- Cuộc thi nhằm mục đích lựa chọn một biểu trưng phù hợp nhất thể hiện bề dày truyền thống, vị trí, vai trò, chức năng của Viện Khảo cổ học.
- Biểu trưng được chọn sẽ được sử dụng chính thức trong mọi hoạt động của Viện Khảo cổ học
2. Đối tượng dự thi:
- Mọi công dân Việt Nam, tổ chức trong nước và người nước ngoài tại Việt Nam đều được phép dự thi.
3. Tiêu chí đánh giá
- Biểu trưng phải có tính khái quát cao về chức năng, nhiệm vụ của Viện Khảo cổ học.
- Biểu trưng thể hiện sự sáng tạo, tính thẩm mỹ, ấn tượng về khảo cổ học.
- Thuận tiện cho việc in ấn, phóng to, thu nhỏ, gia công, gắn trên trang thông tin điện tử.
4. Quy định về hồ sơ dự thi
- Biểu trưng dự thi là bản in trên giấy nền trắng, khổ A4. Biểu trưng in màu đặt giữa trang giấy (kích thước lớn nhất không quá 15cm). Một bản thu nhỏ biểu trưng in đen trắng được đặt ở góc dưới bên phải của mẫu lớn (có kích thước lớn nhất không quá 3cm).
- Mỗi tác phẩm phải kèm theo Thông tin về tác giả/nhóm tác giả gồm họ và tên, ngày tháng năm sinh, số chứng minh thư nhân dân, địa chỉ, email, số điện thoại liên hệ; và Bản thuyết minh về ý tưởng mẫu biểu trưng với nội dung ngắn gọn không quá 300 từ đánh máy in trên giấy khổ A4.
- Tác giả của mẫu thiết kế được chọn vào vòng chung khảo có trách nhiệm nộp bổ sung file mềm và chỉnh sửa mẫu được chọn cho phù hợp theo yêu cầu của Viện Khảo cổ học. Các tác giả phải gửi đĩa CD chứa file Thông tin-thuyết minh (định dạng .doc hoặc .pdf) và file thiết kế biểu trưng bằng phần mềm đồ họa vector (định dạng crd, Ai) kèm theo hồ sơ, hoặc gửi vào địa chỉ email với xác nhận đã nhận của Ban tổ chức.
5. Giải thưởng cuộc thi
- Ban Giám khảo do Viện Khảo cổ thành lập sẽ chấm sơ khảo các mẫu thiết kế và chọn 3 tác phẩm dự thi xuất sắc nhất vào vòng chung khảo (các tác phẩm dự thi được chọn có thể được chỉnh sửa theo yêu cầu của Viện Khảo cổ học). Cơ cấu giải thưởng của cuộc thi gồm 3 giải, trong đó:
01 giải Nhất, trị giá: 20.000.000đ;
01 giải Nhì, trị giá: 8.000.000đ;
01 giải khuyến khích, trị giá: 2.000.000đ.
6. Địa chỉ, thời gian gửi bài dự thi:
- Địa điểm nhận bài dự thi: Viện Khảo cổ học, 61 Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đầu mối liên hệ: Nguyễn Thị Lan Hương, Phòng Thông tin Thư viện, số điện thoại: 097 624 9701, email: congdoankch@gmail.com
- Thời hạn gửi bài dự thi: từ ngày ra thông báo đến 16h00 ngày 31/8/2017 (nộp trực tiếp hoặc tính theo dấu bưu điện).
- Thời gian công bố kết quả và trao giải thưởng dự kiến: tháng 9/2017 (sẽ liên lạc trực tiếp với các tác giả và thông báo trên website của Viện Khảo cổ học).
7. Trách nhiệm của người dự thi
Cá nhân, tổ chức tham gia thiết kế biểu trưng chịu trách nhiệm và cam kết với Ban Tổ chức:
- Biểu trưng dự thi không tranh chấp bản quyền tác giả. Trong trường hợp việc tranh chấp bản quyền tác giả phát sinh sau khi tác phẩm dự thi đoạt giải, Ban Tổ chức thu hồi lại giải thưởng và người dự thi đó phải chịu bồi hoàn lại toàn bộ chi phí tổ chức kể cả giải thưởng của Hội thi; đồng thời chịu trách nhiệm theo qui định của pháp luật hiện hành.
- Biểu trưng dự thi chưa được sử dụng dưới mọi hình thức hoặc xuất hiện trên bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào ở trong và ngoài nước.
8. Quyền của Viện Khảo cổ học
- Được quyền sở hữu biểu trưng đạt giải và có quyền sử dụng biểu trưng đó vô thời hạn cũng như toàn quyền đăng ký sở hữu trí tuệ đối với biểu trưng đó theo mục đích của Viện Khảo cổ học.
- Được toàn quyền quyết định về tính hợp lệ của tất cả tác phẩm dự thi và về mẫu dự thi được trao giải thưởng.
- Không trả lại các tác phẩm dự thi và không chịu trách nhiệm nếu tác phẩm dự thi gửi tham gia cuộc thi mà Ban Tổ chức chưa nhận được.
Viện Khảo cổ học trân trọng Thông báo Thể lệ Cuộc thi và rất mong nhận được sự tham gia, hưởng ứng nhiệt tình của các tác giả./.
Năm xuất bản: 2014
Kích thước: 16x24cm
Số trang: 437
Trên cơ sở làm rõ vai trò, vị thế của thương cảng Vân Đồn, cuốn sách tập trung phân tích vai trò của chính quyền các cấp (trung ương, địa phương) trong nhận thức về vị trí và nguồn lợi biển, làm rõ các mối quan hệ quốc tế, xác lập bang giao trên biển cũng như tư duy và phương thức bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo. Cụ thể, chuyên khảo góp phần làm sáng tỏ chính sách của các triều đại từ Lý, Trần, lê sơ đến Mạc, Lê- Trịnh và cả triều đại Nguyễn với vùng biển đảo Đông Bắc nói chung, thương cảng Vân Đồn nói riêng. Việc thực hiện công trình nghiên cứu cũng trở nên có ý nghĩa khi Việt Nam đã và đang thực hiện hợp tác quốc tế, đẩy mạnh mối giao lưu với các quốc gia Đông Á đồng thời thực hiện kế hoạch xây dựng vùng biển đảo Đông Bắc thành một vùng kinh tế trọng điểm, hướng tới xây dựng Vân Đồn thành một "Đặc khu kinh tế", "Trung tâm luân chuyển hàng hóa" giữa hai khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
Công trình không chỉ cố gắng làm rõ quá trình hình thành, phát triển của thương cảng mà còn cố gắng đạt đến những nhận thức toàn diện, hệ thống về truyền thống khai thác biển, tư duy hướng biển của người Việt trước đây cũng như hiện nay qua trường hợp Vân Đồn - Quảng Ninh. Bên cạnh đó, cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ quá trình đấu tranh, xác lập chủ quyền trên biển cũng như chính sách của các triều đại quân chủ trong việc tổ chức hoạt động kinh tế đối ngoại, xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, không gian văn hóa gắn với việc bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nước.
Địa bạ là văn bản chính thức ghi chép về địa giới hành chính, diện tích và loại hình sở hữu của các loại ruộng đất của các làng, xã, được chính quyền đo đạc và xác nhận. Nó không chỉ cung cấp những thông tin đáng tin cậy về ruộng đất, tình hình sở hữu ruộng đất, nhân khẩu, thống kê các dòng họ, bộ máy hành chính quản lý cấp cơ sở: làng, ấp, phường, trại đến xã, tổng.
Địa giới hành chính của Hà Nội có sự thay đổi lớn qua các thời kỳ lịch sử. Đến thế kỷ XIX, tỉnh Hà Nội có phạm vi hành chính rất rộng và khối lượng địa bạ cũng rất nhiều. Chỉ tính riêng tỉnh thành Hà Nội (tức đất Kinh thành Thăng Long xưa bao gồm hai huyện Thọ xương, Vĩnh Thuận) số địa bạ hết sức phong phú.
Tập 1 của cuốn sách sẽ cung cấp những bản dịch, những bảng thống kê chi tiết, những con số cụ thể và những phân tích, đánh giá xác đáng về tình hình ruộng đất và quan hệ sở hữu ruộng đất tại các thôn, phường, trại.
Tập 2 của cuốn sách sẽ đưa ra những nghiên cứu chuyên đề như: Chế độ sở hữu ruộng đất và cơ cấu đô thị Hà Nội nửa đầu thế kỷ XIX; Hệ thống đơn vị hành chính và tổ chức quản lý Hà Nội; Cảnh quan và di tích lịch sử văn hóa Hà Nôi; Dấu tích thành lũy Thăng Long - Hà Nội sẽ được giới thiệu sau.
Xin trân trọng giới thiệu!
Hà Nội vốn là nơi tụ cư của dân tứ xứ mà dân gian thời Lê vẫn quen gọi là dân “tứ chiếng” (trại “tứ chính trấn”) khi tụ cư về đất kinh kỳ họ đã mang theo hành trang của mình cả những truyện dân gian của vùng quê gốc và lâu dần những nguồn truyện này cũng trở nên phổ biến trong cư dân Hà Nội. Sách giới thiệu một số truyện như Truyện sông Tô Lịch, Truyện thần chính khí Long Đỗ … của thể loại truyền thuyết, các truyện Hà Ô Lôi, Nàng Túy Tiêu, Chiếc giày thơm, Món nợ tình ở Thanh trì, Chàng tứ Uyên, nàng ca kỹ họ Nguyễn … của thể loại cổ tích, các truyện Trạng Lợn, Trạng Quỳnh, Ba Giai-Tú Xuất … của thể loại truyện cười.
So với các tập truyện dân gian về Hà Nội đã công bố trước đây, thì nhóm tác giả tuyển chọn lần này đã sưu tập được những truyện kể dân gian làm nổi bật bản sắc địa phương của Thăng Long - Hà Nội, không những thế về số lượng thì đây là tập truyện có dung lượng lớn và phong phú gấp bội so với các tập truyện dân gian Hà Nội đã xuất bản.
Công viên Địa chất Núi lửa Krông Nô tỉnh Đắk Nông có diện tích khoảng 2.000 km2, gồm diện tích các huyện Krông Nô, Cư Jút, Đắk Mil và một số xã lân cận thuộc các huyện Đắk Song và Đắk Glong. Nơi đây có hệ thống hang động núi lửa được phát hiện (năm 2007) có tính độc đáo và quy mô lớn nhất Đông Nam Á.
Tính đến năm 2016, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện trong khu vực Công viên Địa chất Núi lửa Krông Nô có nhiều điểm di chỉ khảo cổ, hầu hết phân bố trên các gò đồi, nương rẫy hoặc ven sông suối, mà chưa hề được phát hiện trong các hang động núi lửa.
Từ cuối tháng 12/2016 đến đầu tháng 1/2017, trong khuôn khổ thực hiện nhiệm vụ đột xuất của Dự án “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu vật Quốc gia về Thiên nhiên Việt Nam”, do Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì, các nhà nghiên cứu (gồm La Thế Phúc, Nguyễn Khắc Sử, Vũ Tiến Đức, Lương Thị Tuất, Phan Thanh Toàn, Nguyễn Thanh Tùng và Nguyễn Trung Minh) đã phát hiện được nhiều di tích và di vật khảo cổ với mật độ khá dày trong các hang động núi lửa ở Công viên Địa chất Núi lửa Krông Nô. Các di vật khảo cổ vừa được phát hiện bao gồm:
- Đồ đá: đá nguyên liệu và các công cụ đá như công cụ đá hình đĩa, rìu ngắn và rìu ngắn mài lưỡi, rìu hình bầu dục và rìu hình bầu dục mài lưỡi; công cụ mảnh tước, mảnh tước, phiến tước; hòn ghè, hòn kê, hòn mài, chày nghiền...; những hòn đá thạch anh sắc cạnh vừa tay cầm và những hòn đất vàng (hoàng thổ).
- Đồ gốm: rất nhiều dụng cụ bằng gốm có độ dày mỏng khác nhau, đa phần có độ nung còn thấp, dễ bị bẻ vỡ vụn, làm từ đất sét pha cát, hạt nhỏ, nặn tay, loại hình đơn giản, chủ yếu là nồi và đồ đựng; hoa văn trên các mảnh gốm khá sắc nét và đa dạng như chấm gạch, chấm dải, gạch dải, vặn thừng...
- Xương động vật: các mảnh xương ống của động vật không loại trừ có cả xương người Tiền sử (?). Xương không còn rắn chắc, dễ bị gãy vỡ vụn khi khô, phần rỗng của xương được lấp đầy bột sét ở thể xốp. Ngoài các mảnh xương trong hang còn có các răng hàm động vật đang hoá thạch. Theo xác định sơ bộ, đây là các răng thú của những động vật ăn cỏ.
Một số hình ảnh các di vật khảo cổ các nhà khoa học phát hiện được
Những hang động có diện tích nền hang khá rộng, nền hang tương đối bằng phẳng, thông thoáng, cửa hang quay về hướng đông, đông nam hoặc chính nam tiếp thu được nhiều ánh sáng, cửa hang ra vào dễ dàng và phân bố ở gần nguồn nước sinh hoạt... là những hang mà các nhà khoa học thu được nhiều hiện vật khảo cổ hơn cả.
Có thể nói, đây là những phát hiện khảo cổ học Tiền sử đầu tiên trong hang động núi lửa ở Việt Nam. Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam sẽ phối hợp với các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu chi tiết để bổ sung một loại hình cư trú mới, một hướng thích ứng mới của cư dân tiền sử ở vùng đất đỏ basalt Tây Nguyên và mở ra một hướng nghiên cứu mới về khảo cổ học hang động núi lửa ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.
Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức thực hiện dự án “Trừng bày di tích, di vật dưới tầng hầm Nhà Quốc hội”
Sau hơn 3 năm thực hiện Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan chủ trì dự án đã hoàn thành nhiệm vụ và mang được những giá trị cốt lõi của những phát hiện khảo cổ học tại đây đến đông đảo quần chúng nhân dân, cuốn sách giới thiệu đầy đủ cả về di tích, dấu tích kiến trúc, và di vật đặc sắc, tiêu biểu của cuộc khai quật. Bên cạnh bản text kèm theo phụ lục bản ảnh, bản vẽ, bản đồ minh họa thuận tiện cho độc giả.
Về kết cấu, ngoài lời giới thiệu, lời nói đầu và phụ lục ảnh, cuốn sách gồm 3 phần chính:
Phần thứ nhất: Văn hóa tiền sử vùng núi và vùng biển miền Bắc
Phần thứ hai: văn hóa biển tiền sử miền Trung
Phần thứ ba: Văn hóa Biển tiền sử miền Nam
Theo cuốn sách thì hệ thống văn hóa Biển tiền sử Việt Nam có cả một quá trình hình thành và phát triển qua 6 thiên niên kỷ trên suốt dải đồng bằng ven biển và hải đảo từ Bắc vào Nam.
Xin trân trọng giới thiệu!
Tạp chí Khảo cổ học số 5 – 2016
Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm
MỤC LỤC
STT | Tr | |
1 |
Các bối cảnh trong môi trường và văn hóa trong thời kỳ Holocene ở châu thổ sông Hồng
Nguyễn Gia Đối
“Bài báo đề cập đến các bối cảnh môi trường và văn hóa trong giai đoạn từ cuối Holocene sớm đến đầu Holocene muộn ở vùng châu thổ sông Hồng. Trong giai đoạn này đồng bằng sông Hồng dần được hình thành và trải qua các biến động về môi trường (khí hậu, thảm thực vật), đặc biệt là sự biến đổi về địa mạo, cảnh quan do sự tăng giảm của mực nước biển trong thời kỳ Holocene trung. Quá trình cư trú, các mô thức kiếm sống của các nhóm cư dân từ hậu kỳ Đá mới đến thời đại Kim khí gắn với các sự kiện môi trường diễn ra ở châu thổ sông Hồng thời kỳ này. Quá trình đó diễn ra theo một xu hướng chủ đạo là từ vùng đồng cao xuống vùng đồng bằng thấp; từ các hoạt động kinh tế khai thác tự nhiên – nông nghiệp sơ khai đến nông nghiệp trồng lúa nước; từ chế tác, sử dụng công cụ đá đến kỹ thuật luyện kim đúc đồng. Đây là một trong những mô hình khá tiêu biểu mang tính khu vực và toàn cầu của quá trình tương tác, thích ứng của con người với điều kiện tự nhiên ở một vùng châu thổ trong thời kỳ Holocene”.
|
3 |
2 | Quá trình chiếm lĩnh vùng ngập mặn Đông Nam Bộ thời Tiền - sơ sử
Trương Đắc Chiến
“Trong khoảng thời gian từ 3500 năm BP cho đến thế kỉ 1 - 2 AD, tức là từ hậu kì Đá mới cho tới sơ kì Sắt, vùng ngập mặn Đông Nam Bộ đã được các nhóm cư dân khác nhau đến chiếm lĩnh và khai phá. Khởi đầu là những cư dân Cái Vạn, Rạch Núi, tiếp đó là những cư dân Cái Lăng, Gò Me, Bưng Thơm - Bưng Bạc và cuối cùng là những cư dân ở Cần Giờ, Long Sơn. Quá trình này không chỉ là sự lan tỏa của các cư dân vùng cao ra phía biển mà còn là sự thâm nhập của các nhóm dân cư từ phía biển vào đất liền.
Những di vật tìm được rất phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình và chất liệu, thể hiện những đặc trưng văn hóa của vùng ngập mặn Đông Nam Bộ.Những di tích, di vật tìm được còn cho thấy mối quan hệ giữa vùng ngập mặn Đông Nam Bộ với các di tích ở vùng cao Đồng Nai, Vàm Cỏ, với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, với nhiều địa điểm ở Đông Nam Á, thậm chí cả mối quan hệ với Ấn Độ và Nam Trung Quốc. Qua những di tích vùng ngập mặn ven biển này, chúng ta thấy được bằng chứng của một quá trình phát triển lên văn hóa Óc Eo từ thời tiền - sơ sử đã được hình thành ngay tại khu vực này”. |
19 |
3 | Sức sống Đông Sơn qua một số loại hình di chỉ khảo cổ học
Nguyễn Giang Hải
“Văn hóa Đông Sơn là nền tảng của nền văn minh Việt cổ, của nhà nước Văn lang và Âu Lạc. Từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm 938 Công Nguyên, nước ta bị các triều đại phong kiến Trung Quốc thống trị. Đây là thời kỳ những kẻ đô hộ người Hán ra sức tiến hành Hán hóa nhằm tiêu diệt, xóa bỏ bản sắc văn hóa Việt cổ. Tuy nhiên, với truyền thống văn hóa Đông Sơn rực rỡ, người Việt vẫn bền bỉ đấu tranh chống lại ách đô hộ của các thế lực phương Bắc để giành độc lập và giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa của mình.
Bài viết này góp phần tìm hiểu và chứng minh sức sống của văn hóa Đông Sơn, truyền thống của văn hóa Việt cổ qua một số chứng cứ khảo cổ học trong thời kỳ Bắc thuộc và muộn hơn”. |
36 |
4 | Đền thần Hindu ở Cát Tiên
Đặng Văn Thắng, Võ Thị Quỳnh Như
“Quần thể di tích khảo cổ Cát Tiên nằm trải dài theo thung lũng hẹp dọc sông Đồng Nai, nay thuộc các xã Quảng Ngãi và Đức Phổ của huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Quần thể di tích này được phát hiện từ năm 1985, cho đến nay đã trải qua nhiều đợt khai quật và nghiên cứu cùng với khối lượng di tích và di vật phong phú.
Theo tác giả, ở Cát Tiên có 3 loại hình kiến trúc đền bao gồm: Đền ở ngoài trời (Hypaethral Temple),đền có mái che (Roofed Temple), và đền có cấu trúc bằng gạch và đá (structural brick and stone temples).
Dựa vào, niên đại và kết cấu kiến trúc, có thể thấy ở khu di tích đền Cát Tiên có hai giai đoạn phát triển đỉnh cao. Lần thứ nhất là giai đoạn thế kỷ III - IV sau Công nguyên, tương đương với thời kỳ mà vương quốc Phù Nam phát triển đến đỉnh cao, phạm vi lãnh thổ bao gồm cả khu vực Nam Bộ. Có lẽ văn hóa Óc Eo đã có ảnh hưởng lên vùng đất Cát Tiên vào giai đoạn này. Lần thứ 2 vào giai đoạn khoảng thế kỷ VII – VIII, là thời kỳ Nam Bộ đầy biến động, sự tấn công của Chân Lạp, sự sụp đổ của Phù Nam và sự di cư từ vùng đất thấp lên vùng đất cao của một nhóm cư dân Nam Bộ cổ, những điều này cũng có thể là các yếu tố ảnh hưởng đến vùng đất Cát Tiên”.
|
43 |
5 |
Thành Lồi qua những kết quả nghiên cứu mới
Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Hữu Mạnh, Nguyễn Văn Quảng
“Trong hai năm 2011 và 2014, một nhóm các nhà khảo cổ học đã tiến hành khảo sát di tích Champa tại khu vực Bắc đèo Hải Vân, trong đó có di tích Thành Lồi hiện nay thuộc địa phận ba phường: Thủy Xuân, Thủy Biều và Phường Đúc (thành phố Huế). Toàn bộ luỹ của Thành Lồi bao quanh đồi Long Thọ, bên cạnh sông Hương. Thành Lồi là một toà thành có quy mô lớn, cấu trúc hoàn chỉnh, khá kiên cố, được đắp bằng đất là chủ yếu, hai bên có tường gạch làm cốt. Kết quả khảo sát 2011 và 2014 ở Thành Lồi cung cấp thêm một số dữ liệu về niên đại xây dựng Thành Lồi. Theo đó, thành Lồi có những tương đồng về kỹ thuật xây dựng với thành Trà Kiệu, thành Hồ; di vật như ngói và gốm Thành Lồi mang những đặc trưng giống di vật tầng văn hoá trên của Trà Kiệu; niên đại xây dựng thành Lồi có thể từ sau thế kỷ IV AD”
|
58 |
6 |
Những hiểu biết về khảo cổ học biển ở Bình Định và Phú Yên
Bùi Văn Liêm, Bùi Văn Hiếu
“Bình Định và Phú Yên có tiềm năng lớn về khảo cổ học dưới nước nói riêng và khảo cổ học biển nói chung. Hệ thống sông ngòi ở hai tỉnh này khá dày đặc, dọc bở biển đều có những cửa, vụng biển thuận lợi cho tàu thuyền ra vào và cũng nằm trong tuyến thương mại biển của khu vực với những thương cảng nổi tiếng trong lịch sử. Ở đây, có đầy đủ những loại hình di tích chính của khảo cổ học biển như thương cảng cổ (Thị Nại, Nước mặn, Quy Nhơn, Vũng Lấm), tàu đắm (Hà Ra), xưởng đóng ghe tàu thuyền. Di vật phát hiện được liên quan đến khảo cổ học biển ở khu vực này bao gồm đồ gốm/sứ/sành, đồ kim loại, đồ gỗ…
Hiện tại, do nhu cầu cuộc sống và việc phát triển kinh tế ở địa phương đang dần xâm hại nguồn di sản văn hóa này. Chính vì vậy, việc xác định, nghiên cứu hệ thống những di tích khảo cổ học dưới nước, các di tích bị chìm ngập và mối liên hệ trong lịch sử với các di tích trên đất liền ở các khu vực này là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết”.
|
71 |
7 |
Nghiên cứu khảo cổ học biển gần đây ở Vân Đồn (Quảng Ninh)
Bùi Văn Hiếu
“Trong những năm gần đây, bước đầu đã có những nghiên cứu sử dụng các phương pháp của khảo cổ học dưới nước như khảo sát bằng snúc-kơ, viễn thám, lặn khảo sát dưới nước được tiến hành ở khu vực Vân Đồn. Bên cạnh đó, có những cuộc khảo sát ở 17 địa điểm tại ba xã Quan Lạn, Minh Châu và Thắng Lợi, tập trung nghiên cứu ở hai địa điểm Mang Thúng và Cống Cái. Với vị trí địa lý của mình, có thể nói, Mang Thúng và Cống Cái giữ vai trò tương đối quan trọng trong hệ thống thương cảng Vân Đồn xưa. Bên cạnh đó, Sơn Hào là một di tích lý tưởng cho việc nghiên cứu một làng cổ có liên hệ chặt chẽ với thương cảng Vân Đồn. Hiện nay, tại phần lớn các điểm khảo sát, vẫn còn nhiều mảnh đồ gốm sành sứ với nhiều loại hình khác nhau như bát, đĩa, lon vại, bình vò, nồi, lọ… nguồn gốc Việt Nam và Trung Quốc, niên đại trải dài nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, từ thế kỷ I, II sau Công Nguyên cho đến thế kỷ XIX - XX. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu gần đây, chúng ta có thể khẳng định trong vòng bảy thế kỷ, thương cảng Vân Đồn đã hình thành và phát triển trong một không gian rộng gồm một hệ thống các bến cảng và sự giao thương diễn ra đồng thời ở nhiều địa điểm. Việc tiếp tục tiến hành khảo sát, nghiên cứu ở khu vực này hy vọng sẽ phần nào được giải đáp được vấn đề trung tâm thương cảng Vân Đồn ở đâu và sự dịch chuyển của nó qua các thời kỳ”.
|
88 |
Thông tin hoạt động Khảo cổ học | 97 | |
Giới thiệu sách | 98 |
CONTENTS
No | Page | |
1 |
ENVIRONMENTAL AND CULTURAL CONTEXTS IN HOLOCENE IN HỒNG-RIVER DELTA
Nguyễn Gia Đối
The paper refers to the environmental and cultural contexts in late Early Holocene to early Late Holocene in the Hồng-river delta. In this period, the Hồng-river plain was gradually formed and experienced environmental upheavals (of climate and vegetation), especially the changes in geomorphology and landscape due to the sea transgression and recession in the middle Holocene. In the process of inhabitation, the pattern of livelihood from the late Neolithic to the Metal Age was associated with the environmental events in the Hồng-river delta at that time. This process occurred in a mainstream trend from high to lowland plains; from the economic activities of natural exploitation and primitive agriculture to wet-rice cultivation; from making and using stone tools to the technology of metallurgy and bronze casting. This is one of the fairly typical regional and global patterns of the human interactive and adaptable process in the natural conditions of a delta area in Holocene.
|
3 |
2 |
PROCESS OF MANGROVE OCCUPATION IN THE EASTERN PART OF SOUTHERN VIỆT NAM IN PRE-PROTOHISTORICAL PERIOD
Trương Đắc Chiến
From 3500 BP to the first – second centuries AD, which means from the late Neolithic to the early Iron Age, the mangrove areas in the Eastern part of Southern Việt Nam were occupied and exploited by various groups of inhabitants. The first group was from Cái Vạn and Rạch Núi, which followed by those from Cái Lăng, Gò Me and Bưng Thơm - Bưng Bạc and the final group was from Cần Giờ, Long Sơn. This process is not only the spread of highland residents to the sea but also the penetration of the inhabitants from the sea to the mainland.
The found artifacts are very rich in quantity and diversified in forms and materials, which demonstrate the cultural characteristics of the mangrove areas in the Eastern part of Southern Việt Nam.The found artifacts and sites also show the relationship between the mangrove areas in the Eastern part of Southern Việt Nam and the sites in the highlands of Đồng Nai, Vàm Cỏ, the Sa Huỳnh culture in Central Việt Nam, and many other sites in Southeast Asia, even the relationship with India and Southern China. Through the sites in these coastal mangrove areas, we realize the evidence of the development process to the Óc Eo culture from pre- protohistorical period was formed right in these areas. |
19 |
3 |
ĐÔNG SƠN VITALITY FROM SOME TYPES OF ARCHAEOLOGICAL SITES
Nguyễn Giang Hải
The Đông Sơn culture is a base of the ancient Vietnamese civilization, of Văn lang and Âu Lạc states. From 179 BC to 938 AD, Việt Nam was dominated by feudal Chinese dynasties. This is the period that the Han (Chinese) dominators tried to sinicize in order to eliminate the ancient Vietnamese culture. However, with the brilliant Đông Sơn-culture tradition, the Vietnamese were still enduring to struggle against the dominant yoke of the Chinese forces to gain independence and preserve the Vietnamese tradition and cultural identity.
This paper contributes to the study and the justification of the Đông Sơn-culture vitality, the tradition of the ancient Vietnamese culture through some of the archaeological evidence from the Chinese Domination period and later.
|
36 |
4 |
HINDU TEMPLE IN CÁT TIÊN
Đặng Văn Thắng, Võ Thị Huỳnh Như
The complex of the sites in Cát Tiên stretch in a narrow valley along the Đồng Nai river, which now belongs to Quảng Ngãi and Đức Phổ communes of Cát Tiên district, Lâm Đồng province. This complex was found in 1985, and has been excavated and studied for many times so far, with the rich found relics and artifacts.As far as the author is concerned, there are 3 architectural types in Cát Tiên including hypaethral temples, roofed temples, brick and stone temples. Based on the dates and architectural composition, there are possibly two stages that developed to the climax in Cát Tiên site complex. The first stage was in the third – fourth centuries AD, equivalent to the time when Funan Kingdom developed to the climax, in the territory that included the whole Southern Việt Nam. The Óc Eo culture might have influenced Cát Tiên land at this time. The second stage was in the seventh – eighth centuries AD, when Southern Việt Nam was in chaos, with the attach of Chân Lạp, the collapse of Funan and the immigration of inhabitant group of old Southern Việt Nam from the low lands to the high lands, which might have been factors that affected Cát Tiên lands.
|
43 |
5 |
LỒI CITADEL THROUGH THE NEW RESEARCH RESULTS
Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Hữu Mạnh, Nguyễn Văn Quảng
In 2011 and 2014, a group of archaeologists conducted a survey at the Champa sites in the area of northern Hải Vân Pass, including Thành Lồi Citadel which now belongs to the location of the three wards: Thủy Xuân, Thủy Biều and Phường Đúc (Huế City). The whole rampart of Lồi Citadel encloses Long Thọ hill, near Hương River.Thành Lồi Citadel is large-scaled, with a complete structure that is quite solid, which was built mainly with earth and bordered by brick walls at both sides. The results of the survey in 2011 and 2014 at Lồi Citadel provide additional information to the date of the citadel construction. Accordingly, the Citadel share similarities in construction techniques with Trà Kiệu and Hồ-dynasty citadels; the artifacts from Lồi Citadel such as tiles and ceramics have the same features with those from the upper cultural layer of Trà Kiệu Citadel; the date of the construction of Lồi Citadel might be after the fourth century AD.
|
58 |
6 |
PERCEPTION OF MARINE ARCHAEOLOGY IN BÌNH ĐỊNH AND PHÚ YÊN
Bùi Văn Liêm, Bùi Văn Hiếu
Bình Định and Phú Yên have great potentials for underwater archeology in particular and marine archaeology in general. The system of rivers and canals in these two provinces are fairly dense; along the sea coast, there are pools and estuaries facilitating boats and ships and also located in the maritime trade routes of the region with the famous trade ports in history. There are enough relics forms of marine archeology as ancient trade ports (Thị Nại, Nước mặn, Quy Nhơn, Vũng Lấm), sunken ships (Hà Ra), and shipyards. The found artifacts associated with marine archaeology in these areas include ceramics/porcelain/stoneware, metal and wooden objects, etc.
These days, due to the life demands and the development of the local economy, this source of cultural heritage is being gradually vandalized. Therefore, the definition and systematic research on the underwater archaeological sites, the flooded sites and the historical association with the mainland sites in these areas are very urgent and vital.
|
71
|
RECENT RESEARCH OF MARIN ARCHAEOLOGY IN VÂN ĐỒN
Bùi Văn Hiếu
In the recent years, there have been initial studies with the application of underwater archaeological methods such as the use of snookers, remote sensing, and underwater dives in Vân Đồn area. Apart from that, there have been investigations at 17 sites in the three communes of Quan Lạn, Minh Châu and Thắng Lợi, concentrating on the research at the Mang Thúng and Cống Cái sites. With their geographical locations, Mang Thúng and Cống Cái possibly play a fairly important role in the system of the old trade ports in Vân Đồn. In addition, Sơn Hào is an ideal site for the research into an ancient village that is closely associated with Vân Đồn trade ports.
Nowadays, at most of the investigated sites, there are still many potsherds of various forms such as bowls, plates, vases, jars, pots, bottle, and so on, which are originally from Việt Nam and China, with the dates from various historical periods, from the first, second centuries AD to the nineteenth – twentieth centuries.
Based on the resent study results, we can confirm that during seven centuries Vân Đồn trade ports were formed and developed in a large space including the system of harbors and the commercial interaction occurred at many sites. The more surveys and research in this area will somehow solve the problems of where the centre of Vân Đồn trade ports might have been and its changes through the periods.
|
88 |
TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ
61- Phan chu trinh - Hà Nội
Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607
Các đại biểu tham dự toạ đàm đều khẳng định, Đề án thể hiện ý nghĩa chính trị rất lớn, là nguyện vọng, ước mong và sự quan tâm đặc biệt từ rất lâu của các nhà khoa học trong cả nước, nhất là của nhân dân trong những khu vực có di tích. Đồng thời đánh giá cao các mục tiêu tổng quát và cụ thể của Đề án, đó là: khai quật, nghiên cứu khảo cổ học, đánh giá giá trị khoa học nhằm cung cấp các luận cứ phục vụ cho việc xây dựng Hồ sơ Quốc gia trình UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới.
Để triển khai thực hiện Đề án có hiệu quả, các đại biểu đã đặt ra một số vấn đề trong quá trình thực hiện đề án như: Đề án triển khai trên một địa bàn rộng lớn, xa các trung tâm nghiên cứu khoa học đầu ngành nên rất khó khăn cho việc huy động nhân lực và vật lực lớn; Công tác giải phóng mặt bằng cần phải được tiến hành khẩn trương để có được mặt bằng sạch phục vụ khai quật, nghiên cứu; Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích và di vật xuất lộ trong quá trình khai quật phải được tiến hành khoa học, đáp ứng các tiêu chuẩn hồ sơ của UNESCO. Đặc biệt, Đề án nên nghiên cứu kỹ nhằm xác định vùng lõi của di sản và việc kết nối giữa các khu vực của Di sản, qua đó tập trung nghiên cứu, đánh giá giá trị nổi bật của di sản.
Giải đáp những khó khăn đặt ra, Lãnh đạo VASS khẳng định sẽ huy động các nhà khoa học, các chuyên gia khảo cổ học hàng đầu, có nhiều kinh nghiệm tham gia thực hiện Đề án, trong quá trình triển khai sẽ mời các nhà khoa học quốc tế cùng tham gia đánh giá giá trị của di sản. Đồng thời Lãnh đạo UBND tỉnh An Giang và Kiên Giang đã phát biểu, cam kết đồng hành cùng các nhà khoa học, ủng hộ và hỗ trợ tối đa trong quá trình triển khai thực hiện Đề án.
Đề án “Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (Văn hoá Óc Eo Nam Bộ)” sẽ tiến hành khai quật, nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn 2 tỉnh An Giang và Kiến Giang, với diện tích khoảng 20.000m2, được thực hiện từ năm 2017 đến 2019.