp in chấm, dạng hoa văn này có rất nhiều biến thể với những cách biến đổi các họa tiết và sự linh hoạt trong cách phối màu. Trong một số mô típ màu đen phủ đầy trong các mô típ tạo sự khác lạ và nổi bật trong mô típ. Các bình gốm ở Cồn Ràng, Gò Mả Vôi,… Nửa thân dưới của bình thường phủ văn thừng.
Ngoài ra, một số mô típ hoa văn cũng được sử dụng trên vai hoặc chân đế bình là: mô típ khắc vạch in chấm đệm tam giác kết hợp tô màu, hoa văn khắc vạch gồm những họa tiết tam giác và tam giác đệm, xen kẽ tô màu đỏ và in chấm bằng mép vỏ sò, hoa văn khắc vạch hình răng sói,…
- Nồi gốm: Được sử dụng làm đồ đun nấu thức ăn, số lượng được phát hiện khá nhiều với các kiểu dáng đa dạng. Trên nồi gốm, chủ yếu được phủ văn thừng ở thân bên ngoài, một số ít nồi trên vai hoặc cổ được trang trí hoa văn rất đơn giản như các họa tiết khắc vạch, tô màu, một số nồi khác để trơn không có hoa văn. Các hoa văn thường được trang trí trên nồi là các mô típ in mép vỏ sò tạo các hình dích dắc, hình trám, hình xương cá; hoa văn khắc vạch in chấm hoa văn mô típ chữ S nối đuôi nhau có đệm các tam giác; hoa văn khắc vạch hình răng sói; hình trám; khắc vạch tạo hình các tam giác liền kề nhau.
- Bát/ mâm bồng: Hoa văn được trang trí trên phần thân bát và chân đế. Trên chân đế có nhiều băng khắc vạch song song hoặc cắt nhau màu đỏ hoặc chì được tô xen kẽ các băng đó; hoặc hoa văn khắc vạch in chấm hình chữ S biến thể nối đuôi nhau nằm ngang có (đệm các tam giác trổ lỗ trên đỉnh) các tam giác xen kẽ.
- Bát gốm: Hoa văn in mép vỏ sò trên mép miệng, hoặc in mép sò thành các đường cong, thành các nhóm đường thẳng tạo thành hình trám lồng hoặc hình dích dắc.
- Cốc gốm: Cốc là loại đồ đựng chân đế cao, phần thân nhỏ, thường được trang trí hoa văn chấm dải hình chữ S nằm ngang móc với nhau đệm các tam giác, rìa miệng có những đường khắc vạch nghiêng song song, dưới đó là một băng gồm những hình tam giác cân nằm cạnh nhau, bên trong có in chấm, đệm giữa các tam giác là những họa tiết xoắn, phía dưới là một băng giống phần miệng. Chân đế trang trí in chấm rải rác.
- “Đèn”: loại hình hiện vật này rất đặc trưng cho văn hóa Sa Huỳnh, song chức năng thực sự của nó chưa xác định chính xác được, có mặt trong các địa điểm văn hoá Sa Huỳnh nhưng với số lượng rất ít. Hầu hết các “đèn” gốm tìm thấy đều được trang trí hoa văn với các họa tiết rất cầu kỳ, có thể đây là đồ gốm mang tính nghi lễ hoặc vật biểu trưng sự giàu có (?). Hoa văn thường được trang trí trên khoảng giữa hai vành miệng trong và ngoài, trên toàn bộ phần thân và chân đèn. “Đèn” gốm trang trí hoa văn khắc vạch thành từng nhóm, giữa các đường khắc vạch được tô màu đỏ được trang trí trên vành miệng, tiêu biểu là đèn ở Lai Nghi, Hậu Xá, Tam Mỹ,… ; hoa văn khắc vạch tạo thành mô típ hình chữ nhật trên thân đèn tiêu biểu là đèn ở Sa Huỳnh; các họa tiết các băng khắc vạch kết hợp khắc vạch ngắn tạo thành hình các tam giác và các đường dích dắc, các họa tiết này thường được kết hợp tô màu đỏ hoặc màu đen ánh chì; hoa văn khắc vạch in chấm hoặc in chấm tạo thành các nhóm đường thẳng, đường dích dắc hoặc tam giác. Trên “đèn” gốm thường được tô màu đỏ.
- Dọi xe chỉ: hầu hết không trang trí hoa văn, một số ít trang trí các họa tiết khắc vạch.
Một vài nhận xét bước đầu
- Tùy theo chức năng của các đồ gốm, người thợ gốm trang trí các hoa văn nhiều ít, cầu kỳ hoặc đơn giản. Những đồ gốm như nắp hình nón cụt của chum, “đèn” gốm, bình gốm, mâm/bát, cốc gốm hầu như đều được trang trí hoa văn với các họa tiết cầu kỳ và thường được kết hợp tô màu. Có thể các đồ gốm này mang tính nghi lễ nhiều hơn là tính thực dụng. Nhóm đồ gốm như nồi, bát, dọi xe chỉ được trang trí ít hơn và hoa văn cũng đơn giản hơn.
- Một số họa tiết chỉ đượng sử dụng trang trí trên một số loại hình đồ gốm nhất định, trong khi một số họa tiết lại được sử dụng cho nhiều đồ gốm có chức năng khác nhau. Các họa tiết trang trí trên nắp chum dường như hiếm được sử dụng để trang trí trên các đồ gốm khác, như mô típ các băng khắc vạch - khắc vạch ngắn tạo hình sin, hình chữ nhật lồng, hình trám. Đa phần các mô típ được sử dụng cho nhiều đồ gốm khác nhau. Mô típ hoa văn khắc vạch in chấm tạo thành các chữ S nằm ngang nối đuôi nhau có đệm các tam giác kết hợp tô màu được sử dụng trang trí trên: vai bình, chân đế bình, nồi gốm, cốc gốm, bát/mâm bồng, chân đế mâm bồng. Đây là loại hoa văn khá tiêu biểu trong văn hóa Sa Huỳnh, hoa văn này có rất nhiều biến thể khác nhau, các họa tiết này trang trí trên bình gốm hoặc mâm bồng thì thường được kết hợp tô màu. Mô típ khắc vạch tạo thành các nhóm đường thẳng cũng được sử dụng trang trí nhiều trên bình gốm, “đèn” gốm. Mô típ khắc vạch tạo thành các tam giác liền nhau được dùng để trang trí trên vai bình, nồi gốm và nắp chum. Hoa văn in mép sò tạo thành các nhóm đường thẳng và các hoa văn khắc vạch hình răng sói được trang trí trên nồi, bát gốm. Mô típ khắc vạch ngắn tạo hình các tam giác nằm trong các băng đường thẳng dích dắc được trang trí trên đèn gốm, vành mép nắp chum và chân đế của bát/mâm bồng.
- Các hoa văn thường được trang trí trên những vị trí dễ được nhìn thấy. Đối với các loại chum mộ, hoa văn trang trí trên nắp chum để khi hạ quan tài xuống hố, thì phần nắp sẽ được quan sát thấy từ trên và thể hiện sự giàu sang cho chủ nhân ngôi mộ. Bình, cốc gốm thường được trang trí trên vai hoặc chân đế. “Đèn gốm” thường được trang trí trên toàn thân, đặc biệt là phần miệng luôn phủ kín hoa văn. Bát/mâm bồng được trang trí ở vành miệng phía ngoài, hoặc ở phần nửa thân phía trên gờ gãy góc và trên chân đế. Bát thường được trang trí trên mép miệng hoặc thành miệng phía ngoài của bát. Nồi gốm thường được trang trí trên vai hoặc cổ.
(Tác giả: Hoàng Thúy Quỳnh)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Văn hóa Xóm Cồn được phát hiện và nghiên cứu muộn hơn nhóm di tích Long Thạnh và Bình Châu, nhưng lại được xác lập thành văn hóa khảo cổ riêng biệt. Xung quanh nền văn hóa này đã có nhiều ý kiến thảo luận và một số ý kiến cho rằng văn hóa Xóm Cồn không thuộc hệ thống văn hóa Sa Huỳnh, nhưng chắc chắn có nhiều đóng góp vào sự hình thành văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền 1996). Sau khi nghiên cứu các di tích, di vật của văn hóa Xóm Cồn, chúng tôi cho rằng nhiều yếu tố văn hóa của nền văn hóa này đã đóng góp trực tiếp vào sự hình thành và phát triển của văn hóa Sa Huỳnh, đặc biệt là loại hình Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ Nam Trung bộ. Như vậy có thể coi văn hóa Xóm Cồn là một văn hóa Tiền Sa Huỳnh, mà sự hình thành của nó có quan hệ chặt chẽ với vùng hội nhập Dak Lấp - Cầu Sắt.
Cho đến nay đã phát hiện được 8 địa điểm thuộc văn hóa Xóm Cồn. Các di tích này phân bố ở đồng bằng ven biển và đảo ven bờ hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Đây là những đồng bằng nhỏ hẹp, không tách biệt với vùng núi về mặt nguồn gốc phát sinh. Cư dân văn hóa Xóm Cồn đã tụ cư ở những cồn cát trên dải đồng bằng ven biển ấy, hoặc ở trên những hòn đảo không xa bờ.
Kết quả khai quật các di tích văn hóa Xóm Cồn cho thấy tích tụ văn hóa dày từ 80cm -110cm, bên trong có chứa vỏ các loài nhuyễn thể, xen lẫn cát phù sa và các di cốt động vật. Điều đáng lưu ý là trong tích tụ tầng văn hóa không thấy nhiều vỏ điệp, mà phổ biến nhiều loại ốc như ốc Mặt trăng (Tuybo sp), ốc Tai tượng (Tridacna sp) và một số loài sò ốc khác. Tích tụ văn hóa này là một đặc trưng văn hóa riêng biệt so với các văn hóa Tiền Sa Huỳnh khác, nhưng lại là yếu tố văn hóa dễ nhận biết trong loại hình Sa Huỳnh khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.
Đặc trưng văn hóa nổi trội nhất của văn hóa Xóm Cồn là những hiện vật xương và vỏ nhuyễn thể. Theo thống kê của những người khai quật, trong 8 địa điểm của văn hóa này đã phát hiện được 84 công cụ lao động với một vài mũi dùi, mũi lao làm bằng xương hoặc sừng, còn tuyệt đại đa số làm bằng vỏ nhuyễn thể bao gồm các loại hình như công cụ ghè đẽo, công cụ nạo và hòn ghè. Bên cạnh đó còn có 18 mảnh vòng trang sức bằng vỏ ốc Tai tượng và một số lõi vòng bằng vỏ ốc. Những hiện vật này phát hiện thấy từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn trong văn hóa Xóm Cồn. Và, điều đặc biệt là các hiện vật này cũng thấy xuất hiện trong địa tầng của các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ như di tích Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn và di tích Hòa Diêm ở gần vịnh Cam Ranh - Khánh Hòa. Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á như ở cực Nam Nhật Bản, Đông Đài Loan, Bắc Philippines, Nam Thái Lan.
Bên cạnh những hiện vật bằng vỏ nhuyễn thể, trong văn hóa Xóm Cồn còn có các di vật bằng đá, với đặc trưng nổi bật là sự độc tôn loại rìu, bôn, đục không có vai, phổ biến loại rìu bôn hình thang đốc thuôn nhỏ, mặt cắt ngang hình chữ nhật hoặc thấu kính. Nét đặc trưng này mang nhiều dấu ấn của công cụ đá nhóm di tích Dak Lấp - Cầu Sắt ở khu vực Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ.
Đồ gốm trong văn hóa Xóm Cồn phổ biến loại hình nồi đáy tròn miệng loe, được tạo bởi kỹ thuật nặn tay kết hợp bàn đập - hòn kê. Trang trí trên đồ gốm chủ yếu là văn chải, khắc vạch, in chấm, tô màu. Loại văn in chấm kiểu dích dắc cũng là nét đặc trưng của hoa văn gốm trong văn hóa Xóm Cồn. Loại hoa văn này cũng xuất hiện trong một số loại hình gốm ở di chỉ Lộc Giang (Long An), di chỉ Lung Leng (Tây Nguyên) và ở di chỉ Sam-rông-sen (Căm-pu-chia). Một loại hoa văn gốm nữa là văn vẽ màu trên nền áo đỏ hoặc da cam với những đường xoắn ốc, gần tương tự hoa văn gốm Ban Chiang. Điều ghi nhận nữa là ngoài các kiểu dạng nồi gốm, trong văn hóa Xóm Cồn còn có một số loại hình bát và đĩa mâm bồng có tô màu đỏ. Những loại hình đồ gốm này có nhiều nét gần gũi với đồ gốm Sa Huỳnh giai đoạn sớm.
Sự đóng góp của cư dân văn hóa Xóm Cồn vào quá trình hình thành văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ là phương thức sống khai thác biển, sử dụng vỏ nhuyễn thể làm công cụ lao động và đồ trang sức. Những chứng cứ này có thể tìm thấy trong tầng văn hóa của các di tích văn hóa Sa Huỳnh Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn, hay ở di tích Hòa Diêm (Khánh Hòa), đã tạo nên nét độc đáo, đa dạng cho văn hóa Sa Huỳnh. Đồng thời, trong lớp sớm nhất của tầng văn hóa di chỉ Xóm Ốc, bên cạnh những hiện vật đặc trưng Long Thạnh đã tồn tại công cụ nạo bằng vảy ốc Mặt Trăng, công cụ ghè đẽo bằng vỏ ốc Tai Tượng và đồ gốm trang trí văn dích dắc đặc trưng của văn hóa Xóm Cồn.
Như vậy, văn hóa Xóm Cồn không phải là đóng góp gián tiếp, mà là một trong những nguồn đóng góp trực tiếp vào sự hình thành và phát triển của văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam.
(Tác giả: Phạm Thị Ninh)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Tư liệu khai quật và kết quả phân tích niên của một số di tích hang động trong khoảng hơn hai thập kỷ qua cho thấy khá nhiều di tích thuộc kỹ nghệ Hòa Bình có niên đại Pleistocene muộn, nằm trong khoảng 2-3 vạn năm trước. Các kỹ nghệ đá Hòa Bình sớm trong hang động hiện biết thực tế không mang đặc trưng kỹ nghệ Sơn Vi như vẫn thường được hiểu mà nó có những tính chất khá riêng biệt và cần được thảo luận.
1. Cấu tạo trầm tích
Về mặt cấu tạo trầm tích giai đoạn Hòa Bình sớm có thể thấy các đặc điểm như sau:
- Môt số địa điểm như lớp dưới Mái đá Điều (Thanh Hóa), lớp dưới Hang Chổ (Hòa Bình), lớp dưới hang Mang Chiêng (Thanh Hóa), trầm tích là loại sét vôi kết vón màu nâu đỏ hay nâu vàng lẫn sạn sỏi thạch anh, sạn sỏi laterit chứa ít vỏ ốc bị vụn nát bị carbonat hóa. Trong dạng trầm tích này thường phát hiện được các di cốt động vật bán hóa thạch.
- Các địa điểm như lớp dưới Con Moong (Thanh Hóa), lớp dưới Hang Trống (Ninh Bình), trầm tích lại là sét vôi dạng bột khá mịn và mềm màu vàng/đỏ/nâu/xám loang lổ, có những lớp hoặc thấu kính đất bị kết vón do nước chứa carbonat calci thấm vào ở từng thời kỳ gián đoạn. Dạng thành tạo này có lẽ do gió kết hợp với phong hóa từ trần hang rơi xuống. Trầm tích dạng này thường rất hiếm vỏ ốc, di cốt động vật thường ở dạng bán hóa thạch nhưng mức độ thấp.
- Loại trầm tích thứ ba được ghi nhận ở lớp dưới Mái đá Ông Hay là dạng sét vôi dẻo màu nâu xám khá kết dính, ít sạn sỏi. Di tích động vật trong trầm tích này chủ yếu là vỏ ốc mủn nát bị carbonat hóa cao, trong lòng vỏ ốc bị đất điền đầy, di cốt động vật bán hóa thạch nhưng ở mức độ rất thấp.
Các dạng trầm tích trong các di tích hang động thời kỳ này có sự khác nhau có lẽ là do các điều kiện tự nhiên, địa thế cấu tạo của hang cũng như chế độ thủy văn của từng khu vực.
2. Khung niên đại
Khung niên đại cho giai đoạn Hòa Bình sơ khai dựa trên các niên đại tuyệt đối đã được xác định nằm trong khoảng 2-3 vạn năm nhưng có nhiều khả năng còn lên đến 4-5 vạn năm cách ngày nay. Sau đây là dẫn liệu một số niên đại tuyệt đối và niên đại dự đoán dựa trên đặc điểm trầm tích của giai đoạn Hòa Bình sơ khai của các di tích hang động hiện biết (Biểu 1).
Biểu 1. Một số di tích Hòa Bình có niên đại sớm nhất
Di tích (lớp dưới) |
Niên đại (BP) |
Di tồn văn hóa |
Mái đá Thẩm Khương |
28-32.000 |
Choppers; công cụ đá kiểu Hòa Bình không đặc trưng |
Mái đá Điều |
19- 24.000 |
Di cốt động vật hóa thạch (trong đó có Pongo); công cụ hình đĩa cùng với công cụ đá thạch anh không định hình và end-chopper |
Hang Áng Mả |
25.000 |
Vài công cụ đá hình bàn là và không định hình, vỏ ốc núi |
Hang Chổ |
22-29.000 |
Vết tích của Stegodon; công cụ mảnh/công cụ kích thước nhỏ kiểu Hòa Bình |
Hang Muối |
21.000 |
Công cụ đá kiểu Hòa Bình |
Hang Con Moong |
Khoảng 20.000 -50.000 |
Di cốt động vật bán hóa thạch mức độ thấp; công cụ hình đĩa nhỏ, công cụ mảnh tu chỉnh thô/vừa, công cụ đá thạch anh |
Hang Trống |
23.000 |
Các choppers và công cụ mảnh tu chỉnh thô/vừa |
Mái đá Ông Hay |
20.000 -30.000 |
Vỏ ốc mủn nát bị carbonat hóa; các end-choppers và công cụ mảnh thô, công cụ đá thạch anh, đá vôi |
Hang MangChiêng |
Khoảng 20.000 |
Di cốt động vật hóa thạch; các end-choppers, công cụ không định hình, công cụ hình đĩa nhỏ, công cụ đá thạch anh, đá vôi |
3. Đặc trưng kỹ nghệ đá
Ngoài một vài di tích thuộc giai đoạn này có công cụ Hòa Bình tương đối tiêu chuẩn như ở Thẩm Khương và Hang Muối (hai di tích này địa tầng chưa rõ ràng), còn lại chúng ta thấy bộ công cụ đá có những đặc trưng riêng biệt, đó là những đặc điểm sau:
3.1. Về mặt loại hình
- Chỉ mới xuất hiện một vài nạo hình đĩa khá nhỏ, chưa có công cụ kiểu Sumatralith hình bầu dục, công cụ hình rìu hay rìu ngắn.
- Các công cụ dạng chopper thường không định hình, trong đó hầu hết là end-chopper, công cụ có mũi nhọn hình tam giác, rất hiếm side-chopper.
- Công cụ mảnh khá phổ biến nhưng thường ở không định hình, chỉ có vết tu chỉnh thô/vừa tạo rìa tác dụng.
3.2. Về mặt kỹ thuật
Giai đoạn này ngoài kỹ thuật ghè đẽo, đã xuất hiệkỹ thuật mài với chứng cứ bàn mài tìm thấy ở lớp sớm nhất của Mái đá Điều.
3.2. Về mặt chất liệu đá
Giai đoạn này nổi bật là sự sử dụng chất liệu đá thạch anh (quartz) để chế tác công cụ. Loại này chủ yếu ở dạng cuội lăn kích thước lớn, mức độ mài mòn kém cho nên trước khi ghè thành công cụ người ta phải tiến hành tách mảnh, công cụ thường kém quy chuẩn.
4. Tính chất kỹ nghệ và văn hóa
Như những đặc điểm nêu trên, tính chất kỹ nghệ đá giai đoạn này không phải là kỹ nghệ Sơn Vi, yếu tố Hòa Bình cũng còn khá mờ nhạt. Theo trật tự địa tầng thì kỹ nghệ này sẽ phát triển thành kỹ nghệ Hòa Bình là điều chắc chắn, như vậy mô hình tiến triển Sơn Vi-Hòa Bình vào giai đoạn 1-2 vạn năm trước cần phải xem xét lại. Kỹ nghệ Sơn Vi thực thụ có thể vẫn là tiền Hòa Bình nhưng ở giai đoạn xa xưa hơn khoảng 6-7 vạn năm trở về trước như Làng Vạc, Đồi Thông. Giữa Sơn Vi và Hòa Bình có lẽ còn một nhịp trung gian, đó là kỹ nghệ Hòa Bình sớm và thậm chí còn mang sắc thái một kỹ nghệ tiền Hòa Bình.
(Tác giả: Nguyễn Gia Đối)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học 2013)
Từ trước đến nay, những người làm công tác khảo cổ học từ Trung ương cho đến các địa phương, thường sau những đợt khai quật khảo cổ học, tất cả các hiện vật chỉ được rửa sạch sẽ, thống kê, phân loại và làm hồ sơ khoa học, rồi sau đó lại bàn giao cho các địa phương. Cán bộ bảo tàng ở các địa phương sau đó cũng sẽ chọn lựa những hiện vật đẹp, có giá trị để trên phòng trưng bày, còn đa phần để cất giữ trong các kho. Nhưng tất cả mọi người đều thừa hiểu rằng: những hiện vật đó chưa hề được bảo quản theo đúng nghĩa: Bảo quản khoa học thật sự đối với hiện vật khảo cổ học.
Là người làm công tác khảo cổ học tới 40 năm tròn, tôi cũng đã có dịp đi công tác gần như khắp đất nước và cũng có nhiều dịp trở lại với các bảo tàng mà những người làm công tác khảo cổ như chúng tôi đã từng bàn giao lại cho địa phương có khi đến vài ba xe ôtô hiện vật khảo cổ học sau những lần khai quật. Nhưng thật đau lòng và cảm thấy xót xa là số hiện vật khảo cổ học mà mình đã từng nâng niu, trân trọng sau khi đã được bàn giao cho bảo tàng địa phương vì nhiều lý do nay đã hư hỏng xuống cấp, thậm chí mất mát hoặc xếp đống trong các kho tạm. Những hiện vật khảo cổ này đã trở thành mối lo cho một số bảo tàng như chứa rác trong nhà, vô tác dụng đối với các nhà nghiên cứu. Chính bản thân chúng tôi đã từng phải đi làm cái việc cực chẳng đã là thanh lý giúp một số bảo tàng (như Bảo tàng Nam Định chẳng hạn) cả một kho hiện vật (trong cái gọi là kho tạm) vô chủ, sau khi chỉ làm được mỗi một việc là thống kê, phân loại.
Vậy thì chúng ta đào lên nhiều để làm gì, trong khi chúng ta chưa có đủ điều kiện để bảo quản, giữ gìn nó (trừ việc khai quật giải phóng mặt bằng phục vụ cho quốc kế dân sinh). Trở lại chủ đề chính của báo cáo: Đã đến lúc chúng ta phải có ý thức và có cách bảo quản, giữ gìn những hiện vật khảo cổ học sau khai quật.
Sau ngày được Viện khảo cổ học cho nghỉ hưu theo chế độ, cũng vì còn máu mê với nghề nghiệp, tôi đã được Công Ty TNHH Bảo quản và Bảo tồn Di sản mời với tư cách là chuyên gia khảo cổ học, được tham gia bảo quản hiện vật cho Bảo tàng Hà Nội, phục vụ cho Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội ; được bảo quản gần như toàn bộ mấy vạn hiện vật đủ các loại hình cho Bảo tàng Thanh Hóa và nhiều hiện vật khác nữa cho các Bảo tàng Hưng Yên, Yên Bái, Tuyên Quang .... Tôi mới thấy việc tìm kiếm hiện vật khảo cổ học đã khó, nhưng việc bảo quản, giữ gìn cho hiện vật khảo cổ được lâu dài còn thật khó và tốn kém tiền của hơn nhiều.
Cũng vì khuôn khổ chỉ trong một bài viết nhỏ, chúng tôi không thể đi vào diễn giải thật chi tiết, khoa học cho tất cả các loại hình di tích và di vật khảo cổ học với các phương pháp bảo quản chúng mà khắp trên thế giới đã và đang áp dụng, ở đây chúng tôi chỉ rút ra một vài tiêu chí, cách xử lí tối thiểu mà tất cả chúng ta, những người làm công tác khảo cổ học, những cán bộ bảo tàng, ai cũng có thể làm được, miễn là chúng ta có tâm huyết và thực hiện đúng qui trình. Các công đoạn thực hiện bảo quản được tóm tắt như sau:
Thứ nhất: Vệ sinh hiện vật:
Tuyệt đối chúng ta không được rửa các hiện vật bằng nước lã (nước máy, nước sông, suối, hồ, ao...). Thông thường chúng ta tìm được hiện vật, kể cả trong các cuộc khai quật khảo cổ học, chúng ta đều mang đi rửa cho sạch sẽ...nhưng làm như vậy vô hình chung chúng ta đã làm hỏng thêm hiện vật. Kinh nghiệm cho hay, hiện vật được lấy lên từ lòng đất chỉ nên cạy sạch sẽ bùn đất bằng những dụng cụ chuyên dùng (như dụng cụ dùng trong ngành y tế..) Sau khi hiện vật được làm sạch đất cát, bụi bẩn, phải được vệ sinh bằng hợp chất: Nước cất + Ethanol loại tinh khiết, tỷ lệ 1/1
Dùng loại bông y tế, nhúng vào hợp chất này, chùi rửa cho hiện vật thật sạch sẽ.
Nếu là hiện vật kim loại bị han gỉ do ô-xít hóa, sau khi làm vệ sinh sạch phải có công đoạn tẩy gỉ. Đây là một công việc phức tạp, phải thực hiện qua nhiều công đoạn mà chúng tôi không thể giải trình ở đây.
Thứ hai: Hiện vật phải được biến tính:
Đây là một công việc bắt buộc phải làm, đặc biệt là những hiện vật bằng kim loại và cả đồ gốm, sứ. Biến tính hiểu đúng nghĩa là làm cho cốt hiện vật cứng lên. Hợp chất biến tính gồm: Bezotriazol + Ethanol loại tinh khiết, tỷ lệ 0,4%.
Có thể ngâm hiện vật trong bể chứa hợp chất tối thiểu 12h, tối đa 24h tùy thuộc vào tình trạng cốt hiện vật. Cũng có thể quét hợp chất lên hiện vật nhiều lần.
Hiện vật sau khi được biến tính, phải được làm sạch lớp hóa chất dư thừa bám trên bề mặt hiện vật bằng dung dịch nước cất + Ethanol tinh khiết, tỷ lệ 1/1 như khi làm vệ sinh hiện vật ở bước thứ 1. Sau đó hiện vật phải được sấy khô ở nhiệt độ 50oC - 60oC, đạt đến độ ẩm bằng 65%.
Thứ ba: Công đoạn phủ màng bảo vệ:
Muốn giữ được hiện vật lâu dài, ít chịu tác động của thời gian, hiện vật phải được phủ kín bằng một lớp màng bảo vệ. Hợp chất phủ gồm: Paruloi B72 + Aceton tinh khiết tỷ lệ 4%
Dung dịch này được quét hoặc phun dạng sương bằng bình nén khí lên toàn bộ các bề mặt hiện vật để tạo nên một lớp màng bảo vệ. Có thể hiện vật được phủ lên nhiều lớp màng mỏng, nhưng phải đảm bảo có độ bóng hợp lý. Sau đó cũng sấy khô hiện vật ở nhiệt độ 40oC - 50oC.
* Lưu ý:
- Tùy theo từng loại hình hiện vật, chất liệu hiện vật, thực trạng hiện vật...chúng ta sẽ có những cách xử lý khác nhau chút ít.
- Hiện vật mặc dù đã được bảo quản nhưng cũng được để ở những nơi có điều kiện thích hợp, đảm bảo tính khoa học cả về nhiệt độ, ánh sáng...
- Bảo quản nhưng không phải là vĩnh viễn. hiện vật vẫn cần phải bảo dưỡng định kỳ.
Chúng ta là người làm công tác khoa học xã hội, mới nghe qua về các công thức hóa chất của khoa học tự nhiên, tưởng là một việc làm quá xa vời và khó thực hiện. Nhưng trên thực tế đã và đang làm cho một số bảo tàng chúng tôi thấy công việc cũng không có gì là quá khó khăn, miễn là chúng ta có tâm huyết và cũng phải có kinh phí.
Thực tế ở những bảo tàng đã thực hiện công tác bảo quản, kể cả để ở trên các phòng trưng bày, trong các kho hay kể cả để ngoài trời, hiện vật đều được đảm bảo lâu dài, bền, đẹp, xứng đáng là những cổ vật - báu vật của quốc gia, đồ quí hiếm của cha ông, tổ tiên ta để lại.
Là những người làm công tác khảo cổ, công tác bảo tàng...chúng ta sẽ có tội với tiền nhân, với đất nước, khi chúng ta đào bới, sưu tầm hiện vật về mà không giữ gìn bảo quản, để hiện vật hư hỏng xuống cấp, mất hẳn giá trị vốn có của hiện vật. Nếu chúng ta không làm được những việc trên, thà ``gửi`` lại chúng trong lòng đất giữ gìn bảo quản hộ còn được lâu dài, để sau này thế hệ con cháu chúng ta có điều kiện hãy đào bới lên.
Trung Quốc chưa tìm được mộ Tào Tháo, mộ Thành Cát Tư Hãn, nhưng đã tìm ra chính xác lăng mộ Tần Thủy Hoàng...Nhưng trình độ khoa học của Trung Quốc hiện tại vẫn chưa dám khai quật mộ Tần Thủy Hoàng mà chỉ dám động đến những khu ngoại vi, làm xuất lộ những tượng đất nung, xe cộ... phục vụ khách tham quan.
Giới khảo cổ học Việt Nam chúng ta cũng đã tìm ra chính xác vị trí ngôi mộ Lê Lợi nhưng cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hồi đó không cho phép khai quật vì theo cố Thủ tướng: lòng đất sẽ lưu giữ ngôi mộ được lâu dài, thậm chí là vĩnh viễn, hơn là chúng ta khai quật lên mà không có cách bảo quản, giữ gìn cho muôn đời con cháu. Bài học xương máu và nhãn tiền là trước đây chúng ta đã khai quật ngôi mộ vua Lê Dụ Tôn từ Thọ Xuân Thanh Hóa, để rồi gây rắc rối cho các đời giám đốc Viện bảo tàng Lịch Sử Việt Nam trông nom hương khói, giữ gìn. Sau nhiều năm, dòng họ Lê Thanh Hóa đòi rước Cụ về nhưng trong tình trạng từ một xác ướp nguyên lành, cả râu tóc, áo quần như người đang nằm ngủ, giờ trở lại quê hương chỉ còn là một đống xương khô. Thật là cám cảnh và đau lòng cho các nhà khảo cổ học nước nhà!
(Tác giả: Phạm Như Hồ)