bia_14_so_5-2016.jpg

Tạp chí Khảo cổ học số 5 – 2016
Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm
MỤC LỤC
STT   Tr
1
 
 
 
 
Các bối cảnh trong môi trường và văn hóa trong thời kỳ Holocene ở châu thổ sông Hồng
                                                            Nguyễn Gia Đối
 “Bài báo đề cập đến các bối cảnh môi trường và văn hóa trong giai đoạn từ cuối Holocene sớm đến đầu Holocene muộn ở vùng châu thổ sông Hồng. Trong giai đoạn này đồng bằng sông Hồng dần được hình thành và trải qua các biến động về môi trường (khí hậu, thảm thực vật), đặc biệt là sự biến đổi về địa mạo, cảnh quan do sự tăng giảm của mực nước biển trong thời kỳ Holocene trung. Quá trình cư trú, các mô thức kiếm sống của các nhóm cư dân từ hậu kỳ Đá mới đến thời đại Kim khí gắn với các sự kiện môi trường diễn ra ở châu thổ sông Hồng thời kỳ này. Quá trình đó diễn ra theo một xu hướng chủ đạo là từ vùng đồng cao xuống vùng đồng bằng thấp; từ các hoạt động kinh tế khai thác tự nhiên – nông nghiệp sơ khai đến nông nghiệp trồng lúa nước; từ chế tác, sử dụng công cụ đá đến kỹ thuật luyện kim đúc đồng. Đây là một trong những mô hình khá tiêu biểu mang tính khu vực và toàn cầu của quá trình tương tác, thích ứng của con người với điều kiện tự nhiên ở một vùng châu thổ trong thời kỳ Holocene”.
3
2 Quá trình chiếm lĩnh vùng ngập mặn Đông Nam Bộ thời Tiền - sơ sử
Trương Đắc Chiến
“Trong khoảng thời gian từ 3500 năm BP cho đến thế kỉ 1 - 2 AD, tức là từ hậu kì Đá mới cho tới sơ kì Sắt, vùng ngập mặn Đông Nam Bộ đã được các nhóm cư dân khác nhau đến chiếm lĩnh và khai phá. Khởi đầu là những cư dân Cái Vạn, Rạch Núi, tiếp đó là những cư dân Cái Lăng, Gò Me, Bưng Thơm - Bưng Bạc và cuối cùng là những cư dân ở Cần Giờ, Long Sơn. Quá trình này không chỉ là sự lan tỏa của các cư dân vùng cao ra phía biển mà còn là sự thâm nhập của các nhóm dân cư từ phía biển vào đất liền.
Những di vật tìm được rất phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình và chất liệu, thể hiện những đặc trưng văn hóa của vùng ngập mặn Đông Nam Bộ.
Những di tích, di vật tìm được còn cho thấy mối quan hệ giữa vùng ngập mặn Đông Nam Bộ với các di tích ở vùng cao Đồng Nai, Vàm Cỏ, với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, với nhiều địa điểm ở Đông Nam Á, thậm chí cả mối quan hệ với Ấn Độ và Nam Trung Quốc.
Qua những di tích vùng ngập mặn ven biển này, chúng ta thấy được bằng chứng của một quá trình phát triển lên văn hóa Óc Eo từ thời tiền - sơ sử đã được hình thành ngay tại khu vực này”.
19
3 Sức sống Đông Sơn qua một số loại hình di chỉ khảo cổ học
Nguyễn Giang Hải
“Văn hóa Đông Sơn là nền tảng của nền văn minh Việt cổ, của nhà nước Văn lang và Âu Lạc. Từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm 938 Công Nguyên, nước ta bị các triều đại phong kiến Trung Quốc thống trị. Đây là thời kỳ những kẻ đô hộ người Hán ra sức tiến hành Hán hóa nhằm tiêu diệt, xóa bỏ bản sắc văn hóa Việt cổ. Tuy nhiên, với truyền thống văn hóa Đông Sơn rực rỡ, người Việt  vẫn bền bỉ đấu tranh chống lại ách đô hộ của các thế lực phương Bắc để giành độc lập và giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa của mình.
Bài viết này góp phần tìm hiểu và chứng minh sức sống của văn hóa Đông Sơn, truyền thống của văn hóa Việt cổ qua một số chứng cứ khảo cổ học trong thời kỳ Bắc thuộc và muộn hơn”.
36
4 Đền thần Hindu ở Cát Tiên
Đặng Văn Thắng, Võ Thị Quỳnh  Như
Quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên nằm trải dài theo thung lũng hẹp dọc sông Đồng Nai, nay thuộc các xã Quảng Ngãi và Đức Phổ của huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Quần thể di tích này được phát hiện từ năm 1985, cho đến nay đã trải qua nhiều đợt khai quật và nghiên cứu cùng với khối lượng di tích và di vật phong phú.
         Theo tác giả, ở Cát Tiên có 3 loại hình kiến trúc đền bao gồm: Đền ở ngoài trời (Hypaethral Temple),đền có mái che (Roofed Temple), và đền có cấu trúc bằng gạch và đá (structural brick and stone temples).
 Dựa vào, niên đại và kết cấu kiến trúc, có thể thấy ở khu di tích đền Cát Tiên có hai giai đoạn phát triển đỉnh cao. Lần thứ nhất là giai đoạn thế kỷ III - IV sau Công nguyên, tương đương với thời kỳ mà vương quốc Phù Nam phát triển đến đỉnh cao, phạm vi lãnh thổ bao gồm cả khu vực Nam Bộ. Có lẽ văn hóa Óc Eo đã có ảnh hưởng lên vùng đất Cát Tiên vào giai đoạn này. Lần thứ 2 vào giai đoạn khoảng thế kỷ VII – VIII,  là thời kỳ Nam Bộ đầy biến động, sự tấn công của Chân Lạp, sự sụp đổ của Phù Nam và sự di cư từ vùng đất thấp lên vùng đất cao của một nhóm cư dân Nam Bộ cổ, những điều này cũng có thể là các yếu tố ảnh hưởng đến vùng đất Cát Tiên”.
43
5
Thành Lồi qua những kết quả nghiên cứu mới
Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Hữu Mạnh, Nguyễn Văn Quảng
Trong hai năm 2011 và 2014, một nhóm các nhà khảo cổ học đã tiến hành khảo sát di tích Champa tại khu vực Bắc đèo Hải Vân, trong đó có di tích Thành Lồi hiện nay thuộc địa phận ba phường: Thủy Xuân, Thủy Biều và Phường Đúc (thành phố Huế). Toàn bộ luỹ của Thành Lồi bao quanh đồi Long Thọ, bên cạnh sông Hương.
Thành Lồi là một toà thành có quy mô lớn, cấu trúc hoàn chỉnh, khá kiên cố, được đắp bằng đất  là chủ yếu, hai bên có tường gạch làm cốt.
Kết quả khảo sát 2011 và 2014 ở Thành Lồi cung cấp thêm một số dữ liệu về niên đại xây dựng Thành Lồi. Theo đó, thành Lồi có những tương đồng về kỹ thuật xây dựng với thành Trà Kiệu, thành Hồ; di vật như ngói và gốm Thành Lồi mang những đặc trưng giống di vật tầng văn hoá trên của Trà Kiệu; niên đại xây dựng thành Lồi có thể từ sau thế kỷ IV AD
58
6
Những hiểu biết về khảo cổ học biển ở Bình Định và Phú Yên
Bùi Văn Liêm, Bùi Văn Hiếu
“Bình Định và Phú Yên có tiềm năng lớn về khảo cổ học dưới nước nói riêng và khảo cổ học biển nói chung. Hệ thống sông ngòi ở hai tỉnh này khá dày đặc, dọc bở biển đều có những cửa, vụng biển thuận lợi cho tàu thuyền ra vào và cũng nằm trong tuyến thương mại biển của khu vực với những thương cảng nổi tiếng trong lịch sử. Ở đây, có đầy đủ những loại hình di tích chính của khảo cổ học biển như thương cảng cổ (Thị Nại, Nước mặn, Quy Nhơn, Vũng Lấm), tàu đắm (Hà Ra), xưởng đóng ghe tàu thuyền. Di vật phát hiện được liên quan đến khảo cổ học biển ở khu vực này bao gồm đồ gốm/sứ/sành, đồ kim loại, đồ gỗ…
Hiện tại, do nhu cầu cuộc sống và việc phát triển kinh tế địa phương đang dần xâm hại nguồn di sản văn hóa này. Chính vì vậy, việc xác định, nghiên cứu hệ thống những di tích khảo cổ học dưới nước, các di tích bị chìm ngập và mối liên hệ trong lịch sử với các di tích trên đất liền ở các khu vực này là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết”.
71
7
Nghiên cứu khảo cổ học biển gần đây ở Vân Đồn (Quảng Ninh)
Bùi Văn Hiếu
Trong những năm gần đây, bước đầu đã có những nghiên cứu sử dụng các phương pháp của khảo cổ học dưới nước như khảo sát bằng snúc-kơ, viễn thám, lặn khảo sát dưới nước được tiến hành ở  khu vực Vân Đồn. Bên cạnh đó, có những cuộc khảo sát ở 17 địa điểm tại ba xã Quan Lạn, Minh Châu và Thắng Lợi,  tập trung nghiên cứu ở hai địa điểm Mang Thúng và Cống Cái. Với vị trí địa lý của mình, có thể nói, Mang Thúng và Cống Cái giữ vai trò tương đối quan trọng trong hệ thống thương cảng Vân Đồn xưa. Bên cạnh đó, Sơn Hào là một di tích lý tưởng cho việc nghiên cứu một làng cổ liên hệ chặt chẽ với thương cảng Vân Đồn.
Hiện nay, tại phần lớn các điểm khảo sát, vẫn còn nhiều mảnh đồ gốm sành sứ với nhiều loại hình khác nhau như bát, đĩa, lon vại, bình vò, nồi, lọ… nguồn gốc Việt Nam và Trung Quốc, niên đại trải dài nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, từ thế kỷ I, II sau Công Nguyên cho đến thế kỷ XIX - XX.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu gần đây, chúng ta có thể khẳng định trong vòng bảy thế kỷ, thương cảng Vân Đồn đã hình thành và phát triển trong một không gian rộng gồm một hệ thống các bến cảng và sự giao thương diễn ra đồng thời ở nhiều địa điểm. Việc tiếp tục tiến hành khảo sát, nghiên cứu ở khu vực này hy vọng sẽ phần nào được giải đáp được vấn đề trung tâm thương cảng Vân Đồn ở đâu và sự dịch chuyển của nó qua các thời kỳ”.
88
  Thông tin hoạt động Khảo cổ học 97
  Giới thiệu sách 98
 
CONTENTS
 
No   Page
1
ENVIRONMENTAL AND CULTURAL CONTEXTS IN HOLOCENE IN HỒNG-RIVER DELTA
Nguyễn Gia Đối
The paper refers to the environmental and cultural contexts in late Early Holocene to early Late Holocene in the Hồng-river delta. In this period, the Hồng-river plain was gradually formed and experienced environmental upheavals (of climate and vegetation), especially the changes in geomorphology and landscape due to the sea transgression and recession in the middle Holocene. In the process of inhabitation, the pattern of livelihood from the late Neolithic to the Metal Age was associated with the environmental events in the Hồng-river delta at that time. This process occurred in a mainstream trend from high to lowland plains; from the economic activities of natural exploitation and primitive agriculture to wet-rice cultivation; from making and using stone tools to the technology of metallurgy and bronze casting. This is one of the fairly typical regional and global patterns of the human interactive and adaptable process in the natural conditions of a delta area in Holocene.
3
2
PROCESS OF MANGROVE OCCUPATION IN THE EASTERN PART OF SOUTHERN VIỆT NAM IN PRE-PROTOHISTORICAL PERIOD
Trương Đắc Chiến
From 3500 BP to the first – second centuries AD, which means from the late Neolithic to the early Iron Age, the mangrove areas in the Eastern part of Southern Việt Nam were occupied  and exploited by various groups of inhabitants. The first group was from Cái Vạn and Rạch Núi, which followed by those from Cái Lăng, Gò Me and Bưng Thơm - Bưng Bạc and the final group was from Cần Giờ, Long Sơn. This process is not only the spread of highland residents to the sea but also the penetration of the inhabitants from the sea to the mainland.
The found artifacts are very rich in quantity and diversified in forms and materials, which demonstrate the cultural characteristics of the mangrove areas in the Eastern part of Southern Việt Nam.
The found artifacts and sites also show the relationship between the mangrove areas in the Eastern part of Southern Việt Nam and the sites in the highlands of Đồng Nai, Vàm Cỏ, the Sa Huỳnh culture in Central Việt Nam, and many other sites in Southeast Asia, even the relationship with India and Southern China.
           Through the sites in these coastal mangrove areas, we realize the evidence of the development process to the Óc Eo culture from pre- protohistorical period was formed right in these areas.
 
19
3
ĐÔNG SƠN VITALITY FROM SOME TYPES OF ARCHAEOLOGICAL SITES
Nguyễn Giang Hải
The Đông Sơn culture is a base of the ancient Vietnamese civilization, of Văn lang and Âu Lạc states. From 179 BC to 938 AD, Việt Nam was dominated by feudal Chinese dynasties. This is the period that the Han (Chinese) dominators tried to sinicize in order to eliminate the ancient Vietnamese culture. However, with the brilliant Đông Sơn-culture tradition, the Vietnamese were still enduring to struggle against the dominant yoke of the Chinese forces to gain independence and preserve the Vietnamese tradition and cultural identity.
          This paper contributes to the study and the justification of the Đông Sơn-culture vitality, the tradition of the ancient Vietnamese culture through some of the archaeological evidence from the Chinese Domination period and later.
36
4
HINDU TEMPLE IN CÁT TIÊN
Đặng Văn Thắng, Võ Thị Huỳnh Như
The complex of the sites in Cát Tiên stretch in a narrow valley along the Đồng Nai river, which now belongs to Quảng Ngãi and Đức Phổ communes of Cát Tiên district, Lâm Đồng province. This complex was found in 1985, and has been excavated and studied for many times so far, with the rich found relics and artifacts.
As far as the author is concerned, there are  3 architectural types in Cát Tiên including hypaethral temples, roofed temples, brick and stone temples.
           Based on the dates and architectural composition, there are possibly two stages that developed to the climax in Cát Tiên site complex. The first stage was in the third – fourth centuries AD, equivalent to the time when Funan Kingdom developed to the climax, in the territory that included the whole Southern Việt Nam. The Óc Eo culture might have influenced Cát Tiên land at this time. The second stage was in the seventh – eighth centuries AD, when Southern Việt Nam was in chaos, with the attach of Chân Lạp, the collapse of Funan and the immigration of inhabitant group of old Southern Việt Nam from the low lands to the high lands, which might have been factors that affected Cát Tiên lands.
43
5
LỒI CITADEL THROUGH THE NEW RESEARCH RESULTS
Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Hữu Mạnh, Nguyễn Văn Quảng
In 2011 and 2014, a group of archaeologists conducted a survey at the Champa sites in the area of northern Hải Vân Pass, including Thành Lồi Citadel which now belongs to the location of the three wards: Thủy Xuân, Thủy Biều and Phường Đúc (Huế City). The whole rampart of Lồi Citadel encloses Long Thọ hill, near Hương River.
Thành Lồi Citadel is large-scaled, with a complete structure that is quite solid, which was built mainly with earth and bordered by brick walls at both sides.
The results of the survey in 2011 and 2014 at Lồi Citadel provide additional information to the date of the citadel construction. Accordingly, the Citadel share similarities in construction techniques with Trà Kiệu and Hồ-dynasty citadels; the artifacts from Lồi Citadel such as tiles and ceramics have the same features with those from the upper cultural layer of Trà Kiệu Citadel; the date of the construction of Lồi Citadel might be after the fourth century AD.
58
6
PERCEPTION OF MARINE ARCHAEOLOGY IN BÌNH ĐỊNH AND PHÚ YÊN
Bùi Văn Liêm, Bùi Văn Hiếu
Bình Định and Phú Yên have great potentials for underwater archeology in particular and marine archaeology in general. The system of rivers and canals in these two provinces are fairly   dense; along the sea coast, there are pools and estuaries facilitating boats and ships and also located in the maritime trade routes of the region with the famous trade ports in history. There are enough relics forms of marine archeology as ancient trade ports (Thị Nại, Nước mặn, Quy Nhơn, Vũng Lấm), sunken ships (Hà Ra), and shipyards. The found artifacts associated with marine archaeology in these areas include ceramics/porcelain/stoneware, metal and wooden objects, etc.
These days, due to the life demands and the development of the local economy, this source of cultural heritage is being gradually vandalized. Therefore, the definition and systematic research on the underwater archaeological sites, the flooded sites and the historical association with the mainland sites in these areas are very urgent and vital.
 
 
71
 
RECENT RESEARCH OF MARIN ARCHAEOLOGY IN VÂN ĐỒN
Bùi Văn Hiếu
In the recent years, there have been initial studies with the application of underwater archaeological methods such as the use of snookers, remote sensing, and underwater dives in Vân Đồn area. Apart from that, there have been investigations at 17 sites in the three communes of Quan Lạn, Minh Châu and Thắng Lợi, concentrating on the research at the Mang Thúng and Cống Cái sites. With their geographical locations, Mang Thúng and Cống Cái possibly play a fairly important role in the system of the old trade ports in Vân Đồn. In addition, Sơn Hào is an ideal site for the research into an ancient village that is closely associated with Vân Đồn trade ports.
Nowadays, at most of the investigated sites, there are still many potsherds of various forms such as bowls, plates, vases, jars, pots, bottle, and so on, which are originally from Việt Nam and China, with the dates from various historical periods, from the first, second centuries AD to the nineteenth – twentieth centuries.
Based on the resent study results, we can confirm that during seven centuries Vân Đồn trade ports were formed and developed in a large space including the system of harbors and the commercial interaction occurred at many sites. The more surveys and research in this area will somehow solve the problems of where the centre of Vân Đồn trade ports might have been and its changes through the periods.
88
 
TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ
61- Phan chu trinh - Hà Nội
Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607
Email: tapchikhaoco@gmail.com
 
 
Ngày 07/12/2016 Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt Đề án “Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa”, cơ quan chủ trì thực hiện là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS). Triển khai thực hiện Đề án, ngày 10 và 11/01/2017, tại Hội trường UBND tỉnh An Giang đã diễn ra cuộc Toạ đàm khởi động Đề án “Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (Văn hoá Óc Eo Nam Bộ)” do VASS phối hợp với UBND tỉnh An Giang và Kiên Giang tổ chức. Tham dự toạ đàm có Lãnh đạo VASS (GS.TS Nguyễn Quang Thuấn - Chủ tịch VASS, Chủ nhiệm Đề án, PGS.TS Bùi Nhật Quang - Phó Chủ tịch VASS, Phó Chủ nhiệm Đề án); Ông Nguyễn Thanh Bình – Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, đại diện tỉnh Kiên Giang; Đại diện các cơ quan thực hiện đề án (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Viện Khảo cổ học, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành); Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Khảo cổ học Việt Nam và các nhà nghiên cứu hàng đầu về văn hoá Óc Eo,...
 
Phát biểu khai mạc toạ đàm GS.TS Nguyễn Quang Thuấn đánh giá Đề án có ý nghĩa chính trị rất lớn, tầm quan trọng đặc biệt thể hiện rất rõ tính cấp thiết và mục đích của đề án. Đề án được hình thành từ năm 2012, quá trình xây dựng rất công phu, bài bản, cẩn trọng và khoa học với sự tham của các nhà khoa học đầu ngành trong cả nước và sự tham gia của nhiều Bộ, Ngành thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với Đề án.
Các đại biểu tham dự toạ đàm đều khẳng định, Đề án thể hiện ý nghĩa chính trị rất lớn, là nguyện vọng, ước mong và sự quan tâm đặc biệt từ rất lâu của các nhà khoa học trong cả nước, nhất là của nhân dân trong những khu vực có di tích. Đồng thời đánh giá cao các mục tiêu tổng quát và cụ thể của Đề án, đó là: khai quật, nghiên cứu khảo cổ học, đánh giá giá trị khoa học nhằm cung cấp các luận cứ phục vụ cho việc xây dựng Hồ sơ Quốc gia trình UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới.
Để triển khai thực hiện Đề án có hiệu quả, các đại biểu đã đặt ra một số vấn đề trong quá trình thực hiện đề án như: Đề án triển khai trên một địa bàn rộng lớn, xa các trung tâm nghiên cứu khoa học đầu ngành nên rất khó khăn cho việc huy động nhân lực và vật lực lớn; Công tác giải phóng mặt bằng cần phải được tiến hành khẩn trương để có được mặt bằng sạch phục vụ khai quật, nghiên cứu; Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích và di vật xuất lộ trong quá trình khai quật phải được tiến hành khoa học, đáp ứng các tiêu chuẩn hồ sơ của UNESCO. Đặc biệt, Đề án nên nghiên cứu kỹ nhằm xác định vùng lõi của di sản và việc kết nối giữa các khu vực của Di sản, qua đó tập trung nghiên cứu, đánh giá giá trị nổi bật của di sản.
Giải đáp những khó khăn đặt ra, Lãnh đạo VASS khẳng định sẽ huy động các nhà khoa học, các chuyên gia khảo cổ học hàng đầu, có nhiều kinh nghiệm tham gia thực hiện Đề án, trong quá trình triển khai sẽ mời các nhà khoa học quốc tế cùng tham gia đánh giá giá trị của di sản. Đồng thời Lãnh đạo UBND tỉnh An Giang và Kiên Giang đã phát biểu, cam kết đồng hành cùng các nhà khoa học, ủng hộ và hỗ trợ tối đa trong quá trình triển khai thực hiện Đề án.
Đề án “Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (Văn hoá Óc Eo Nam Bộ)” sẽ tiến hành khai quật, nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn 2 tỉnh An Giang và Kiến Giang, với diện tích khoảng 20.000m2, được thực hiện từ năm 2017 đến 2019.
 
Phạm Văn Triệu

Chiều 9/1 tại Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế đã diễn ra buổi báo cáo kết quả thăm dò khảo cổ tại gò Dương Xuân (phường Trường An, TP Huế) liên quan đến dấu tích triều đại Tây Sơn/Quang Trung.

Đông đảo các nhà nghiên cứu, báo chí đã đến tham dự. PGS.TS. Bùi Văn Liêm, Phó Viện trưởng Viện Khảo cổ học đã thay mặt đoàn thám sát khảo cổ gò Dương Xuân (thời gian 15 ngày đầu tháng 10/2016) báo cáo kết quả ban đầu ở 5 hố khảo sát.

Buổi báo cáo kết quả thăm dò khảo cổ quan trọng tại gò Dương Xuân (phường Trường An, TP Huế) liên quan đến dấu tích triều đại Tây Sơn/Quang Trung.
Buổi báo cáo kết quả thăm dò khảo cổ gò Dương Xuân (phường Trường An, TP Huế)

Về dấu hiệu các di tích, đáng chú ý về vết tích mộ táng. Đoàn đã phát hiện 3 cụm di tích có thể liên quan đến mộ hỏa táng. Riêng tại hố thăm dò số 4 trong sân chùa Thuyền Lâm xuất lộ chum sành vỡ, bên ngoài có đường biên hố. Có khả năng đây là một ngôi mộ đất có quan tài là chum sành bị vỡ.

Ở dấu tích nền/móng cát, sỏi. Trong 4 hố thăm dò đã phát hiện cụm cát vàng, tơi xốp, lẫn sỏi nhỏ, dày từ 5-7cm, rất khó để có thể nói về công năng của lớp cát này. Mảng/nền cát sỏi này có thể liên quan nền/móng của kiến trúc hoặc lớp rải tạo mặt bằng kê chân đá tảng/táng, là chân cột trong kiến trúc.

Cụm cát vàng, tơi xốp, lẫn sỏi nhỏ ở hố số 3
Cụm cát vàng, tơi xốp, lẫn sỏi nhỏ ở hố số 3

Đặc biệt có kiến trúc đá ở hố thám sát thứ 5 với chiều rộng 5,5m theo chiều Đông Tây dày chừng 0,6m, các lớp đá còn lại được xếp chỗ 2 lớp, chỗ 3 lớp, mỗi viên đá kích thước trung bình 35cm x 25cm x 22cm. Đoàn đã tìm thấy 2 điểm bắt góc phía Tây và Đông, có hiện tượng dật cấp của kiến trúc đá 10cm. Từ quy mô bước đầu trên nhận định lớp đá có thể liên quan đến kiến trúc lớn, rất có thể là móng tường, móng thành mà phần trên đã bị các hoạt động của cư dân hiện đại xâm lấn.

Dấu vết nền đá lớn và kéo dài - một trong những phát hiện quan trọng đợt thám sát khảo cổ - nghi dấu vết là móng tường, móng thành
Dấu vết nền đá lớn và kéo dài nghi dấu vết là móng tường, móng thành

Về dấu hiệu di vật, đoàn khảo cổ đã tìm được rất nhiều di vật với các thể loại khác nhau, như 2 hiện vật tiền đồng, 4 đồ sắt như câu liêm, 337 hiện vật và mảnh gốm sứ, 471 mảnh sành, 4 hiện vật đất nung, 930 hiện vật và mảnh gạch ngói, 22 mảnh thủy tinh, 6 mảnh vôi vữa, 4 mảnh xương, 1 mảnh vỏ sò.

Về niên đại, dựa vào tổng thể di tích, tư liệu địa tầng, các mảnh sứ có ghi niên đại thời Khang Hy nhà Thanh, thời Nhật Bản…, các mảnh sành, gạch ngói thì bước đầu có thể đoán định niên đại di tích gò Dương Xuân tập trung từ thế kỷ 17 đến 19, kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Đây là thời chúa Nguyễn kéo qua thời Tây Sơn/Quang Trung và thời vua Nguyễn trị vì tại Huế.

Chiếc bát sứ gần như nguyên vẹn tìm được ở hố số 2 trước sân chùa Vạn Phước có vẽ hình chữ Nhật ở trong thuộc Nhật Bản, thời gian khoảng nửa sau thế kỷ 17
Bát gốm men Nhật Bản, niên đại nửa sau thế kỷ 17
Hiện vật kim loại: tiền đồng và 4 đồ sắt như cây câu liêm
Hiện vật kim loại: tiền đồng và 4 đồ sắt như cây câu liêm

PGS.TS. Đỗ Bang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế cũng nêu quan điểm: “Tại 5 hố khảo sát khảo cổ đều có dấu hiệu liên quan từ thời chúa Nguyễn đến Tây Sơn, đây là điều đáng mừng. Nhiều di vật gạch, gốm, ngói, sứ với cho thấy khu vực này là một trung tâm giao lưu thương mại của thế giới thời bấy giờ, làm ta liên hệ đến 1 kinh đô, thủ phủ”.

“Đợt thăm dò khảo cổ ở gò Dương Xuân đã cung cấp thêm những tư liệu về khảo cổ học, sử học, văn bản học… về thời kỳ Tây Sơn, liên quan đến những vấn đề thành quách, cung điện nhằm phát hiện, nghiên cứu bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa của dân tộc. Từ đó góp thêm chứng cứ khoa học phục vụ cho lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép tổ chức thăm dò, khai quật khảo cổ học trong thời gian tới” – PGS.TS. Bùi Văn Liêm cho hay.

Hơn 1.000 hiện vật, mảnh của nhiều vật liệu được tìm thấy ở 5 hố thám sát khảo cổ tìm vết tích triều Tây Sơn/Quang Trung tại Gò Dương Xuân - TP Huế
Hơn 1.000 hiện vật, mảnh của nhiều vật liệu được tìm thấy ở 5 hố thám sát khảo cổ tìm vết tích triều Tây Sơn/Quang Trung tại Gò Dương Xuân - TP Huế

Viện Khảo cổ học Việt Nam kiến nghị thời gian tới sẽ phân tích mẫu cacbon phóng xạ (14C), kết hợp niên đại tuyệt đối (khoa học tự nhiên) với niên đại qua địa tầng di tích và các di vật đã phát hiện để đưa ra nhận định cụ thể về niên đại ở gò Dương Xuân. Bên cạnh đó sẽ mở rộng diện thăm dò, khai quật tại một số hố; khuyến nghị sử dụng phương pháp Lidar (công nghệ viễn thám dùng các loại tia laser để khảo sát đối tượng từ trên cao, thu thập các điểm phản xạ 3 chiều) để nghiên cứu toàn bộ khu vực.

Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam kết thúc buổi báo cáo đã kết luận, khu vực chùa Thuyền Lâm ở gò Dương Xuân xuất hiện thời Tây Sơn. Tỉnh Thừa Thiên Huế, Viện Khảo cổ học và các nhà tài trợ cần tiến hành thêm một đợt khảo cổ toàn diện ở gò Dương Xuân. Nên mở rộng hố số 5 - nơi có dấu vết nền đá lớn và mở 2 cánh thăm dò ở phía Tây, Bắc chùa Vạn Phước… để làm rõ vết tích thời Tây Sơn.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, người đặt giả thiết gò Dương Xuân từng là nơi đóng đô của chúa Nguyễn, sau đó đến thời Tây Sơn với cung điện Đan Dương của vua Quang Trung. Cung điện này cũng có thể là nơi chôn nhà vua sau khi băng hà - đã xúc động cảm ơn mọi người đã cùng sát cánh với ông sau 36 năm. “Ít nhất những dấu vết của một vùng cung điện đã bắt đầu xuất hiện. Giờ tôi đã hơn 80 tuổi, sức đã yếu rồi, nếu có chuyện gì cũng yên lòng”. Chính từ luận cứ của ông Xuân và nhiều công trình nghiên cứu của ông mà đã có cuộc thám sát khảo cổ tháng 10 vừa qua sau nhiều tranh cãi dấu vết của vương triều Tây Sơn và lăng mộ vua Quang Trung tại Huế.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân (đứng) mất 36 năm để theo đuổi luận điểm gò Dương Xuân từng là thủ phủ của vua Quang Trung - gửi lời cảm ơn đến mọi người
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân (đứng) gửi lời cảm ơn đến mọi người
 

Khu vực gò Dương Xuân hiện nay là khu dân cư phường Trường An, TP Huế. Những tư liệu lịch sử và một số nghiên cứu cho rằng tại đây năm 1691, chúa Nguyễn Phúc Chu từng cho xây dựng Phủ Dương Xuân. Phủ này còn được đầu tư xây lớn thêm vào năm 1740 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Đến khoảng năm 1789, vua Quang Trung cho dựng cung điện Đan Dương…

Ở gò Dương Xuân hiện còn có các di tích như chùa Vạn Phước, chùa Thuyền Lâm, bia mộ tổ đời thứ hai chùa Thuyền Lâm, cồn Bông Sứ, hồ bán nguyệt, giếng nước cổ (giếng loạn), bia đá, thanh đá, chân đá tảng, gạch, ngói, mảnh sành sứ dưới lòng đất tại chùa Thuyền Lâm, sân – vườn nhà ông Nguyễn Hữu Oánh…

Sơ đồ Phủ Dương Xuân (ảnh do Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cung cấp)
Sơ đồ Phủ Dương Xuân (ảnh do Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cung cấp)

Ngày 19/9/2016, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp quyết định số 3292/QĐ-BVHTTDL cho phép Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế phối hợp với Viện Khảo cổ học thăm dò khảo cổ tại gò Dương Xuân với mục tiêu: “Nhằm nghiên cứu, tìm hiểu về giai đoạn lịch sử Tây Sơn – Nguyễn Huệ, từ đó góp phần bảo vệ di sản văn hóa dân tộc. Đồng thời thu thập các tư liệu, hiện vật có nguồn gốc từ di tích này phục vụ cho việc phát huy giá trị, lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nếu đủ điều kiện và tiến hành tổ chức khai quật khảo cổ học trong những năm tiếp theo”.

 

Đại Dương (Dantri.com)

Phong tục chôn người chết trong bình gốm của người Ai Cập cổ đại tượng trưng cho sự tái sinh ở thế giới bên kia.

Nhiều quốc gia trên thế giới trong thời cổ đại, bao gồm Ai Cập, chôn xác chết của người thân trong bình gốm hoặc bình đựng hài cốt, theo Ancient Origins. Giới khoa học trước đây cho rằng việc chôn cất trong bình gốm chủ yếu được dùng cho đối tượng người dân nghèo, đặc biệt là trẻ em, nhưng một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Antiquity tháng 12/2016 cho thấy nhận định trên là không chính xác.

Người Ai Cập cổ đại chôn xác chết của người thân trong bình gốm.
Người Ai Cập cổ đại chôn xác chết của người thân trong bình gốm. (Ảnh: Ancient Origin).

Ronika Power, nhà khảo cổ sinh học, và Yann Tristant, nhà Ai Cập học, tại Đại học Macquarie, Australia, xem xét những ngôi mộ bình gốm tại 46 địa điểm khảo cổ gần sông Nile. Chúng có niên đại từ năm 3300 trước Công nguyên đến năm 1650 trước Công nguyên. Các bình gốm được đập vỡ hoặc cắt một cách cẩn thận để đặt vừa cơ thể người chết.

Kết quả cho thấy, hơn một nửa số địa điểm khảo cổ chứa hài cốt của người trưởng thành. Các bình đựng hài cốt trẻ em không phổ biến như nhận định trước đây. Trong số 476 hài cốt trẻ em, trẻ sơ sinh và bào thai, có 338 người được chôn trong quan tài bằng gỗ và 329 người được chôn trong bình gốm. Đa số trẻ em còn lại nằm trong giỏ hoặc đồ đựng làm bằng vật liệu lau sậy hoặc đá vôi.

Các nhà khoa học cũng tìm thấy bằng chứng của sự giàu có trong nhiều ngôi mộ. Một số bình gốm đựng hài cốt chứa vàng, trang sức, ngà voi, chuỗi hạt làm từ vỏ trứng đà điểu và quần áo.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, người Ai Cập cổ đại cố ý chọn lựa bình gốm để chôn cất người thân vì nó tượng trưng cho tử cung của người mẹ, mang hình ảnh biểu tượng cho sự tái sinh vào thế giới bên kia.

Theo khoahoc.tv

Sáng ngày 5/1/2017, tại Hội trường sông Hoài, Thành phố Hội An, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã chỉ đạo Viện Khảo cổ học và UBND Thành phố Hội An tổ chức Hội thảo khoa học Quốc tế “Bảo tồn sản văn hóa dưới nước vì lợi ích cộng đồng: Sự chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia” trong hai ngày 5 và 6/1/2017
Tham dự và chỉ đạo hội thảo có các đồng chí lãnh đạo của VASS: GS.TS Nguyễn Quang Thuấn (Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), GS.TS Phạm Văn Đức (Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam); Lãnh đạo tỉnh Quảng Nam: Đồng chí Nguyễn Ngọc Quang (Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Nam); Chuẩn Đô đốc, Thiếu tướng Đỗ Minh Thái, Phó tổng tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; Lãnh đạo Viện Khảo cổ học có PGS.TS. Nguyễn Giang Hải, Viện trưởng Viện Khảo cổ học; PGS.TS. Bùi Văn Liêm, Phó Viện trưởng.  Đại diện Uỷ ban UNESCO Việt Nam. Hội thảo có sự tham gia của gần 20 nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về khảo cổ học dưới nước đến từ các quốc gia: Đài Loan, Hàn Quốc, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Phi-líp-pin, Thái Lan; Và hơn 30 nhà khoa học của Việt Nam đến từ cơ quan nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam: Viện Khảo cổ học, Trường Đại học KHXH&NV (Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện KHXH vùng Trung Bộ, và các nhà nghiên cứu đến từ các cơ quan, trung tâm nghiên cứu, các nhà quản lý của tỉnh Quảng Nam, của thành phố Hội An.
phat_bieu_khai_mac_cua_gs.ts._nguyen_quang_thuan_-_chu_tich_vien_hlkhxhvn.jpg
GS.TS Nguyễn Quang Thuấn (Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) phát biểu khai mạc Hội thảo
Với 12 tham luận được lựa chọn trình bày, Hội thảo sẽ tập trung vào 2 nội dung quan trọng: Bài học cho công tác quản lý và bảo vệ di sản văn hoá dưới nước và Bảo tồn sản văn hoá dưới nước: các vấn đề kỹ thuật và phương pháp. Các tham luận sẽ đem đến những cơ hội để các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý di sản cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm trong công tác quản lý, bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, từ đó tiếp tục đóng góp các luận cứ khoa học hoàn thiện các chính sách trong việc bảo tồn và phát huy giá trị đi sản văn hoá dưới nước vì lợi ích của cộng đồng.
bao_cao_de_dan_cua_vien_truong_vien_kch.jpg
PGS.TS Nguyễn Giang Hải (Viện trưởng Viện Khảo cổ học) báo cáo đề dẫn
toan_canh_hoi_thao.jpg
Toàn cảnh hội thảo
di_tich.jpg
Ngày 6/1/2017, các đại biểu tiến hành thăm quan khu di sản văn hóa thế giới Thánh địa Mỹ Sơn
                                                                                Văn Triệu - Thu Hiền

Ngôi làng cung cấp một "cái nhìn chân thật" về một thế giới đã không còn, theo các nhà khảo cổ.

Họ đã rất kinh ngạc với những gì mình tìm thấy. Các nhà khoa học mô tả họ đã tìm thấy những "đồ gốm thực sự tuyệt vời", "đồ dệt may thật sự khác biệt", đây quả là "địa điểm thực sự đáng kinh ngạc" và "cuộc khai quật của cuộc đời", CNN đưa tin.

Các nhà khảo cổ học người Anh vừa phát hiện một khu định cư từ thời đại đồ đồng ở Cambridgeshire Fens.
Các nhà khảo cổ học người Anh vừa phát hiện một khu định cư từ thời đại đồ đồng ở Cambridgeshire Fens.

Trong 10 tháng khai quật miệt mài, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một ngôi làng thịnh vượng đáng kinh ngạc. Tại đây, họ thấy đồ gốm, đồ dệt may, công cụ kim loại và gỗ cổ.

Đây là "cuộc khai quật của cuộc đời", theo các nhà khoa học.
Đây là "cuộc khai quật của cuộc đời", theo các nhà khoa học.

Theo người quản lý địa điểm khai quật, ông Mark Knight, cuộc khai quật cung cấp một "cái nhìn chân thật" về một thế giới đã không còn, một khu định cư thời tiền sử khoảng 3.000 năm trước thuộc thời kỳ đồ đồng.

Một lều trại hình chữ nhật khổng lồ, rộng khoảng 1.000m vuông, đã được dựng lên để tiện cho quá trình khai quật.

Các nhà khảo cổ bắt đầu công việc của họ ở đây từ tháng 9 năm ngoái. Nhờ có lều trại, họ được bảo vệ khỏi mưa gió. Do đó, họ đã đào sâu vài mét so với mực nước biển.

Trong 10 tháng khai quật miệt mài, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một ngôi làng thịnh vượng đáng kinh ngạc.
Trong 10 tháng khai quật miệt mài, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một ngôi làng thịnh vượng đáng kinh ngạc.

Khu vực này lần đầu được chú ý vào năm 1999 khi một loạt cọc gỗ cắm vào đất sét. Sau đó, cuộc khai quật thử nhiệm bắt đầu được tiến hành từ năm 2004. Đến năm 2006, một thanh kiếm và một mũi giáo của thời kỳ đồ đồng đã được tìm thấy.

Theo các nhà khảo cổ học, ngôi làng đã trải qua một vụ cháy lớn khoảng 3.000 năm trước. Do đó, ngôi làng sụp đổ và trôi xuống con sông gần đó. Mọi thứ bị tro bụi bám dày đặc, chìm dần xuống phù sa. Điều này đã giúp các dụng cụ được bảo quản tốt cho đến tận ngày nay.

Một trong những vật dụng được tìm thấy ở ngôi làng thời tiền sử.
Một trong những vật dụng được tìm thấy ở ngôi làng thời tiền sử.

Theo các nhà khảo cổ học, ngôi làng đã trải qua một vụ cháy lớn khoảng 3.000 năm trước.
Theo các nhà khảo cổ học, ngôi làng đã trải qua một vụ cháy lớn khoảng 3.000 năm trước.

Do đó, ngôi làng sụp đổ và trôi xuống con sông gần đó. Mọi thứ bị tro bụi bám dày đặc, chìm dần xuống phù sa.
Do đó, ngôi làng sụp đổ và trôi xuống con sông gần đó. Mọi thứ bị tro bụi bám dày đặc, chìm dần xuống phù sa.

Điều này đã giúp các dụng cụ được bảo quản tốt cho đến tận ngày nay.
Điều này đã giúp các dụng cụ được bảo quản tốt cho đến tận ngày nay.

Theo Dân Việt

Qua các hố khai quật, các nhà khảo cổ thu nhiều tư liệu quý về di tích, di vật… đặc biệt họ còn phát hiện có 2 tầng lớp văn hóa: Sa Huỳnh muộn ở dưới và lớp văn hóa Champa ở trên.

Nhiều phát hiện mới tại di tích thành Cha (thị xã An Nhơn, Bình Định)
Nhiều phát hiện mới tại di tích thành Cha (thị xã An Nhơn, Bình Định)

Mới đây, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khảo cổ học di tích thành Cha (thôn An Thành, xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn, Bình Định) lần thứ hai, được tiến hành vào cuối năm 2016.

Theo đó, Đoàn khai quật đã mở 3 hố khai quật và 1 hố thám sát trên vòng thành Ngoại phía Bắc và khu vực gò đất trung tâm thành Nội (gò ông Tỵ). Kết quả thu được nhiều tư liệu về di tích, di vật, góp phần hiểu sâu sắc thêm quá trình hình thành, phát triển thành Cha nói riêng và văn hóa Champa ở Bình Định nói chung.

Qua kết quả các hố khai quật trên gò ông Tỵ cho thấy địa tầng khu di tích có 2 lớp văn hóa: Sa Huỳnh muộn ở dưới và lớp văn hóa Champa ở trên. Lớp văn hóa Champa, được chia thành 2 lớp nhỏ: bên dưới là lớp cư trú với hệ thống chôn cột kiểu kiến trúc nhà sàn, sâu xuống lớp văn hóa Sa Huỳnh. Bên dưới là lớp kiến trúc xếp tầng lên nhau với niên đại kéo dài trên 10 thế kỷ, từ thế kỷ IV - XV (1471), trải qua các thời kỳ Châu Vijaya cho đến nhà nước Vijaya.

Nhiều hiện vật qua trọng thu được trong quá trình khai quật
Nhiều hiện vật qua trọng thu được trong quá trình khai quật

Qua địa tầng các hố khai quật cho thấy gò ông Tỵ là gò nhân tạo, được hình thành trong quá trình xây dựng các kiến trúc Champa ở đây. Đặc biệt hơn là, trước khi khu vực này được người Chăm chọn để xây dựng các công trình kiến trúc, đã có lớp cư dân Champa cư trú từ trước đó.

Phát hiện được hệ thống kiến trúc gạch Champa, có niên đại thế kỉ IX-X và thế kỉ XI-XII. Lần đầu tiên nhận biết được cấu trúc các lớp đất đắp thành các giai đoạn: giai đoạn thành thuộc Châu Vijaya và giai đoạn thành Vương quốc Vijaya khi chuyển đô từ Quảng Nam vào Bình Định. Một phát hiện quan trọng khác là di tích kiến trúc lợp ngói, gồm có 3 loại ngói đặc biệt lần đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam và các tượng mặt hề, mặt sư tử với nhiều cách thể hiện khác nhau; phát hiện kiến trúc với các vật liệu xây dựng (gạch, ngói) và trang trí kiến trúc mang phong cách Khơme,… có niên đại thế kỷ XI-XIII.


Những mảnh gốm Champa chứng minh người Chăm đã sinh sống ở Bình Định

Những mảnh gốm Champa chứng minh người Chăm đã sinh sống ở Bình Định

Một con tiện bằng đất nung dùng để trang trí trên mái nhà
Một con tiện bằng đất nung dùng để trang trí trên mái nhà
Nhiều mặt hề, mặt sư tử rất độc đáo lần đầu tiên được phát hiện ở Bình Định
Nhiều mặt hề, mặt sư tử rất độc đáo lần đầu tiên được phát hiện ở Bình Định

Doãn Công (http://dantri.com.vn)

Chiều 04/01, Bảo tàng lịch sử Quốc gia phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh và Trường Đại học Đông Á Nhật Bản tổ chức Hội nghị báo cáo kết quả khai quật di tích lịch sử thành cổ Luy Lâu lần thứ 3 năm 2016. Dự Hội nghị có các Giáo sư, Nhà nghiên cứu lịch sử, đại diện lãnh đạo Bảo tàng lịch sử Quốc gia, Trường Đại học Đông Á.
Báo cáo kết quả khai quật di tích thành cổ Luy Lâu đã cho thấy, thành cổ Luy Lâu là một dạng di tích phức hợp, tầng văn hóa dầy, chứa đựng nhiều loại hình di tích như, kiến trúc, cư trú, công xưởng và mộ táng. Dựa vào hàng trăm hiện vật khai quật được như gạch, ngói, bát, đĩa, chum, lọ với nhiều kích thước, mẫu mã … cho thấy thành cổ Luy Lâu được xây dựng kéo dài qua các giai đoạn thời Tây Hán, Đông Hán, Lục Triều và Tùy Đường từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên. Kết quả khai quật lần thứ 3 đã bước đầu định hình được vị trí và quy mô của tường thành Nội trên cơ sở tiếp nối của 2 lần khai quật trước, tuy dấu tích chưa thực sự rõ ràng nhưng đã xác định được dấu viết ngoại hào của thành Nội có độ rộng từ 6-13m, sâu từ 1,4-1,8m. Kết quả khai quật lần thứ 3 đã góp phần làm sáng tỏ các vấn đề còn tồn nghi của 2 lần trước, từng bước khôi phục lại được diện mạo của thành cổ Luy Lâu xưa, cho thấy Luy Lâu là một trung tâm chính trị, văn hóa lớn, tiêu biểu trong nghiên cứu lịch sử giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên tại Việt Nam.
Theo bacninhtv.vn
Văn sách thi đình Thăng Long - Hà Nội là một đầu sách thuộc mảng sách Tư liệu tổng hợp trong Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến được xuất bản vào dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2010).
Cuốn sách tuyển dịch 24 văn bài của các sĩ tử Thăng Long - Hà Nội từ thời Lê sơ qua thời Mạc, thời Lê Trung Hưng tới thời Nguyễn.
Tập 2 này giới thiệu từ bài số 8 đến bài số 24:

Bài số 8 và 9: Khoa thi Tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ ba (1822)
Bài số 10 và 11: Khoa thi Tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ bảy (1826)
Bài số 12: Khoa thi Tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ mười (1829)
Bài số 13: Khoa thi Tiến sĩ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841)
Bài số 14: Khoa thi Tiến sĩ năm Thiệu Trị thứ hai (1842)
Bài số 15 Khoa thi Tiến sĩ năm Thiệu Trị thứ tư (1844)
Bài số 16: Khoa thi Tiến sĩ năm Tự Đức thứ tư (1851).
Bài số 17: Khoa thi Tiến sĩ năm Tự Đức thứ mười tám (1865)
Bài số 18: Khoa thi Tiến sĩ năm Tự Đức thứ hai mươi mốt (1868).
Bài số 19: Khoa thi Tiến sĩ năm Tự Đức thứ Hai mươi bốn (1871)
Bài số 20: Khoa thi Tiến sĩ năm Tự Đức thứ ba mươi ba (1880)
Bài số 21: Khoa thi Tiến sĩ năm Tự Đức thứ ba mươi ba (1880)
Bài số 22. Khoa thi Tiến sĩ năm Thành Thái thứ nhất (1889)
Bài số 23 và 24 Khoa thi Tiến sĩ năm Thành Thái thứ tư (1892)
  
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Văn sách thi đình Thăng Long - Hà Nội là một đầu sách thuộc mảng sách Tư liệu tổng hợp trong Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến được xuất bản vào dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2010).

Tập sách giới thiệu với bạn đọc về những bài văn sách thi Đình hiện còn của các sĩ tử người Hà thành. Họ đã tham gia kỳ thi Đình - kỳ thi cuối cùng và cao nhất của khoa thi Tiến sĩ. Kỳ thi này do Hoàng đế trực tiếp chủ trì và được tổ chức tại sân điện Hoàng đế. Bài thi là bài văn sách - một thể văn nghị luận chính trị xã hội có quy cách quốc gia. Nội dung sách vấn thường hỏi về những vấn đề có quy mô quốc gia đại sự. Cho nên Đối sách - bài thi của các sĩ tử vừa phải vận dụng kinh sách vừa phải có hiểu biết về thực tế để chứng minh và luận giải thì mới đáp ứng được yêu cầu của một kỳ đại Đình.

Cuốn sách tuyển dịch 24 văn bài của các sĩ tử Thăng Long - Hà Nội từ thời Lê sơ qua thời Mạc, thời Lê Trung Hưng tới thời Nguyễn trong số khoảng trên 100 bài văn sách thi Đình còn lại của khoa cử Việt Nam mà nhóm tuyển chọn sưu tầm. Tập 1 giới thiệu 7 bài đầu tiên.

Cuốn sách giới thiệu nguyên bản chứ Hán của các bản sao chép bài thi còn lưu trữ được, bản phiên âm Hán Việt, phần dịch nghĩa và chú thích những bài văn này nhằm giúp độc giả có thêm điều kiện tiếp nhận văn bản được tốt hơn. Đồng thời, tập sách cung cấp một dẫn nhập về khoa cử Việt Nam, trong đó tập trung giới thiệu về văn sách thi Đình từ quy thức, thể loại đến giá trị nội dung và bút tháp.

Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả!
Ngô Thị Nhung

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9594571
Số người đang online: 32