Đại hội Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2015 – 2020

 

 

Tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 của Đảng bộ Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, được sự đồng ý của Ban Thường vụ Đảng ủy Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, sáng ngày 21 tháng 5 năm 2015, tại Viện Khảo cổ học, Chi bộ Viện Khảo cổ học đã long trọng tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Khai mạc Đại hội Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2015 - 2020

Tới dự Đại hội có các Đại biểu: Đồng chí Nguyễn Quang Thuấn - Phó bí thư Đảng ủy, Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; đồng chí Lê Thị Hải Nam, Ủy viên Ban Thường vụ - Chánh văn phòng Đảng ủy Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; đồng chí Đinh Quang Hải - Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ, Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; đại diện Công đoàn và Đoàn thanh niên Viện Khảo cổ học.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm trình bày báo cáo Tổng kết công tác Chi bộ nhiệm kỳ 2010 - 2015, phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015 - 2020, Báo cáo kiểm điểm cấp ủy. Nội dung bản Báo cáo tổng kết những thành tựu Chi bộ đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, xây dựng Đảng, kiểm tra, giám sát xây dựng hệ thống chính trị,… Một số thành tựu nổi bật:

- Về công tác xây dựng tổ chức và phát triển Đảng: Trong nhiệm kỳ vừa qua, Chi bộ đã kết nạp 9 đảng viên mới (tổng số đảng viên chi bộ hiện tại là 16 đồng chí). Công tác giáo dục tư tưởng, rèn luyện phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn và công tác phát hiện, bồi dưỡng giới thiệu quần chúng ưu tú vào Đảng luôn được chú trọng.

Xây dựng tổ chức Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ luôn được quan tâm. Kết quả là mọi cán bộ, đảng viên trong đơn vị đều phấn khởi an tâm công tác.

- Về tổ chức và xây dựng cơ cấu các phòng: Thành lập Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước trực thuộc Viện Khảo cổ học và Xây dựng xong đề án Phát triển Khảo cổ học dưới nước trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Về chỉ đạo công tác chuyên môn: Nhiều công trình nghiên cứu của cán bộ Viện được đánh giá cao cả về giá trị khoa học và tính thực tiễn, góp phần nâng cao uy tín của Viện Khảo cổ học nói riêng cũng như Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam nói chung, tiêu biểu như: Tham gia Xây dựng thành công 03 Hồ sơ đề xuất UNESCO công nhận Di sản văn hóa thế giới: 1/ Di sản thế giới Hoàng thành Thăng Long (2010); 2/ Di sản thế giới Thành Nhà Hồ (2011); 3/ Di sản thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An (2014). Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, tập thể Viện cũng đã hoàn thành tốt các đề tài, nhiệm vụ cấp Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ giao.

Từ những thành tích đã đạt được, Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiều năm liền được Đảng ủy Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam xếp loại tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

Báo cáo cũng đã thẳng thắn nêu ra những mặt hạn chế, cũng như nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm cần rút ra nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ chính trị của Chi bộ. Một số nguyên nhân như: Cơ chế, chính sách chưa thu hút và tạo động lực cho cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực khảo cổ học; Đời sống của cán bộ, nhất là cán bộ trẻ trong Viện còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp, phần lớn phải thuê nhà nên phần nào ảnh hưởng đến công tác chuyên môn.

Về phần phương hướng, trên cơ sở bài học kinh nghiệm và nguyên nhân của những mặt hạn chế, Báo cáo đã đề ra những giải pháp cụ thể khắc phục nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới, xây dựng các chỉ tiêu cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội và các nhiệm vụ chính trị do Đảng uỷ cấp trên giao phó.

Đồng chí Bùi Văn Liêm báo cáo Tổng kết công tác Chi bộ nhiệm kỳ 2010 – 2015, phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015 -2020

Đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương Báo cáo tình hình đảng viên nhiệm kỳ 2010 - 2015

Đại hội đã thông qua dự thảo bảo cáo tổng hợp góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trình Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020

Thay mặt thường vụ Đảng ủy và lãnh đạo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, đồng chí Nguyễn Quang Thuấn đã phát biểu chúc mừng những thành tựu mà Chi bộ cũng như tập thể cán bộ Viện Khảo cổ học đã đạt được trong nhiệm kỳ vừa qua. Đồng chí cho rằng, những thành tựu của Viện trong những năm qua chính là minh chứng khẳng định tầm cỡ mang tính quốc gia của một Viện nghiên cứu đầu ngành trong lĩnh vực khảo cổ học của cả nước. Đồng chí cũng đánh giá cao những kết quả về công tác lãnh đạo, công tác định hướng tư tưởng của Chi bộ trong nhiệm kỳ qua. Về cơ bản, đồng chí nhất trí với phương hướng, nhiệm vụ của Chi bộ Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã nêu trong Báo cáo. Bên cạnh đó, đồng chí cũng thẳng thắn chỉ ra những mặt hạn chế và những vẫn đề cần đổi mới, hoàn thiện trong nhiệm kỳ tới: 1/ Xác định rõ nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo và xây dựng chương trình hành động cho 5 năm tới (2015 - 2020), cũng như kế hoạch thực hiện cụ thể cho từng năm; 2/ Chi bộ cần tập trung, sát sao hơn nữa và có kế hoạch cụ thể trong phát triển Đảng; 3/ Củng cố, xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ hùng hậu làm công tác khảo cổ học; 4/ Chi ủy cần xây dựng chương trình trên mọi phương diện thông qua sự phối hợp với lãnh đạo Viện Khảo cổ học để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị đã đề ra.

Thay mặt Đoàn chủ tịch, đồng chí Bùi Văn Liêm - Bí thư Chi bộ đã phát biểu cảm ơn những ý kiến chỉ đạo sâu sát và quý báu của đồng chí Nguyễn Quang Thuấn cũng như những ý kiến đóng góp của các đại biểu tham dự Đại hội. Chi bộ Viện Khảo cổ học xin tiếp thu toàn bộ ý kiến để hoàn thiện các Báo cáo của Đại hội và triển khai các nhiệm vụ ngay sau Đại hội.

Tiếp đó, Đại hội đã tiến hành bầu Chi ủy Viện Khảo cổ học nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm 3 đồng chí là Lê Hải Đăng, Nguyễn Thị Mai Hương và Bùi Văn Liêm, trong đó đồng chí Bùi Văn Liêm được bầu vào vị trí Bí thư, đồng chí Nguyễn Thị Mai Hương được bầu Phó Bí thư. Đại hội cũng đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam khóa XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020, gồm 3 đại biểu chính thức là đồng chí Nguyễn Giang Hải, Nguyễn Thị Mai Hương, Bùi Văn Liêm và 1 đại biểu dự khuyết là đồng chí Lê Hải Đăng.

Ra mắt Ban chấp hành Chi bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020

Bế mạc Đại hội, đồng chí Bùi Văn Liêm thay mặt Chi bộ Viện Khảo cổ học phát biểu cảm ơn đồng chí Nguyễn Quang Thuấn và các đồng chí lãnh đạo Đảng ủy và Ban thường vụ Đảng ủy Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đã tham dự và chỉ đạo Đại hội, đồng thời xin hứa Chi bộ Viện Khảo cổ học sẽ cố gắng hết sức mình để đưa Nghị quyết Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020 đi vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị được giao.

Đ/c Nguyễn Quang Thuấn chúc mừng Ban chấp hành Chi bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020

Đ/c Nguyễn Giang Hải chúc mừng Ban chấp hành Chi bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020

Công đoàn và Chi đoàn chúc mừng Ban chấp hành Chi bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020

Các đảng viên Chi bộ Viện Khảo cổ học dự Đại hội

Khổng Thiêm

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:
Sáng ngày 5/3, Viện Khảo cổ học đã tiến hành lễ mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ 8-3. Đến dự buổi lễ có PGS.TS. Nguyễn Giang Hải, Viện trưởng; PGS.TS. Bùi Văn Liêm, Bí thư Chi bộ, Phó Viện trưởng và TS. Nguyễn Gia Đối, Chủ tịch Công đoàn, Phó Viện trưởng cùng toàn thể cán bộ Viện Khảo cổ học. Thay mặt Ban Lãnh đạo Viện, PGS.TS Nguyễn Giang Hải đã phát biểu cám ơn những đóng góp của chị em với cơ quan và chúc chị em luôn vui tươi và nhiều sức khỏe. Bên cạnh đó, chị em Viện Khảo cổ học còn nhận được rất nhiều lời chúc tốt đẹp của Chi bộ, Công đoàn và toàn thể anh em Viện Khảo cổ học có mặt trong buổi lễ.

dsc_6741.jpg

Toàn thể cán bộ Viện Khảo cổ học có mặt chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3

dsc_6815.jpg

PGS.TS Bùi Văn Liêm (Bí thư chi bộ) tặng hoa chúc mừng chị em

dsc_6833.jpg

Nữ công Chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3

dsc_6830.jpg

Chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3

(Đưa tin: Nguyễn Thơ Đình; Ảnh: Hà Mạnh Thắng)

 

HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC QUỐC TẾ KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC NĂM 2014

 

 

Được sự đồng ý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từ ngày 18/6 đến ngày 19/7 năm 2014, đoàn hợp tác quốc tế về khảo cổ học dưới nước đã tiến hành các hoạt động tập huấn và khảo sát nghiên cứu tại Hội An (Quảng Nam), khu di tích Vân Đồn, khu di tích Bạch Đằng (Quảng Ninh). Ngoài ra, các thành viên của đoàn đã tiến hành nghiên cứu các mảnh tàu đắm, di vật trong sưu tập của Lâm Du Sênh tại thị trấn Châu Ổ (Quảng Ngãi) và thăm khu di tích Chùa Dạm (tỉnh Bắc Ninh).

Được sự đồng ý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từ ngày 18/6 đến ngày 19/7 năm 2014, Đoàn hợp tác quốc tế về khảo cổ học dưới nước đã tiến hành các hoạt động tập huấn và khảo sát nghiên cứu tại Hội An (Quảng Nam), khu di tích Vân Đồn, khu di tích Bạch Đằng (Quảng Ninh). Ngoài ra, các thành viên của đoàn đã tiến hành nghiên cứu các mảnh tàu đắm, di vật trong sưu tập của Lâm Du Sênh tại thị trấn Châu Ổ (Quảng Ngãi) và thăm khu di tích Chùa Dạm (Bắc Ninh).

Thời gian và chương trình làm việc

18- 20/6: Nghiên cứu các mảnh tàu đắm và di vật tại sưu tập của Lâm Du Sênh (thị trấn Châu Ổ, tỉnh Quảng Ngãi)

21- 27/6: Tập huấn lặn khảo sát bằng bình khí nén tại Hội An; khảo sát khu vực Cù Lao Chàm và làm việc với Bảo tàng tỉnh Quảng Nam, Ban Quản lý Biển Cù Lao Chàm; tiếp xúc với cư dân quanh vùng Hội An, Đà Nẵng và Cù Lao Chàm và một số sưu tập tư nhân nhằm thu thập các thông tin, tư liệu liên quan đến tàu đắm trong khu vực.

29/6-2/7: Thăm các điểm khai quật tại khu vực Yên Giang và các đền miếu liên quan đến trận thủy chiến Bạch Đằng (khu di tích Bạch Đằng, Thị xã Quảng Yên)

2-17/7: Khảo sát trên bờ và khai quật dưới nước tại khu di tích Vân Đồn (các khu vực Mang Thúng, Cống Cái, thôn Sơn Hào thuộc xã Quan Lạn, các di tích thuộc xã Thắng Lợi); Ghi chép về lễ hội Quan Lạn (liên quan đến trận thủy chiến của Trần Khánh Dư tại Vân Đồn năm 1288) . Báo các sơ bộ kết quả tại Hạ Long.

18-19/7: Báo cáo kết quả tại Viện Khảo cổ học; Thăm di tích chùa Dạm (Bắc Ninh)

Thành viên

Chịu trách nhiệm chính

TS Lê Thị Liên (Viện Khảo cổ học)

TS Jun Kimura (Đại học Murdoch)

GS. Mark Staniforth (Đại học Monash)

Thành viên từ Việt Nam

Ths Bùi Văn Hiếu (Viện Khảo cổ học)

CN Đinh Thị Thanh Nga (Viện Khảo cổ học)

CN Nguyễn Văn Hội (Ban Quản lý các di tích trọng điểm tỉnh Quảng Ninh)

Lê Đồng Sơn (Trưởng phòng Văn hóa Thị xã Quảng Yên)

Chuyên gia kỹ thuật, nhà nghiên cứu độc lập, trợ lý khảo sát

TS. Christy Briles (Đại học Colorado Denver, Mỹ)

TS. Amer Khan (Kỹ thuật viên giám sát lặn khảo sát, Nam Úc),

TS. Paddy O’Toole (Monash University, Úc)

Ian MacCann (Chuyên gia truyền thông về khảo cổ học dưới nước, Úc)

Samanthi Dissanayake (Phóng viên chuyên trang khảo cổ học của BBC, Anh)

Kết quả sơ bộ

1. Tập huấn lặn vầ khảo sát tại Hội An

Đã có hai cán bộ trẻ của Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước, Viện Khảo cổ học được đào tạo lặn khảo sát bằng bình khí nén. Trong đó 1 cán bộ đã được cấp chứng chỉ lặn quốc tế. Dự kiến vào cuối năm nay, sẽ có thêm một người nữa được cấp chứng chỉ. Trong quá trình khảo sát tại khu vực Cù Lao Chàm, ngoài các thông tin về di vật (chủ yếu là đồ gốm sứ) và tàu đắm do cư dân cho biết, đã phát hiện được một bộ phận của một chiếc mỏ neo bằng đá. Đây là một hiện vật quan trọng đánh dấu sự hiện diện của một bến cảng cổ ở khu vực này. Việc nghiên cứu tính chất và niên đại của di vật đang được tiếp tục. Một địa điểm tàu đắm trong vùng biển Quảng Nam cũng được Bảo tàng tỉnh thông báo.

Tập huấn lặn sử dụng bình khí nén ở Hội An

(Nguồn: Ian McCann)

Khảo sát Cù Lao Chàm 

(Nguồn: Ian McCann)

2. Kết quả khảo sát tại Khu di tích Bạch Đằng

1 mẫu khoan sâu 2,33m đã được thực hiện trên bờ nam sông Chanh (khu vực ngoài thôn Đồng Cốc), nhằm nghiên cứu lịch sử hình thành và thay đổi của môi trường sông Bạch Đằng. Các chuyên gia tiếp tục khảo sát và nói chuyện với người dân tại các di tích lịch sử như Đình Trung Bản (xã Liên Vị), Đình Cốc (phường Nam Hòa), Đền Trần và Miếu Vua Bà (Phường Yên Giang) nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa các câu truyện truyền thuyết và sự kiện chiến thắng Bạch Đằng năm 1288; tình cảm và ý thức của nhân dân đối với truyền thống lịch sử và các di sản văn hóa còn lại. Đoàn cũng nói chuyện với những thợ đóng thuyền nan truyền thống và bày tỏ mong muốn phát triển các sản phẩm dành cho du khách.

Khảo sát khoan địa tầng ở Đồng Cốc

(Nguồn: Lê Thị Liên)

 

3. Kết quả khai quật và khảo sát khảo cổ học dưới nước tại các điểm bến cảng và làng cổ trong phạm vi xã Quan Lạn và xã Thắng Lợi

Bằng phương pháp lặn dùng bình khí nén và ống thở, đoàn đã tiến hành khai quật dưới nước trên diện tích nhỏ (1m2) tại hai khu vực: Mang Thúng và Cống Cái (xã Quan Lạn), đồng thời tiến hành thu thập mẫu di vật trên bờ theo phương pháp nghiên cứu thống kê mật độ xuất lộ trong phạm vi 1m2 tại hai địa điểm này. Đoàn cũng đã khảo sát, thu lượm mẫu vật và nghiên cứu địa tầng trong các khu vực xuất lộ nhiều di vật do việc ủi đất làm đường ra nhà máy xử lý rác thải tại thôn Sơn Hào. Kết quả cho thấy tại đây các dấu tích cư trú, kiến trúc, giếng nước của một làng cổ (Làng Vân Sơn theo các kết quả nghiên cứu trước đây) xuất lộ dày đặc. Niên đại của nhiều đồ gốm sứ, sành được xác định vào thời Trần. Nhiều di vật có niên đại sớm hơn (trước thế kỉ 10) và muộn hơn (thời Lê) cũng có mặt. Các dấu tích này cho thấy đây là một di tích cư trú-bến cảng cổ quan trọng và có tiềm năng nghiên cứu rất lớn.

 

Khu vực kháo sát ở Mang Thúng 

(Nguồn: Jun Kimura)

 

Tại xã Thắng Lợi, việc khảo sát ven bờ thuộc khu vực các thôn 1, 2, 3, 4, 5 cũng phát hiện nhiều mảnh sành, sứ, gốm men. Các di vật này tập trung dày đặc ở các địa điểm Vụng Chuồng Bò, Vụng Huyện, với sự nổi trội các đồ gốm sứ có nguồn gốc Trung Hoa so với các địa điểm ở Quan Lạn và có thể một số có nguồn gốc khác. Thắng Lợi cũng là nơi đã có nhiều dấu tích của các kiến trúc chùa tháp được phát hiện và nghiên cứu trước đây. Việc nghiên cứu so sánh sâu hơn để xác định tính chất và niên đại cho các địa điểm này cần được tiếp tục.

Đồ gốm sành sứ ở Vụng Huyện 

(Nguồn: Bùi Văn Hiếu)

Đồ gốm sành sứ ở Vụng Chuồng Bò 

(Nguồn: Bùi Văn Hiếu)

4. Nghiên cứu lễ hội Quan Lạn

Lễ hội Quan Lạn được tổ chức hàng năm để kỉ niệm chiến thắng Vân Đồn do Trần Khánh Dư lãnh đạo, đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ vào tháng 1 năm 1288. Cùng với chiến thắng Bạch Đằng vang dội diễn ra vào tháng 3 năm 1288, trận thủy chiến này góp phần to lớn vào việc quân dân Đại Việt đánh bại cuộc xâm lược lần thứ ba của quân Nguyên Mông. Việc ghi lại hình ảnh, nói chuyện với nhân dân và những người tham dự lễ hội, cùng với việc nghiên cứu hình thức tổ chức, nội dung các hoạt động nhằm tìm hiểu cách thức bảo lưu và truyền lại các kí ức lịch sử và mối liên hệ với trận đánh; sự hiểu biết và tình cảm của người dân và nhận thức của họ về các giá trị văn hóa truyền thống.

Lễ hội Quan Lạn

(Nguồn: Ian McCann)

 

5. Nhận xét và đề xuất

Trong thời gian làm việc, đoàn đã nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Viện Khảo cổ học, các cấp lãnh đạo tỉnh, Ban lãnh đạo các cơ quan đối tác, các cá nhân tham gia và nhân dân địa phương nơi đoàn đến công tác. Đoàn đã có các hoạt động rất tích cực, triển khai ở nhiều nơi, thu được kết quả rất tốt. Một số nhận xét về các kết quả đạt được như sau:

- Việc thực hiện tập huấn lặn khảo sát ở Hội An là bước mở đầu quan trọng trong việc phát triển hoạt động này ở Việt Nam, nhằm từng bước nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cấp trung ương và cấp cơ sở. Hội An là địa điểm lý tưởng cho các chương trình đào tạo thực hành. Trong các năm tới, các chuyên gia sẵn sàng tiếp tục mở các lớp tập huấn tương tự và mong muốn có sự ủng hộ của cơ quan nghiên cứu và quản lý văn hóa các cấp bằng việc cử cán bộ tham gia tập huấn, phối hợp tổ chức và hỗ trợ các cơ sở vật chất cần thiết như nơi ăn ở, phương tiện tàu thuyền.

- Các địa điểm nghiên cứu khảo sát tại khu di tích thương cảng Vân Đồn cho thấy tiềm năng nghiên cứu to lớn về nhiều mặt: Lịch sử hình thành, phát triển và hoạt động của các bến bãi; sự hình thành và phát triển các làng cổ, vai trò của các khu làng cổ trong quá trình hoạt động của thương cảng; khả năng phát hiện và nghiên cứu các di vật dưới nước là rất lớn.

- Khu vực miền Trung, đặc biệt là khu vực biển Cù Lao Chàm cho thấy tàng trữ những di sản văn hóa dưới nước giàu có, phản ánh một lịch sử giao lưu văn hóa và trao đổi thương mại từ rất sớm. Việc phát triển các hoạt động khảo sát, nghiên cứu và bảo vệ nguồn di sản văn hóa dưới nước ở đây cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan chức năng và sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý cấp nhà nước.

Từ các kết quả nêu trên, nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển ngành khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam, một số đề xuất cụ thể đối với Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khảo cổ học như sau:

Đối với khu di tích Vân Đồn: Xây dựng chương trình hợp tác với các nhà nghiên cứu quốc tế và các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ninh trong việc nghiên cứu khu di tích Vân Đồn và phát triển nguồn nhân lực (thực hiện các khóa đào tạo lặn và nghiên cứu).

Đối với tỉnh Quảng Nam và khu vực Hội An: Tiếp tục hợp tác với các nhà nghiên cứu quốc tế và các cơ quan chức năng địa phương thực hiện các khóa đào tạo lặn và xây dựng kế hoạch khảo sát nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học cho các di sản văn hóa dưới nước trong khu vực này.

Lê Thị Liên, Bùi Văn Hiếu 

(Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước)

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC QUỐC TẾ KHẢO CỔ HỌC DƯỚI NƯỚC NĂM 2014

 

 

Được sự đồng ý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từ ngày 18/6 đến ngày 19/7 năm 2014, đoàn hợp tác quốc tế về khảo cổ học dưới nước đã tiến hành các hoạt động tập huấn và khảo sát nghiên cứu tại Hội An (Quảng Nam), khu di tích Vân Đồn, khu di tích Bạch Đằng (Quảng Ninh). Ngoài ra, các thành viên của đoàn đã tiến hành nghiên cứu các mảnh tàu đắm, di vật trong sưu tập của Lâm Du Sênh tại thị trấn Châu Ổ (Quảng Ngãi) và thăm khu di tích Chùa Dạm (tỉnh Bắc Ninh).

 
Được sự đồng ý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam từ ngày 18/6 đến ngày 19/7 năm 2014, Đoàn hợp tác quốc tế về khảo cổ học dưới nước đã tiến hành các hoạt động tập huấn và khảo sát nghiên cứu tại Hội An (Quảng Nam), khu di tích Vân Đồn, khu di tích Bạch Đằng (Quảng Ninh). Ngoài ra, các thành viên của đoàn đã tiến hành nghiên cứu các mảnh tàu đắm, di vật trong sưu tập của Lâm Du Sênh tại thị trấn Châu Ổ (Quảng Ngãi) và thăm khu di tích Chùa Dạm (Bắc Ninh).

Thời gian và chương trình làm việc

18- 20/6: Nghiên cứu các mảnh tàu đắm và di vật tại sưu tập của Lâm Du Sênh (thị trấn Châu Ổ, tỉnh Quảng Ngãi)

21- 27/6: Tập huấn lặn khảo sát bằng bình khí nén tại Hội An; khảo sát khu vực Cù Lao Chàm và làm việc với Bảo tàng tỉnh Quảng Nam, Ban Quản lý Biển Cù Lao Chàm; tiếp xúc với cư dân quanh vùng Hội An, Đà Nẵng và Cù Lao Chàm và một số sưu tập tư nhân nhằm thu thập các thông tin, tư liệu liên quan đến tàu đắm trong khu vực.

29/6-2/7: Thăm các điểm khai quật tại khu vực Yên Giang và các đền miếu liên quan đến trận thủy chiến Bạch Đằng (khu di tích Bạch Đằng, Thị xã Quảng Yên)

2-17/7: Khảo sát trên bờ và khai quật dưới nước tại khu di tích Vân Đồn (các khu vực Mang Thúng, Cống Cái, thôn Sơn Hào thuộc xã Quan Lạn, các di tích thuộc xã Thắng Lợi); Ghi chép về lễ hội Quan Lạn (liên quan đến trận thủy chiến của Trần Khánh Dư tại Vân Đồn năm 1288) . Báo các sơ bộ kết quả tại Hạ Long.

18-19/7: Báo cáo kết quả tại Viện Khảo cổ học; Thăm di tích chùa Dạm (Bắc Ninh)

Thành viên

Chịu trách nhiệm chính

TS Lê Thị Liên (Viện Khảo cổ học)

TS Jun Kimura (Đại học Murdoch)

GS. Mark Staniforth (Đại học Monash)

Thành viên từ Việt Nam

Ths Bùi Văn Hiếu (Viện Khảo cổ học)

CN Đinh Thị Thanh Nga (Viện Khảo cổ học)

CN Nguyễn Văn Hội (Ban Quản lý các di tích trọng điểm tỉnh Quảng Ninh)

Lê Đồng Sơn (Trưởng phòng Văn hóa Thị xã Quảng Yên)

Chuyên gia kỹ thuật, nhà nghiên cứu độc lập, trợ lý khảo sát

TS. Christy Briles (Đại học Colorado Denver, Mỹ)

TS. Amer Khan (Kỹ thuật viên giám sát lặn khảo sát, Nam Úc),

TS. Paddy O’Toole (Monash University, Úc)

Ian MacCann (Chuyên gia truyền thông về khảo cổ học dưới nước, Úc)

Samanthi Dissanayake (Phóng viên chuyên trang khảo cổ học của BBC, Anh)

Kết quả sơ bộ

1. Tập huấn lặn vầ khảo sát tại Hội An

Đã có hai cán bộ trẻ của Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước, Viện Khảo cổ học được đào tạo lặn khảo sát bằng bình khí nén. Trong đó 1 cán bộ đã được cấp chứng chỉ lặn quốc tế. Dự kiến vào cuối năm nay, sẽ có thêm một người nữa được cấp chứng chỉ. Trong quá trình khảo sát tại khu vực Cù Lao Chàm, ngoài các thông tin về di vật (chủ yếu là đồ gốm sứ) và tàu đắm do cư dân cho biết, đã phát hiện được một bộ phận của một chiếc mỏ neo bằng đá. Đây là một hiện vật quan trọng đánh dấu sự hiện diện của một bến cảng cổ ở khu vực này. Việc nghiên cứu tính chất và niên đại của di vật đang được tiếp tục. Một địa điểm tàu đắm trong vùng biển Quảng Nam cũng được Bảo tàng tỉnh thông báo.

Tập huấn lặn sử dụng bình khí nén ở Hội An

(Nguồn: Ian McCann)

Khảo sát Cù Lao Chàm 

(Nguồn: Ian McCann)

2. Kết quả khảo sát tại Khu di tích Bạch Đằng

1 mẫu khoan sâu 2,33m đã được thực hiện trên bờ nam sông Chanh (khu vực ngoài thôn Đồng Cốc), nhằm nghiên cứu lịch sử hình thành và thay đổi của môi trường sông Bạch Đằng. Các chuyên gia tiếp tục khảo sát và nói chuyện với người dân tại các di tích lịch sử như Đình Trung Bản (xã Liên Vị), Đình Cốc (phường Nam Hòa), Đền Trần và Miếu Vua Bà (Phường Yên Giang) nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa các câu truyện truyền thuyết và sự kiện chiến thắng Bạch Đằng năm 1288; tình cảm và ý thức của nhân dân đối với truyền thống lịch sử và các di sản văn hóa còn lại. Đoàn cũng nói chuyện với những thợ đóng thuyền nan truyền thống và bày tỏ mong muốn phát triển các sản phẩm dành cho du khách.

Khảo sát khoan địa tầng ở Đồng Cốc

(Nguồn: Lê Thị Liên)

3. Kết quả khai quật và khảo sát khảo cổ học dưới nước tại các điểm bến cảng và làng cổ trong phạm vi xã Quan Lạn và xã Thắng Lợi

Bằng phương pháp lặn dùng bình khí nén và ống thở, đoàn đã tiến hành khai quật dưới nước trên diện tích nhỏ (1m2) tại hai khu vực: Mang Thúng và Cống Cái (xã Quan Lạn), đồng thời tiến hành thu thập mẫu di vật trên bờ theo phương pháp nghiên cứu thống kê mật độ xuất lộ trong phạm vi 1m2 tại hai địa điểm này. Đoàn cũng đã khảo sát, thu lượm mẫu vật và nghiên cứu địa tầng trong các khu vực xuất lộ nhiều di vật do việc ủi đất làm đường ra nhà máy xử lý rác thải tại thôn Sơn Hào. Kết quả cho thấy tại đây các dấu tích cư trú, kiến trúc, giếng nước của một làng cổ (Làng Vân Sơn theo các kết quả nghiên cứu trước đây) xuất lộ dày đặc. Niên đại của nhiều đồ gốm sứ, sành được xác định vào thời Trần. Nhiều di vật có niên đại sớm hơn (trước thế kỉ 10) và muộn hơn (thời Lê) cũng có mặt. Các dấu tích này cho thấy đây là một di tích cư trú-bến cảng cổ quan trọng và có tiềm năng nghiên cứu rất lớn.

Khu vực khảo sát ở Mang Thúng Khu vực khảo sát ở Cống Cái

Khu vực kháo sát ở Mang Thúng 

(Nguồn: Jun Kimura)

Khu vực kháo sát ở Cống Cái

(Nguồn: Jun Kimura)

Tại xã Thắng Lợi, việc khảo sát ven bờ thuộc khu vực các thôn 1, 2, 3, 4, 5 cũng phát hiện nhiều mảnh sành, sứ, gốm men. Các di vật này tập trung dày đặc ở các địa điểm Vụng Chuồng Bò, Vụng Huyện, với sự nổi trội các đồ gốm sứ có nguồn gốc Trung Hoa so với các địa điểm ở Quan Lạn và có thể một số có nguồn gốc khác. Thắng Lợi cũng là nơi đã có nhiều dấu tích của các kiến trúc chùa tháp được phát hiện và nghiên cứu trước đây. Việc nghiên cứu so sánh sâu hơn để xác định tính chất và niên đại cho các địa điểm này cần được tiếp tục.

Đồ gốm sành sứ ở Vụng Huyện 

(Nguồn: Bùi Văn Hiếu)

Đồ gốm sành sứ ở Vụng Chuồng Bò 

(Nguồn: Bùi Văn Hiếu)

4. Nghiên cứu lễ hội Quan Lạn

Lễ hội Quan Lạn được tổ chức hàng năm để kỉ niệm chiến thắng Vân Đồn do Trần Khánh Dư lãnh đạo, đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ vào tháng 1 năm 1288. Cùng với chiến thắng Bạch Đằng vang dội diễn ra vào tháng 3 năm 1288, trận thủy chiến này góp phần to lớn vào việc quân dân Đại Việt đánh bại cuộc xâm lược lần thứ ba của quân Nguyên Mông. Việc ghi lại hình ảnh, nói chuyện với nhân dân và những người tham dự lễ hội, cùng với việc nghiên cứu hình thức tổ chức, nội dung các hoạt động nhằm tìm hiểu cách thức bảo lưu và truyền lại các kí ức lịch sử và mối liên hệ với trận đánh; sự hiểu biết và tình cảm của người dân và nhận thức của họ về các giá trị văn hóa truyền thống.

Lễ hội Quan Lạn

(Nguồn: Ian McCann)

5. Nhận xét và đề xuất

Trong thời gian làm việc, đoàn đã nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Viện Khảo cổ học, các cấp lãnh đạo tỉnh, Ban lãnh đạo các cơ quan đối tác, các cá nhân tham gia và nhân dân địa phương nơi đoàn đến công tác. Đoàn đã có các hoạt động rất tích cực, triển khai ở nhiều nơi, thu được kết quả rất tốt. Một số nhận xét về các kết quả đạt được như sau:

- Việc thực hiện tập huấn lặn khảo sát ở Hội An là bước mở đầu quan trọng trong việc phát triển hoạt động này ở Việt Nam, nhằm từng bước nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ cấp trung ương và cấp cơ sở. Hội An là địa điểm lý tưởng cho các chương trình đào tạo thực hành. Trong các năm tới, các chuyên gia sẵn sàng tiếp tục mở các lớp tập huấn tương tự và mong muốn có sự ủng hộ của cơ quan nghiên cứu và quản lý văn hóa các cấp bằng việc cử cán bộ tham gia tập huấn, phối hợp tổ chức và hỗ trợ các cơ sở vật chất cần thiết như nơi ăn ở, phương tiện tàu thuyền.

- Các địa điểm nghiên cứu khảo sát tại khu di tích thương cảng Vân Đồn cho thấy tiềm năng nghiên cứu to lớn về nhiều mặt: Lịch sử hình thành, phát triển và hoạt động của các bến bãi; sự hình thành và phát triển các làng cổ, vai trò của các khu làng cổ trong quá trình hoạt động của thương cảng; khả năng phát hiện và nghiên cứu các di vật dưới nước là rất lớn.

- Khu vực miền Trung, đặc biệt là khu vực biển Cù Lao Chàm cho thấy tàng trữ những di sản văn hóa dưới nước giàu có, phản ánh một lịch sử giao lưu văn hóa và trao đổi thương mại từ rất sớm. Việc phát triển các hoạt động khảo sát, nghiên cứu và bảo vệ nguồn di sản văn hóa dưới nước ở đây cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan chức năng và sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý cấp nhà nước.

Từ các kết quả nêu trên, nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển ngành khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam, một số đề xuất cụ thể đối với Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khảo cổ học như sau:

Đối với khu di tích Vân Đồn: Xây dựng chương trình hợp tác với các nhà nghiên cứu quốc tế và các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ninh trong việc nghiên cứu khu di tích Vân Đồn và phát triển nguồn nhân lực (thực hiện các khóa đào tạo lặn và nghiên cứu).

Đối với tỉnh Quảng Nam và khu vực Hội An: Tiếp tục hợp tác với các nhà nghiên cứu quốc tế và các cơ quan chức năng địa phương thực hiện các khóa đào tạo lặn và xây dựng kế hoạch khảo sát nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học cho các di sản văn hóa dưới nước trong khu vực này.

Lê Thị Liên, Bùi Văn Hiếu 

(Phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước)

Điện thoại: 043-933-4312

I. Chức năng     

  1. Viện Khảo cổ học là tổ chức nghiên cứu khoa học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khảo cổ học Việt Nam, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về khảo cổ học; tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa vật thể và phi vật thể Việt Nam.
  2. Viện Khảo cổ học có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật, hoạt động từ ngân sách Nhà nước; là đơn vị kế hoạch tài chính của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  3. Viện Khảo cổ học có trụ sở chính đặt tại thành phố Hà Nội; Tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh: Institute of Archaeology.

II. Nhiệm vụ và quyền hạn.           

  1. Trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển Viện Khảo cổ học gắn với việc nghiên cứu khảo cổ học và tổ chức thực hiện sau khi phê duyệt.
  2. Nghiên cứu những vấn đề lý luận thực tiễn cơ bản về khảo cổ học Việt Nam và khảo cổ học thế giới; những vấn đề cơ bản và cấp bách về lịch sử dân tộc, lịch sử văn hóa và văn minh Việt Nam nhằm phát huy truyền thống dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
  3. Kết hợp nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực khảo cổ học, tham gia đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật; phát triển nguồn nhân lực có trình độ theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  4. Theo chức năng, tổ chức thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các Bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  5. Phối hợp với các Viện trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các cơ quan nghiên cứu khoa học của Bộ, ngành, địa phương tổ chức khảo sát, thăm dò, khai quật, sưu tầm, nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị các di tích khảo cổ học Việt Nam.
  6. Tổ chức hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định pháp luật hiện hành.
  7. Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định; quản lý tư liệu, thư viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và truyền bá kiến thức khoa học.
  8. Quản lý về tổ chức, bộ máy, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số người làm việc trong đơn vị; tài sản và kinh phí của Viện Khảo cổ học theo quy định của Nhà nước và theo sự phân cấp quản lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  9. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Viện khảo cổ học (tên tiếng Anh: Institute of  Archaeology) có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khảo cổ học Việt Nam, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về khảo cổ học. Tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa vật thể và phi vật thể Việt Nam.

I. Vị trí và chức năng.

Viện Khảo cổ học (tên tiếng Anh: Institute of Archaeology) có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khảo cổ học Việt Nam, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam; Cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về Khảo cổ học; Tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hoá vật thể và phi vật thể Việt Nam.

II. Nhiệm vụ và quyền hạn.           

  1. Trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển Viện Khảo cổ học gắn với việc nghiên cứu khảo cổ học và tổ chức thực hiện sau khi phê duyệt.
  2. Nghiên cứu những vấn đề lý luận thực tiễn cơ bản về khảo cổ học Việt Nam và khảo cổ học thế giới; những vấn đề cơ bản và cấp bách về lịch sử dân tộc, lịch sử văn hóa và văn minh Việt Nam nhằm phát huy truyền thống dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
  3. Kết hợp nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực khảo cổ học, tham gia đào tạo sau đại học theo quy định của pháp luật; phát triển nguồn nhân lực có trình độ theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  4. Theo chức năng, tổ chức thẩm định và tham gia thẩm định về mặt khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các Bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  5. Phối hợp với các Viện trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các cơ quan nghiên cứu khoa học của Bộ, ngành, địa phương tổ chức khảo sát, thăm dò, khai quật, sưu tầm, nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị các di tích khảo cổ học Việt Nam.
  6. Tổ chức hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định pháp luật hiện hành.
  7. Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và nước ngoài theo quy định; quản lý tư liệu, thư viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến các kết quả nghiên cứu khoa học và truyền bá kiến thức khoa học.
  8. Quản lý về tổ chức, bộ máy, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số người làm việc trong đơn vị; tài sản và kinh phí của Viện Khảo cổ học theo quy định của Nhà nước và theo sự phân cấp quản lý của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
  9. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

III. Cơ cấu tổ chức.

a. Các phòng (Trung tâm) nghiên cứu khoa học.

  1. Phòng Khảo cổ học Tiền sử;
  2. Phòng Khảo cổ học Sơ sử và Nhà nước sớm;
  3. Phòng Khảo cổ học Lịch sử;
  4. Phòng Nghiên cứu Con người và môi trường cổ;
  5. Phòng Thí nghiệm Khảo cổ học;
  6. Trung tâm Khảo cổ học Dưới nước;

b. Các phòng chức năng, chuyên môn nghiệp vụ 

  1. Phòng Hành chính - Tổng hợp;
  2. Phòng Quản lý khoa học và Tư liệu - Thư viện;
  3. Phòng Kỹ thuật Khảo cổ học;

IV. Tạp chí Khảo cổ học.

Tạp chí Khảo cổ học là cơ quan ngôn luận của Viện Khảo cổ học; là diễn đàn khoa học của ngành và của bạn đọc quan tâm đến khảo cổ học. Tạp chí Khảo cổ học được tổ chức và hoạt động theo Giấy phép hoạt động báo chí, Luật Báo chí, các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực báo chí xuất bản và Quy chế về tổ chức và hoạt động của các tạp chí thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

V. Hội đồng khoa học.

Viện Khảo cổ học có Hội đồng khoa học làm chức năng tư vấn khoa học cho Viện trưởng. Các thành viên Hội đồng khoa học của Viện Khảo cổ học do Viện trưởng quyết định và bổ nhiệm sau khi được sự đồng ý của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Hội đồng khoa học của Viện Khảo cổ học hoạt động theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng khoa học các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam do Chủ tịch Viện ban hành.

VI. Lãnh đạo Viện Khảo cổ học.

Viện Khảo cổ học có Viện trưởng và không quá 02 Phó Viện trưởng. Viện trưởng, Phó Viện trưởng do Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam bổ nhiệm, miễn nhiệm theo quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm công chức lãnh đạo, viên chức quản lý các cấp thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Viện trưởng chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Viện Khảo cổ học. Các Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về những nhiệm vụ được Viện trưởng phân công.
Viện trưởng Viện Khảo cổ học có trách nhiệm xây dựng Quy chế tổ chức và hoạt động của Viện Khảo cổ học trình Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ban hành.

Vòng ống chân, vòng ống tay, khuyên tai... được chế tác từ nhiều chất liệu của người Việt cổ thời văn hóa Đông Sơn cách nay 2500-2000 năm lần đầu tiên được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ An.

Bảo tàng Nghệ An tổ chức trưng bày triển lãm Nghệ An thời tiền sử đến buổi đầu dựng nước, tinh hoa cổ vật xứ Nghệ.
Bảo tàng Nghệ An tổ chức trưng bày triển lãm Nghệ An thời tiền sử đến buổi đầu dựng nước. Các hiện vật trong bộ sưu tập đồ trang sức của người Việt cổ thời kỳ văn hóa Đông Sơn (cách nay 2500-2000 năm) là phần đặc biệt của triển lãm.

Vòng ống chân, hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc, huyện Nghĩa Đàn (nay là thị xã Thái Hòa) năm 1981.
Vòng ống chân, hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc, huyện Nghĩa Đàn (nay là thị xã Thái Hòa) năm 1981. Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Ở vành miệng và thân vòng được gắn nhạc đồng. Vòng ống chân, hay ống tay ngoài chức năng trang sức còn có nhiệm vụ chống đỡ, làm vật cản khi những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân...

Vòng ống tay, hiện vật thu được tại huyện Tân Kỳ (Nghệ An).
Vòng ống tay, hiện vật thu được tại huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Theo nghiên cứu, những vòng ống tay, vòng ống chân hoa văn đẹp, đeo đầy những quả lục lạc tìm thấy không thể là của người dân Đông Sơn bình thường mà phải của tầng lớp quý tộc giàu có mới đủ khả năng và được quyền đeo. Điều này cho thấy xã hội thời cổ đã có sự phân hóa giàu - nghèo.

Vòng tay, hiện vật thu được tại di chỉ Đồng Mô, xã Hưng Thắng, huyện Hưng Nguyên.
Vòng tay, hiện vật thu được tại di chỉ Đồng Mô, xã Hưng Thắng, huyện Hưng Nguyên. Theo tài liệu, người Việt cổ chọn lọc các chất liệu làm đồ trang sức rất đơn giản, dễ kiếm tìm và giàu màu sắc. Bắt đầu từ nguồn nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như đá đến nguyên liệu do con người tạo ra như đồng và thủy tinh.

Một loại vòng tay khác thu được tại di chỉ Đồng Trương, huyện Anh Sơn năm 2000.
Một loại vòng tay khác thu được tại di chỉ Đồng Trương, huyện Anh Sơn năm 2000. Thông qua bộ sưu tập đồ trang sức cho thấy cư dân Đông Sơn trước hết sử dụng đồ trang sức đeo vào tai, cổ, ngón tay, cổ tay, cánh tay, bắp tay, cổ chân để làm đẹp...

Hầu hết hiện vật đồ trang sức văn hóa Đông Sơn thu được tại các di chỉ mộ táng.
Hầu hết hiện vật đồ trang sức văn hóa Đông Sơn thu được tại các di chỉ mộ táng. Trong các di chỉ mộ táng, các nhà khảo cổ tìm được vị trí của thân thể người chết như đúng chức năng của nó, gồm vòng tay ở tay, khuyên tai ở tai, hạt chuỗi ở cổ hay cổ tay. Điều này chứng tỏ người xưa giữ nguyên đồ trang sức khi chết, sống đeo đồ trang sức gì thì chết đeo đồ trang sức đó, nguyên vị trí.

Bộ nhẫn đeo tay, thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1990.
Bộ nhẫn đeo tay, thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1990. Ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn, nhẫn dùng để đeo vào các ngón tay, chất liệu bằng đồng, màu xanh rỉ đồng, rộng bản với đường kính dao động 1,5-1,6 cm.

Chuỗi hạt này thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973.
Chuỗi hạt này thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973. Trong sưu tập tại bảo tàng, có 34 hiện vật chuỗi hạt gồm các loại chất liệu như đá, thủy tinh và đất nung. Hiện vật gồm một hạt hoặc nhiều hạt kết thành chuỗi, có lỗ xuyên suốt ở giữa để xâu dây dùng đeo cổ, đeo cổ tay và có thể ở cổ chân.

Bộ sưu tập khuyên tai tìm thấy tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1981.
Bộ sưu tập khuyên tai tìm thấy tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1981. Tại bảo tàng có 65 hiện vật khuyên tai với chất liệu đá và thủy tinh. Các hiện vật cho thấy khuyên dùng để đeo tai, hình tròn, có khe hở, một mặt phẳng, một mặt có hai khớp với các màu sắc như xanh nhạt, màu xanh đậm, màu xanh lá cây.

Bà Nguyễn Thị Mai, Trưởng phòng Nghiên cứu kiểm kê bảo quản Bảo tàng Nghệ An cho biết, bộ sưu tập đồ trang sức văn hóa Đông Sơn tại bảo tàng có 495 hiện vật được chia thành 4 nhóm dựa vào tiêu chí chất liệu, bằng đá, đất nung, đồng và thủy tinh.
Bà Nguyễn Thị Mai, Trưởng phòng Nghiên cứu kiểm kê bảo quản Bảo tàng Nghệ An cho biết, bộ sưu tập đồ trang sức văn hóa Đông Sơn tại bảo tàng có 495 hiện vật được chia thành 4 nhóm dựa vào tiêu chí chất liệu, bằng đá, đất nung, đồng và thủy tinh.

Cùng với các hiện vật là đồ trang sức thuộc văn hóa Đông Sơn, Bảo tàng còn trưng bày hàng trăm hiện vật quý giá khác được tìm thấy tại Nghệ An cùng niên đại thuộc văn hóa Đông Sơn.
Cùng với các hiện vật là đồ trang sức thuộc văn hóa Đông Sơn, Bảo tàng còn trưng bày hàng trăm hiện vật quý giá khác được tìm thấy tại Nghệ An cùng niên đại thuộc văn hóa Đông Sơn. Nổi bật là chiếc trống đồng thu được tại xã Đồng Hợp huyện Quỳ Hợp tìm thấy năm 2006. Trống có đường kính 90 cm, đang được ghi nhận là chiếc trống đồng to và giá trị nhất tại Nghệ An đến nay.

Hải Bình (vnexpress.net)

 

 Trong số này gồm 10 bài viết về tổng quan Khảo cổ học ở Việt Nam

Xin giới thiệu tóm tắt sơ lược về các bài đã đăng trên tạp chí số 1 - 2016

MỤC LỤC

STT

 

Tr

1

Tư liệu mới về địa tầng và phương thức cư trú của người tiền sử ở Sủa Cán Tỷ (Hà Giang)

NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG

“Di chỉ Sủa Cán Tỷ nằm ở thôn Sủa Cán Tỷ, xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, được phát hiện vào năm 2000 và khai quật năm 2013 gồm 3 hố với diện tích 100m2. Địa tầng hố khai quật có hai lớp đất phân biệt: lớp bồi tích ở bên trên và lớp sét ở dưới. Di vật phân bố hoàn toàn trong lớp bồi tích nên khả năng chúng được trôi từ trên sườn núi xuống vào một thời điểm nào đó. Di vật thu được gần 200 chiếc, đều là đồ đá với các công cụ cuội ghè đẽo chủ yếu là chopper kiểu kỹ nghệ Sơn Vi, mảnh tước, chỉ có một số nhỏ là công cụ kiểu Hòa Bình. Đây là di tồn văn hóa của nhóm cư dân hậu kỳ Đá cũ với phương thức cư trú di động để khai thác các nguồn thức ăn”.

3

2

Di cốt người cổ hang Diêm (Thanh Hóa)

TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN

“Hang Diêm thuộc bản Sánh, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, được phát hiện năm 2012 và được đoàn khảo cổ học hợp tác Việt-Nga khai quật năm 2013 - 2014. Địa tầng hố khai quật dày 1,8m, xuất lộ tầng văn hóa gồm ba lớp, mỗi lớp có một di tích mộ táng. Hai di tích mộ táng thuộc tầng văn hóa trên và giữa thuộc về 5 cá thể, di cốt trong tình trạng bị vỡ nát, một số mảnh bị đốt cháy; chúng có thể là mộ cải táng.

 Di cốt của di tích mộ táng thuộc lớp văn hóa sớm nhất còn khá nguyên vẹn. Vị trí các bộ phận di cốt còn nguyên trong tư thế giải phẫu cho thấy người chết được chôn trong tư thế chân co gập (flexed leg). Thành phần nhân chủng của di cốt này sơ bộ được xác định có những yếu tố thuộc đại chủng Mongoloid nhưng lại có yếu tố Australoid hay Melanesian. Đây là một trong số ít di tích mộ táng thuộc dạng quý hiếm trong giai đoạn cuối hậu kỳ Pleisstocene ở Việt Nam”.

11

3

Di chỉ Huổi Han (Lai Châu) - Tư liệu và nhận thức

LÊ HẢI ĐĂNG

“Di chỉ  Huổi Han thuộc thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu được phát hiện năm 2012 và khai quật năm 2014. Địa tầng di chỉ dày trên 1m trong dó tầng văn hóa dày khoảng 55-65cm còn khá nguyên vẹn. Các di tích phát hiện được trong các hố khai quật gồm bép lửa, khu vực chế tác đá. Di vật thu được đều là đồ đá, trong đó chủ yếu là công cụ ghè đẽo, mảnh tước, chày nghiền, hòn ghè, chỉ có một rìu mài toàn thân, một phác vật vòng tay và một số bàn mài. Khung niên đại dự đoán cho di chỉ vào khoảng 4.500 - 4.000 năm BP thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới - sơ kỳ thời đaik Kim khí. Đây là di tích có đặc trưng tương đồng với hệ thống di tích phân bố trong khu vực với sự bảo lưu đậm nét truyền thống công cụ ghè đẽo trong bối cảnh hậu kỳ thời đại Đá mới trong khu vực Tây Bắc”.

22

4

Phân loại và định niên đại trống đồng tỉnh Khánh Hòa

NGUYỄN PHÚC CẦN

“Sưu tập trống đồng phát hiện được ở tỉnh Khánh Hòa gồm 5 chiếc còn khá nguyên hình dạng để có thể nghiên cứu. Dựa vào hình dáng, hoa văn trang trí, di vật chôn theo trống và cách phân loại trống đồng của những nhà nghiên cứu trước, các tác giả đã phân loại các trống ở Khánh Hòa thành các nhóm, kiểu và xác định niên đại của chúng như sau:

- Nhóm trống A1 (Heger I) là trống Đông Sơn, gồm 3 trống: trống Đại Cát I, trống Đại Cát II và trống Đại Mỹ, có niên đại từ TK VI đến TK III BC.

-  Nhóm trống B2 gồm 2 trống: trống Nha Trang I và trống Nha Trang II, có niên đại từ TK IV BC đến TK I AD”.

30

5

Khảo cổ học biển ở Quảng Nam và Quảng Ngãi

BÙI VĂN LIÊM, BÙI VĂN HIẾU

Tiềm năng khảo cổ học dưới nước nói riêng và khảo cổ học biển nói chung ở Quảng Nam, Quảng Ngãi là rất lớn. Hệ thống sông ngòi ở hai tỉnh này khá dày đặc, dọc bờ biển đều có những cửa, vùng biển thuận lợi cho tàu thuyền ra vào và cũng nằm trong tuyến thương mại biển của khu vực với những thương cảng nổi tiếng trong lịch sử. Ở đây, có đầy đủ những loại hình di tích chính và đối tượng nghiên cứu của khảo cổ học biển như:  Thương cảng cổ, tàu đắm, xưởng đóng tàu thuyền và các cộng đồng ngư dân biển với lịch sử phát triển hàng nghìn năm.

 Tuy nhiên, khảo cổ học biển ở đây vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của nó và đang phải đối diện với các nguy cơ bị xâm hại. Do vậy, xác định  việc nghiên cứu hệ thống những di tích khảo cổ học dưới nước, các di tích bị chìm ngập và mối liên hệ lịch sử với các di tích trên đất liền ở các khu vực này trong phạm vi không gian và thời gian rộng hơn là việc làm hết sức cần thiết để làm cơ sở cho việc đề xuất những phương án bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng”.

37

6

Khảo cứu bia miếu Đào Hoàng

(Nghè thôn Thanh Hoài, Thuận Thành, Bắc Ninh)

PHẠM LÊ HUY

“Tại Miếu Đào Hoàng (nay thuộc thôn Thanh Hoài, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có một tấm bia cổ đã được phát hiện và khảo cứu từ năm 2013. Bia Miếu Đào Hoàng được xác định có niên đại Kiến Hưng 2 (314). Đến năm Nguyên Gia thứ 27 (450), khi hậu duệ của Đào Hoàng là Đào Trân Chi cho xây dựng lại miếu theo lệnh của Giao Châu thứ sử ( Jiaozhou governor) Tiêu Cảnh Hiến, người ta đã cho khắc thêm minh văn thứ hai ở mặt sau.

 Qua khảo cứu minh văn ở mặt sau bia cũng như đối chiếu với các tư liệu lịch sử, tác giả đã hiệu đính nội dung văn bia, qua đó làm rõ một số nhân vật, địa danh và sự kiện lịch sử Việt Nam trong thế kỷ IV - V.

Các minh văn trên bia Miếu Đào Hoàng là một nguồn tư liệu lịch sử vô cùng quan trọng. Theo đó, gợi ý khả năng di tích thành cổ Lũng Khê chính là thành Long Biên do Thứ sử (governor) Đào Hoàng cho xây dựng vào cuối thế kỷ III”.

48

7

Về một số hệ thống dẫn/thoát nước ở 18 Hoàng Diệu, thuộc khu Trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long

NGUYỄN HỒNG KIÊN, NGUYỄN VĂN MẠNH

“Bài báo đề cập đến hệ thống dẫn/thoát nước thời Tiền Thăng Long và thời Lý đã được phát hiện tại khu vực 18 Hoàng Diệu thuộc khu trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long.

Qua đó, các tác giả cho rằng các dấu tích của hệ thống rãnh dẫn/thoát nước xung quanh một công trình giúp chúng ta có thể nhận diện được quy mô mặt bằng của các di tích. Các hệ thống cống, "đường nước" đều có công năng chính là dẫn/thoát nước, còn công năng phòng thủ quân sự nếu có chỉ là công năng phụ vì hệ thống cống này đều được phát hiện trong Cấm thành, việc phòng thủ quân sự không có nhiều ý nghĩa.

Trên thực tế, chúng ta có thể thấy khu vực Hoàng thành Thăng Long là một vùng trũng thấp, đang bồi lấp dở dang. Bởi vậy, nếu không có các hệ thống dẫn/thoát nước thật tốt, con người sẽ không thể sinh sống tại đây. Các nhà kiến trúc/xây dựng xưa đã có tư duy "thích ứng tự nhiên" khi dựa vào hệ thống sông/hồ, để xây dựng các hệ thống cống và rãnh dẫn/thoát nước”.

60

8

Móng cột thời Trần qua tài liệu khảo cổ học

BÙI VĂN HIẾU

Dưới góc độ kỹ thuật học, kiến trúc cổ truyền Việt là các công trình có hệ chịu lực bằng khung kết cấu gỗ, với cấu kiện cơ bản là hệ thống cột.

Trên cơ sở nghiên cứu những dấu vết móng cột thời Trần chúng ta có thể thấy mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật là kiểu mặt bằng phổ biến nhất của các công trình kiến trúc thời kỳ này.

Tương tự như móng cột thời Lý, trong thành phần vật liệu cấu tạo của móng cột thời Trần cũng thấy sự có mặt của các loại vật liệu như đất sét, gạch, ngói, sỏi, sành, gốm, bao nung. Ngoài ra, người thời Trần cũng đã sử dụng phổ biến hơn đá cuội và bắt đầu đưa đá khối vào móng cột.

Thời Trần cũng tồn tại các kỹ thuật cơ bản tạo móng kiến trúc đó là đổ-đầm, xếp móng. Đối với loại hình móng cột, các lớp vật liệu về cơ bản vẫn được đầm thành lớp nhưng không được đầm chặt, quy chỉnh như móng cột thời Lý

 

71

9

Giá trị văn hóa khảo cổ học Tây Yên Tử và một vài định hướng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị

NGUYỄN VĂN ĐÁP

Hệ thống di tích chùa thời Lý - Trần khu vực Tây Yên Tử thuộc địa bàn các huyên Lục Nam và Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang bao gồm: chùa chùa Hồ Bấc, chùa Cao và chùa Đám Trì chùa Am Vãi, chùa Hòn Tháp, chùa Bình Long, chùa Khám Lạng, chùa Đồng Vành...

Các cuộc khảo sát khai quật khảo cổ học gần đây tại các di tích chùa này đã cung cấp thêm nhiều thông tin cho việc nghiên cứu, phục dựng các giá trị lịch sử, văn hóa liên quan đến Phật giáo và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.

Dựa trên thực trạng các di tích, tác giả đề xuất các phương án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị cho các di tích này”.

82

10

Sự chuyển biến của tháp mộ thời Lê Trung hưng sang thời Nguyễn

MAI THÙY LINH

Tháp là một loại hình kiến trúc đặc biệt phản ánh phong tục chôn cất và là nơitiến hành các nghi thức tế lễ, thờ cúng các bậc cao tăng trụ trì trong các chùa. Việc nghiên cứu loại hình di tích này không chỉ đóng góp vào việc tìm hiểu về kiến trúc mà còn cung cấp những thông tin quan trọng về lịch sử, văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng.

Bài viết tiến hành nghiên cứu so sánh tháp mộ thời Lê Trung hưng với tháp mộ thời Lý - Trần trước đó và tháp mộ thời Nguyễn sau này. Từ đó tìm hiểu sự chuyển biến trên các khía cạnh về vật liệu xây dựng, cấu trúc, nghệ thuật trang trí tháp mộ cũng như các bối cảnh xã hội và tôn giáo của các thời kỳ lịch sử trên.

93

CONTENTS

No

 

Page

1

New data of stratigraphy and settlement patterns at Sủa Cán Tỷ prehistoric site (Hà Giang province)

NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG

“The Sủa Cán Tỷ site, located at Cán Tỷ hamlet, Cán Tỷ commune, Quản Bạ district, Hà Giang province, was found in 2000 and excavated in 2013. It included 3 excavated trenches in 100marea. Its stratum consists of two separated layers: the upper deposited layer and the power clay layer. The artifacts lied completely in the deposited layer, which probably mean they had fallen down from the mountain cliff some time. The found artifacts include nearly 200 items, all of which are chopped pebbles mainly of Sơn Vi style, flakes, and a small number of Hòa Bình-styled tools. 
This is a cultural remain of the late Neolithic inhabitants with the mobile living model to exploit food source
”.

3

2

Ancient human bones at Diêm cave (Thanh Hóa province)

TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN

“Diêm Cave, located at Sánh village, Thành Yên commune, Thạch Thành district, Thanh Hóa province was found in 2012 and excavated in the group of Vietnamese – Russian cooperation. The stratum of the excavated trench was 1.8m thick, including three cultural layers, which of which consisted of a burial. The two burials from the upper and the middle cultural layers belonged to 5 individuals whose remained bones were badly broken; some were burnt, they might have been secondary burials.

 The human bones from the earliest cultural layer remain fairly intact. The positions of the skeletons remain in the surgical postures, which demonstrate that the deceased had been buried in the posture of the flexed leg. The anthropological components have been preliminarily identified with Mongoloidfactors but containing Australoid or Melanesian factors. This is one of a few burial sites of rare style from the ending stage of the late Pleistocene in Việt Nam”.

11

3

Huổi Han site (Lai Châu province) – Data and perception

LÊ HẢI ĐĂNG

“The Huổi Han site (Mường Tè town, Mường Tè district, Lai Châu province) was found in 2012 and excavated in 2014. The site stratum was over 1m thick, in which the cultural layer was fairly intact, about 55cm - 65cm thick. The relics found in the excavated trenches include fireplaces and places for stone making. The found artifacts consist of stone tools, mainly including chopped tools, flakes, pestles, choppers, a wholly-polished axe, a pre-formed bracelet and some grinding stones. The estimated date of the site is c. 4,500 BP – 4,000 BP, belonging to the Neolithic – early Metal Age. This site’s characteristics are similar to those of the system of site distribution in the area with the reservation of chopping tradition in the late Neolithic context in the northwestern part of Northern   Viet Nam”.

22

4

Classification and dating of bronze drums from Khánh Hòa province

NGUYỄN PHÚC CẦN

               “The collection of bronze drums found from Khánh Hòa province consists of 5 fairly intact drums that are possible to be studied. From the forms, decorative designs, accompanied objects and the classification of the bronze drums by the previous researchers, the authors have classified the drums from Khánh Hòa into some following groups, types and dates:

              - The group A1 (Heger I) includes Đông Sơn-culture drums, with 3 items: Đại Cát I, Đại Cát II and Đại Mỹ drums, dated from the sixth century to the third century BC.

              -  The group B2 includes 2 drums: Nha Trang I and Nha Trang II drums, dated from the fourth century BC to the first century AD”.

30

5

Maritime archaeology in Quảng Nam and Quảng Ngãi

BÙI VĂN LIÊM, BÙI VĂN HIẾU

“Potentiality of underwater archaeology in particular and maritime archaeology in Quảng Nam and Quảng Ngãi is extremely great. The system of rivers, canals and arroyos in these two provinces is fairly dense; along the sea coast, there are many seaports and bays, which are favorable for ships and boats to travel and they also lie in the trade route on sea in the regions with famous seaports in the history. They include enough main types of relics and research objects for maritime archaeology such as ancient trade ports, sunken ships, and workshops for making ships and boats and the communities of fishers with their development history through thousands of years. 

However, the maritime archaeology in this area has not developed as well as its potentiality and it is even facing the dangers of vandalism. Therefore, the systematic research into underwater or flooded sites and the relationships between them and the inland sites in these areas in the larger space and time is a vital task to set up a base for possible plans of protection, conservation and valorization of their values”.

 

37

6

Research on the stele of Đào Hoàng shrine (Thanh Hoài commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province)

PHẠM LÊ HUY

“At the Đào Hoàng shrine (Thanh Hoài commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province today), there is an ancient stele that has been found and studied since 2013. It has been dated to Kiến Hưng 2 preriod (314). In Nguyên Gia the twenty-seventh  (450), when  Đào Trân Chi, the descendent of Đào Hoàng, had the shrine built, following the order of the Giao Châu Jiaozhou governor Tiêu Cảnh Hiến, who had inscribed the second epigraphical characters at its back.

From the study on these second epigraphical characters and the comparison with the historical data, the author has edited the stele content, from which he has clarified some human characters, locations and historical events in Việt Nam during the fourth century to the fifth century.

The epigraphical characters on the Đào Hoàng shrine are invaluable historical source. This source suggests a possibility that the ancient Lũng Khê citadel was itself the Long Biên citadel built by the governor Đào Hoàng at the end of the third century”.

48

7

About some systems of water drainage at 18 Hoàng Diệu, the centre of Thăng Long Imperial Citadel

NGUYỄN HỒNG KIÊN, NGUYỄN VĂN MẠNH

“The paper refers to the system of water drainage from pre-Thăng Long and the Lý periods found at 18 Hoàng Diệu Street, the centre of the Thăng Long Imperial citadel.

Therefrom, the authors suppose that the traces of the drainage system around the construction enable us to identify the plan scales of its sites. The systems, "water flows" all mainly served as water drainage, whereas the defensive function, if there was, was just militarily secondary as these systems were all found in the forbidden Citadel, the military defense was not much significant.

In fact, we can see that the area of the Thăng Long Imperial citadel is low, not completely deposited. Therefore, without a good drainage system, people could not live there. The ancient architects/builders were "adaptable to the nature" in their thinking when they were based on the systems of rivers/ponds to build their systems of sewers and water drainage”.

 

60

8

Pillar bases of Trần period on the basis of archaeological data

BÙI VĂN HIẾU

“Under the technical angle, the traditional Vietnamese architecture includes constructions with wooden supporting frames that were mainly supporting pillars.

From the research on the traces of pillar bases from the Trần period, we can see that the rectangular architectural plans are most popular for the architectural constructions in the Trần period.

Similar to the Lý-period pillar bases, in the materials of the Trần’s ones, there are clay, bricks, tiles, gravels, stoneware and sagas. In addition, gravels were more popularly used and blocks of rocks were started to be used for building pillar bases.

Some basic techniques for building architectural bases also existed in the Trần period such as loading-ramming and arranging techniques. In terms of pillar-base type, the material layers were basically rammed to form but not as tightly and standardized as those of the Lý period”. 

 

71

9

Archaeological values of western Yên Tử sites and some orientations of preservation, endorsement, and valorization

NGUYỄN VĂN ĐÁP

“The system of the pagoda sites from the Lý - Trần period in the western Yên Tử area in the locations of the Lục Nam and Lục Ngạn districts, Bắc Giang province includes: the Hồ Bấc, Cao,  Đám Trì, Am Vãi, Hòn Tháp, Bình Long, Khám Lạng, Đồng Vành pagodas, etc.

The resent archaeological investigations and excavations at these pagodas provide more information for the research and restoration of the historical and cultural values related to Buddhism and the Trần-period Zen school of Trúc Lâm Yên Tử.

Based on the current statuses of these sites, the author proposes plans for preservation, endorsement and valorization of these sites”.

82

10

Changes of burial stupas from Lê Trung hưng period to Nguyễn period

MAI THÙY LINH

“Stupas are special architecture reflecting burial customs and serve as places for running sacrifices and worship by the eminent monks managing the pagodas. The research into these sites not only contributes to further understanding of their architecture but also provides important historical, cultural, religious and superstitious information.

The paper refers to the comparative research into the burial stupas of the Lê Trung Hưng period and those from the Lý - Trần period before it and the Nguyễn period after it. Therefrom, the author studies the changes in building materials, structure, decorative art on burial stupas as well as the social and religious backgrounds of the historical periods”.

93

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

61- Phan chu trinh - Hà Nội

Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607

Email:  tapchikhaoco@gmail.com

 Thái Thị Ngọc Hân

 

Tạp chí Khảo cổ học số 6 - 2015

 

 

Tạp chí Khảo cổ học số 6 - 2015

Dày 100 trang (cả bìa) - khổ 19cmx27cm

Trong số này:

 - Có 09 bài viết về tổng quan Khảo cổ học ở Việt Nam

- Có 01 bài viết về cố PGS.TS Diệp Đình Hoa

- Thông tin hoạt động Khảo cổ học

-Danh mục các bài đã đăng trên Tạp chí Khảo cổ học trong năm 2015.

 

 

 

 

 

 
 

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9026688
Số người đang online: 27