Cuốn sách Sự hình thành nhà nước sơ khai ở Việt Nam (Qua tư liệu khảo cổ học) của PGS.TS. Trịnh Sinh là một cuốn giáo trình dành cho nghiên cứu sinh và học viên cao học dùng cho môn học: 1/ Những vấn đề cơ bản của Khảo cổ học tiền sử và sơ sử Việt Nam; 2/ Văn hóa Đông Sơn và vấn đề nhà nước sơ khai.
 
Cuốn giáo trình gồm 5 chương, sau mỗi chương đều có các câu hỏi dành cho cho nghiên cứu sinh và học viên cao học ôn tập. Nội dung các chương như sau: Chương 1 viết về vấn đề lý luận và lịch sử nghiên cứu nhà nước sơ khai; chương 2 đưa ra những tiền đề dẫn tới sự hình thành nhà nước sơ khai ở miền Bắc Việt Nam; chương 3 giới thiệu về nhà nước Văn Lang - Âu Lạc qua một số tư liệu, về nhà nước Âu Lạc - sự kế thừa của nhà nước Văn Lang, về con người, các tộc người thời Văn Lang - Âu Lạc, về kinh đô Văn Lang và về thiết chế nhà nước sơ khai; chương 4 tác giả đặt nhà nước Văn Lang - Âu Lạc trong bối cảnh của khu vực, đó là với những nhà nước sơ khai ở miền Tây Nam, Đông Nam Trung Quốc, với những tộc người trong văn hóa Sa Huỳnh; chương 5 nêu vấn đề nhà nước sơ khai ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ Việt Nam.

Ngoài nội dung trên cuốn sách còn kèm theo phần phụ lục minh họa với nhiều bản đồ, bản vẽ, bản dập, bản ảnh và biểu đồ về khảo cổ học rõ nét, đặc sắc, hấp dẫn sẽ giúp cho nghiên cứu sinh và học viên cao học hiểu rõ hơn về vấn đề.
CHỦ ĐỀNhững nghiên cứu GIS (Geographic Information System) mới ở tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và miền Trung Việt Nam//(Presentation of a new GIS on the provinces of Thừa Thiên-Huế and Quảng Trị in Central Vietnam)
Diễn giảTS. Anne-Valérie SCHWEYER, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp
Thời gian: 9h30 sáng ngày 15 tháng 8 năm 2016 (Thứ 2)
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học - Số 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
* Tóm tắt:
Công trình nghiên cứu này nhằm mục đích giới thiệu một hệ thống thông tin địa lý, dựa trên hệ thống bản đồ từ thế kỷ 18 đến thế kỷ giữa 20. Nó mang lại những nhận thức về quá trình biến chuyển của cảnh quan môi trường và giúp tái dựng lại quá trình định cư tại khu vực. Vị trí của những công trình kiến trúc Chàm và Nguyễn trong mối quan hệ với các hệ thống sông sẽ cung cấp luận cứ cơ bản mới để hiểu lịch sử và địa lý của vùng đất này.
Về diễn giả
Cử nhân Nghành Ấn Độ học tại Đại học Paris III-Censier, Pháp, năm 1996.
Tiến sĩ sử học, tại Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, năm 1992
Nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm de l'Asie du Sud-Est (CASE), CNRS, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp.
Giảng dạy
2009, 2011, 2013: Tham gia hội nghị tại SOAS Diploma, London
Kể từ năm 2012: Phụ trách khóa học về Ngôn ngữ và Văn minh Champa tại Inalco (Đại học Đông Phương), Paris
Ấn phẩm
Sách :
Le Viet Nam ancien, Guide Belles-Lettres des Civilisations, édition Les Belles Lettres, Paris, 2005, 320 p.
Việt Nam cổ đại. Lịch sử và Khảo cổ học, River Books Guides, Bangkok, 2011.
Các bài viết về  Champa (Việt Nam), chủ yếu là những nghiên cứu về Tôn giáo, Lịch sử và Minh văn: http://case.ehess.fr/index.php?406
* Các Dự án hiện nay
- Trưởng ban Ban Hợp tác khoa học với VICAS-Huê về Di sản Champa ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, tài trợ bởi Ban Hợp tác Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp
- Thành viên Dự án «The Making of Red River» do Li Tana làm chủ nhiệm, Đại học Quốc gia Úc. 
Ngày 20/7, Bộ VHTT&DL đã ban hành quyết định số 2560, 2561, 2562/QĐ-BVHTTDL về việc khai quật khảo cổ di tích lăng Tư Phúc, lăng Phụ Sơn, lăng Ngải Sơn trong Khu di tích quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều. Cả 3 di tích đều thuộc xã An Sinh (TX Đông Triều).

Di tích lăng Tư Phúc nằm trong quần thể lăng mộ, đền miếu nhà Trần tại An Sinh (Đông Triều), được xây dựng năm 1381 nhằm lưu giữ thần vị của 2 chủ lăng Chiêu Lăng và Dụ Lăng từ Tam Đường (Thái Bình) chuyển về. Lăng sẽ khai quật trong thời gian từ 5/8 - 5/11 với diện tích là 600m2. Chủ trì khai quật là Ths Nguyễn Văn Anh (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).

Di tích lăng Phụ Sơn (lăng vua Trần Dụ Tông) sẽ khai quật trong thời gian từ 5/8 - 5/11 với diện tích là 500m2. Chủ trì khai quật là TS Đặng Hồng Sơn (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Vua Trần Dụ Tông sinh năm Bính Tý (1336), tên húy là Hạo, con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, năm 1341, vua Trần Hiến Tông mất, ông được chọn lên kế ngôi. Trần Dụ Tông làm vua 28 năm, thọ 34 tuổi.

Khu lăng tẩm, đền miếu của nhà Trần còn sót lại ở Đông Triều, Quảng Ninh. Ảnh: TL.
Khu lăng tẩm, đền miếu của nhà Trần ở Đông Triều, Quảng Ninh. Ảnh: TL.

Di tích lăng Ngải Sơn (lăng vua Trần Hiến Tông) sẽ khai quật trong thời gian từ 25/7 - 25/10 với diện tích là 400m2. Chủ trì khai quật là PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Vua Trần Hiến Tông là vua thứ 6 của nhà Trần, tên húy là Trần Vượng, con thứ của vua Trần Minh Tông. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Mùi (1319), năm 10 tuổi được vua cha Trần Minh Tông truyền ngôi, ở ngôi 13 năm, mất ngày 11 tháng 6 năm Tân Tỵ (1341), thọ 23 tuổi.

Xung quanh khu lăng hiện còn lại rất nhiều di vật, trong đó đặc biệt phải kể đến là bộ tượng bằng đá, gồm: tượng quan hầu, tượng thú và rùa. Bộ tượng này vốn được đặt dọc hai bên Thần đạo của lăng theo từng cặp đối xứng nhau, tượng quan hầu ở tư thế đứng chầu, tượng các loại thú đều được tạc ở dạng phủ phục. Bộ tượng đá ở An lăng không chỉ được đánh giá là một sưu tập quý của nghệ thuật điêu khắc thời Trần, mà điều quan trọng hơn nữa là, qua bộ tượng này chúng ta biết được trong cấu trúc Thần đạo lăng tẩm thời Trần hai bên có tượng quan hầu và tượng thú đứng chầu.

Ngoài các tượng thú, tại An lăng còn có hai tượng rùa đá của thời Trần, trong đó có một tượng rùa có kích thước rất lớn: dài 1,57m; rộng 0,94m, dày 0,34m, trên lưng rùa có một lỗ mộng lớn cho thấy rùa này cõng bia. Năm 2002, lăng được xây lại như hình dáng hiện nay, việc tôn tạo không dựa trên những nghiên cứu đã khiến cho công trình hiện nay không phù hợp với diện mạo ban đầu của lăng.

Bộ VHTTDL lưu ý, trong thời gian khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép cần chú ý bảo vệ địa tầng của di tích; có trách nhiệm tuyên truyền cho nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa.

Những hiện vật thu được trong quá trình khai quật phải được tạm nhập vào Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh để giữ gìn, bảo quản; Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, Sở VHTT tỉnh Quảng Ninh có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ trưởng Bộ VHTTDL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó.

Chậm nhất ba tháng sau đợt khai quật, Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Quảng Ninh, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội phải có báo cáo sơ bộ, sau một năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa.

(Tổng hợp: baoquangninh; dantri; baomoi)

Chiều 2/8, Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng phối hợp Bảo tàng tỉnh Quảng Trị và UBND huyện Triệu Phong đã công bố sơ bộ kết quả cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ Lỵ sở dinh chúa Nguyễn (1558-1626) tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Cuộc thăm dò và khai quật khảo cổ đã tìm ra được những bằng chứng thông qua những chứng tích, kí ức lịch sử về Lỵ sở của chúa Nguyễn, với một khu vực có sự góp mặt của nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là kiến trúc la thành.

Những dấu tích về thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng dựng nghiệp được khai quật để phục vụ nghiên cứu

Sau đợt khai quật đã phát hiện nhiều dấu tích khác nhau như: gạch ngói và đồ gốm gạch chủ yếu là gạch thẻ màu đỏ, có độ nung thấp, dễ gọt cắt, chất liệu được làm khá kĩ; ngói chủ yếu là ngói phẳng, mỏng, độ nung thấp, có phát hiện thấy ngói mũi sen nhưng rất hiếm; đồ đất nung chủ yếu là các loại bát, nhiều mảnh nối còn giữ nguyên cả vết cháy đen do hun nấu, có niên đại từ thế kỷ XVI-XIX; gốm sành khá phổ biến, đa dạng về loại hình như bình, vò, hũ, chậu, lọ… có niên đại từ thế kỷ XV-XIX; gốm men và gốm sứ chủ yếu là đồ Trung Hoa có xuất xứ từ các lò Phúc Kiến, Quảng Đông, Cảnh Đức, gốm đẹp và có tính thương mại cao, có nhiều mẫu sang trọng để dùng trong tầng lớp quý tộc có niên đại từ thế kỷ XV- XIX…

Cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ lần này là một nội dung nằm trong đề tài nghiên cứu “Những luận chứng khoa học lịch sử” nhằm xác định 3 vị trí lịch sử để phục vụ cho công tác quy hoạch, đầu tư, tôn tạo các di tích liên quan đến chúa Nguyễn trên địa bàn huyện Triệu Phong”, theo quyết định của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch.

Những mảnh gạch, gốm sứ thu được trong quá trình khai quật

Cuộc khai quật được tiến hành tại khu vực thực địa ở Cát Dinh, thôn Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong trong 14 ngày từ 20/7-2/8, trên tổng diện tích 113,63m2, bao gồm 3 khu vực: Trà Bát 1, Trà Bát 2 và Trà Bát 3, thuộc xã Triệu Giang.

Theo đó, tại khu vực Trà Bát 1, các nhà khảo cổ đã thực hiện tại 3 hố với mục tiêu thăm dò cấu trúc La thành dinh Chúa Nguyễn với diện tích 67,13m2. Tại khu vực Trà Bát 2, mục tiêu thăm dò dấu tích Dinh Cát với diện tích 18m2. Khu vực Trà Bát 3 với mục tiêu thăm dò cấu trúc di tích Phủ Thờ sau khi chúa Nguyễn dời dinh, khu vực này được lấy làm nơi thờ bài vị Trung ương, với tổng diện tích 28,5m2. Ngoài ra, thăm dò 2 bờ đất nghi là lũy thành.

Tại các hố khai quật ở Trà Bát 1, với dấu vết các vệt thành, những phát hiện khảo cổ cũng đưa đến những kiến thức về kĩ thuật xây dựng thành thời kỳ này. Từ những chứng cứ khảo cổ ở khu vực trà Bát 2 và Trà Bát 3 cũng đưa đến những kết luận quan trọng như: khu vực Trà Bát 1 chính là nơi có khả năng là lỵ sở của chúa Nguyễn những năm đầu thế kỉ XVII; kết quả khai quật ở Cồn Dinh hay Phủ Thờ chứng minh trước đây nơi sầm uất, nơi tụ cư đông đúc.

dinh_chua_nguyen_qt.jpg

Các nhà khảo cổ cho rằng, đây mới chỉ là kết quả bước đầu nên cần phải có thời gian tìm hiểu sâu hơn mới có thể đưa ra khẳng định chính xác

Được biết, dấu ấn chúa Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị được ghi lại theo lịch sử bắt đầu từ 1558, tính từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất mới. Ông đã dừng lại ở Ái Tử (nay huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đặt thủ phủ đầu tiên. Sau đó, năm 1570 chúa Nguyễn Hoàng cho dời dinh từ Ái Tử sang làng Trà Bát còn gọi là Dinh Trà Bát. Năm 1600, Nguyễn Hoàng trở lại Thuận Hóa và tiến hành chuyển lỵ sở một lần nữa gọi là Dinh Cát (hay Cát Dinh). Năm 1626, ông tiến hành cho dời Lỵ sở từ Quảng Trị vào vùng Phước Yên của Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, Dinh Cát được xem là 1 trong 12 dinh của xứ đàng trong. Đồng thời, là trung tâm hành chính, chính trị từ thế kỉ XVII-XVIII. Vào thời kỳ 1802-1809 khi vua Gia Long lập dinh Quảng Trị thì Dinh Cát là được xem là lỵ sở của dinh Quảng Trị buổi ban đầu.

(Tổng hợp: baoquangtri; dantri; vietnam+)

Nhóm các nhà khảo cổ học dẫn đầu bởi Tiến sĩ Kichigin đến từ Đại học nghiên cứu Công nghệ Quốc gia Irkutsk kết hợp với sự hỗ trợ của Yuliana Yemelyanova đến từ phòng thí nghiệm Khảo cổ học, Cổ sinh học và Các hệ thống hỗ trợ sự sống của con người ở Bắc Á đã có những nghiên cứu về mộ táng thời đại đồ đồng gần hồ Baikal. Điều này đã gây ra sự ngạc nhiên đối với các nhà khảo cổ học.

001.jpg

Di cốt của người đàn ông có một chiếc vòng được chế tác từ một loại đá ngọc bích màu trắng (Jade) khá hiếm,được đặt ở hốc mắt. Ảnh: Dmitry Kichigin.

Các chuyên gia đánh giá rằng, cặp di cốt này bao gồm một người đàn ông già hơn và vợ hoặc có thể là vợ lẽ của ông ấy. Có một số yếu tố khá độc đáo đối với cặp đôi này và họ được tin rằng là thuộc cư dân văn hóa thời đại Đồng ở Glazkov.

Di cốt của người đàn ông có một chiếc vòng được làm từ đá ngọc bích khá hiếm, đặt trên hốc mắt. Ba chiếc khác thì đặt ở trên ngực. Tiến sĩ khảo cổ học Dmitry Kichingin nói rằng: “Có lẽ vì lý do nào có thể có sự liên quan tới quan niệm của họ về thới giới bên kia”.

002.jpg

003.jpg

004.jpg

005.jpg

006_0.jpg

007.jpg

Ảnh khai quật tại hiện trường và vị trí phát hiện di chỉ chứa di cốt gần hồ Baikal. Ảnh: Dmitry Kichigin.

Một vài mẫu xương của cặp di cốt này đã được gửi tới Canada để phân tích niên đại phóng xạ nhưng nhóm nghiên cứu các nhà khảo cổ học Nga có tham gia môt số cuộc khai quật tin rằng niên đai của cặp đôi đó khoảng từ 4.500BP tới 5.000BP.

Tiến sĩ Dmitry Kichigin cũng nói thêm rằng: “Trong ngôi mộ này chúng tôi tìm thấy bộ xương của người phụ nữ và đàn ông, di cốt được chôn ở tư thế nằm ngửa, đầu hướng về phía tây, hai di cốt nắm tay nhau”.

Di cốt của người đàn ông còn nguyên vẹn nhưng những động vật gặm nhấm đã làm hư hại một phần di cốt của người phụ nữ. Bên cạnh của di cốt nữ là một con dao bằng đá ngọc bích lớn, dài khoảng 13cm và rộng khoảng 7cm.

Dây truyền đeo được chế tác từ xương hươu được tìm thấy gần sọ và xung quanh chân của người đàn ông. Tương tự như vậy, chúng cũng được dùng để trang trí như dạng mũ và ở chân.

 “Chúng có mối liên hệ với người chủ của nó hay người vợ lẽ của ông ta?” Các nhà khảo cổ học đã tự đặt ra câu hỏi như vậy. Hiện tại câu trả lời là chưa rõ ràng: họ có thể tiến hành phân tích DNA để kiểm tra liệu cặp đôi này có liên quan tới nhau, nhưng dường như điều này sẽ mất rất nhiều kinh phí.

Vị trí chính xác của khu vực phát hiện hiện tại vẫn được giữ bí mất để tránh những kẻ tìm kiếm đồ cổ nghiệp dư đến phá hoại bởi vì khu vực này hoàn toàn có thể tìm thấy các mộ khác mà khả năng niên đại sẽ sớm hơn hai di cốt này.
“Chúng ta đã rất may mắn khi tìm được một di cốt trong tình trạng hoàn hảo”, nhà khảo cổ học Kichigin đã nói vậy, “Sẽ rất thú vị để phát hiện ra mục đích của con dao bằng đá ngọc bích có kích cỡ khá lớn được đặt gần người phụ nữ”.
“Chúng ta cũng  tìm ra một số hiện vật bằng kim loại trong một bao da nhỏ ở gần xương bánh chè của người đàn ông”. Các nghiên cứu, phân tích về di vật sẽ bắt đầu vào mùa thu.
“Mũi đất mà chúng tôi đã tiến hành một vài cuộc khai quật trước đó là một nơi vô cùng đáng sợ đối với cư dân tiền sử”, ông ấy nhấn mạnh thêm. Nó không phải là một di chỉ cư trú nhưng đã được sử dụng cho các nghi thức tôn giáo đồng thời có vai trò như nghĩa địa trong thời tiền sử. “Chúng tôi mong chờ nhiều khám phá thú vị về di chỉ khảo cổ học này, vì vậy chúng tôi dự định tiếp tục công việc đó vào năm tới”.

Nguồn: http://siberiantimes.com

Dịch: Phạm Thanh Sơn

 

Người Neanderthal đã cư trú ở gần như toàn bộ châu Âu. Khoảng 45.000 cách ngày nay, người Neanderthal là giống người chiếm đa số ở châu Âu. Các phát hiện khảo cổ học chỉ ra rằng, có một số di chỉ cư trú ở Đức được phát hiện trong thời gian đó.
Tuy nhiên, thời kỳ kết thúc của người Neandethal là khá đột ngột. Dựa trên phân tích nghiên cứu của một số di chỉ khảo cổ học chưa biết đến, giáo sư Jürgen Richter từ Trung tâm hợp tác nghiên cứu 806 - Con đường của chúng ta tới châu Âu đã đi đến kết luận rằng, người Neanderthals đã đạt dân số cực đại trước khi giảm một cách nhanh chóng và họ thậm chí đã bị tuyệt chủng.
 nean.jpg
Sọ cổ người Neanderthal
Những người Neanderthal đã sống ở giai đoạn trung kỳ Đá cũ, giai đoạn giữa của thời đại Đá cũ (cổ) bao gồm khoảng thời gian từ khoảng 200.000 tới 40.000 năm trước thời kỳ của chúng ta. Trong bài báo của ông ấy được xuất bản trong Tạp chí Đệ tứ Quốc tế, Richter đã đi đến một số kết luận rằng, hơn 50% trong số một vài di chỉ cư trú của những người Neanderthal có thể có niên đại vào giai đoạn trung kỳ Đá cũ ở Đức. Quan trọng hơn, niên đại của chúng vào khoảng 60.000 tới 43.000 cách ngày nay. Vì vậy, dân số của người Neanderthal dường như đã đạt đỉnh ở thời kỳ này.
 
Số lượng di chỉ, các nghiên cứu đó cùng với các nghiên cứu về loại hình hiện vật phát hiện ở các di chỉ cư trú chỉ ra rằng người Neanderthal ở Đức phụ thuộc vào sự dao động cao độ về nhân khẩu học. Trong giai đoạn Trung kỳ Đá cũ, dường như có một số cư dân di cư, dân số tăng hoặc giảm và tuyệt chủng ở những khu vực đã biết đến đồng thời sau đó có một sự quay trở lại của những người mới đến những khu vực này.
 
Trong khoảng thời gian 110.000 đến 70.000BP, chỉ có bốn di chỉ cư trú được biết đến, trong giai đoạn tiếp theo từ 70.000 tới 43.000BP con số đó là 94 di chỉ. Tuy nhiên, mặc dù có sự gia tăng về nhân khẩu đạt đỉnh khoảng dưới 1000 năm nhưng đã có một sự sụt giảm nhanh và người Neanderthal đã biến mất trong bối cảnh đó. Rõ ràng là tại sao họ là chết hết thì đó vẫn là một vấn đề chưa rõ ràng. Có thể là vì sự đa dạng về gen của họ thấp hoặc cũng có lẽ là sự xuất hiện của Homo spiens. Câu hỏi này vẫn là thách thức với các nhà hoa học. 
Dịch: Phạm Thanh Sơn

Diện mạo và vẻ đẹp tuyệt mỹ ban đầu của các tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc phai mờ dần theo thời gian. Đến ngày nay, người ta chỉ còn thấy được lớp vỏ ngoài tàn phai của chúng mà không biết ban đầu các tác phẩm ấy đẹp cỡ nào.

Hẳn mọi người đều ấn tượng với các tác phẩm điêu khắc của Hy Lạp và La Mã cổ đại, các bức tượng màu trắng, không tô vẽ. Thật sự thì đó lại không phải là diện mạo nguyên bản. Nhà khảo cổ học Vinzenz Brinkman cùng các đồng nghiệp trong một công trình nghiên cứu gần đây đã chứng minh quan niệm sai lầm của chúng ta về nghệ thuật điêu khắc cổ của Hy Lạp và La Mã.

Các nhà nghiên cứu đã tìm ra được dấu tích của màu sơn ban đầu trên các bức tượng điêu khắc, và hé lộ sự thật về diện mạo gốc của các bức tượng này. Nghiên cứu cho biết các bức tượng đơn sắc ngày nay ban đầu được sơn các màu sắc tươi sáng, nhưng qua nhiều thế kỷ, màu sơn gốc đã bị bay mất.

cac buc tuong hy lap khi con moi 1
 

Để giúp mọi người có cảm nhận rõ hơn về bản gốc, Vinzenz Brinkmann đã làm bản sao một số tượng điêu khắc cổ, sử dụng đúng các màu sắc ban đầu đã bị thời gian làm mờ.

Ngày nay, những bức tượng này được trưng bày và đem đi triển lãm khắp nơi trên thế giới, trở nên rất nổi tiếng.

Mời các bạn cùng chiêm ngưỡng một số tác phẩm tiêu biểu.

cac buc tuong hy lap khi con moi 2

cac buc tuong hy lap khi con moi 3

cac buc tuong hy lap khi con moi 4

cac buc tuong hy lap khi con moi 5

cac buc tuong hy lap khi con moi 6

cac buc tuong hy lap khi con moi 7

cac buc tuong hy lap khi con moi 8

cac buc tuong hy lap khi con moi 9

cac buc tuong hy lap khi con moi 10

Theo Brightside

Chiều 22/7, tại TP. Quy Nhơn. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bảo tàng Tổng hợp Bình Định phối hợp với Viện Khảo cổ học tổ chức họp báo công bố sơ bộ kết quả khai quật thám sát khảo cổ học Thương cảng Thi Nại-Nước Mặn.

Phat hien moi tai Di tich Thuong cang Thi Nai-Nuoc Man Binh Dinh - Anh 1

Quang cảnh họp báo công bố sơ bộ kết quả khai quật Di tich Thương cảng Thi Nại-Nước Mặn

Di tích Thương cảng Thi Nại-Nước Mặn thuộc xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Đây là một thương cảng sầm uất của vùng Đàng Trong thời Chúa Nguyễn được hình thành đầu thế kỷ XVI, phát triển đỉnh cao trong thế kỷ XVII. Vì vậy, Thương cảng Thi Nại-Nước Mặn đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu mối quan hệ trao đổi, buôn bán, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nền văn minh Đông, Nam Á và Phương Tây thông qua tuyến giao thương quốc tế ở Biển Đông.

Năm 2006, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định tiến hành khai quật thám sát thương cảng này đã thu được nhiều hiện vật giá trị gồm: đồ đất nung, gốm sành nâu, gốm trắng xanh (Trung Quốc), gốm Hizen (Nhật Bản), gốm Champa (Gò Sành) và gốm Việt Nam.

Phat hien moi tai Di tich Thuong cang Thi Nai-Nuoc Man Binh Dinh - Anh 2

Di vật bằng sành khai quật thu được tại Di tích

Tháng 6/2016; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép Bảo tàng Tổng hợp Bình Định phối hợp với Viện khảo cổ học tiến hành thăm dò, khai quật khu vực Thương cảng Thi Nại-Nước Mặn. Kết quả đã phát hiện được những dấu tích của nền móng kiến trúc như dấu vết móng cột chân tảng, bếp cùng với một số di vật khá phong phú và đa dạng về loại hình. Di tích phát hiện được có niên đại khoảng thế kỷ XVIII-XIX; các di vật thì có niên đại trải dài từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.

Mặc dù diện tích khai quật không lớn nhưng số lượng, loại hình di vật thu được lại hết sức phong phú đa dạng, được xếp thành 05 nhóm cơ bản:

- Vật liệu kiến trúc: thu được 789 mảnh bao gồm gạch và ngói, phần lớn là gạch để trơn, không trang trí hoa văn có màu nâu đỏ xương lẫn cát.

- Đồ gốm sứ: thu được 4.844 mảnh (3036 mảnh đồ đất nung, 1.808 mảnh gốm men và sứ); đồ đất nung chủ yếu là các mảnh nồi có màu nâu đỏ; gốm men và sứ bao gồm các loại hình bát, đĩa, cốc... với các dòng men nâu, men ngọc, men trắng, men trắng vẽ lam có nguồn gốc Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản… đa phần đều vỡ nhỏ.

Phat hien moi tai Di tich Thuong cang Thi Nai-Nuoc Man Binh Dinh - Anh 3

Di vật gốm sứ Hizen (Nhật Bản) khai quật thu được tại Di tích Thi Nại-Nước Mặn

- Đồ sành: thu được 2.823 mảnh (1.160 mảnh sành mịn, 1.620 mảnh sành thô và 43 mảnh sành có men) gồm những mảnh vỡ của bình, vò, lọ, lon, vại, chậu, bát, nắp… - Đồ kim loại: là những đồng tiền bằng đồng hầu hết đã bị oxi hóa không còn đọc rõ chữ, trong đó có hai đồng còn tương đối rõ là tiền Khai Nguyên thông bảo và Khang Hy thông bảo.

- Hiện vật khác: Trong đợt khai quật này cũng đã thu được 02 mảnh phôi gốm, 01 mảnh cà ràng, 44 mảnh xương và 15 mảnh vỏ nhuyễn thể.

Mặc dù diện tích khai quật không lớn nhưng đợt khai quật, thám sát lần này đã phát hiện được những di tích và di vật có giá trị. Đây là những chứng cứ xác thực về tính chất thương mại của di tích giúp cho việc tìm hiểu, nhận diện, đánh giá vai trò, vị trí quan trọng của Thương cảng Thi Nại-Nước Mặn trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất này.

Nguyễn Diễm (Tamnhin.net)

Tạp chí Khảo cổ học số 2 – 2016
Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm
Mục lục
STT   Tr
1
Về di cốt người cổ ở Bàu Dũ (Quảng Nam) khai quật năm 2014
NGUYỄN LÂN CƯỜNG
“Địa điểm Bàu Dũ nằm trong cồn sò điệp ở thôn Phú Trung, xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Địa điểm này đã được phát hiện năm 1981 và khai quật lần thứ nhất năm 1983, xuất lộ 3 mộ táng. Năm 2014, Bảo tàng Quảng Nam tiến hành khai quật lần thứ 2 phát hiện 6 mộ táng/di cốt người. Di chỉ Bàu Dũ có niên đại C14 là 5330±60 BP.
Bài báo công bố kết quả quan sát hiện trường, mô tả táng tục và đo đạc các chỉ số nhân trắc, xác định bệnh lý, đặc điểm nhân chủng các mộ táng/di cốt người ở di chỉ Bàu Dũ.
Theo đó, tác giả cho rằng hầu hết di cốt được chôn theo tư thế ngồi bó gối – một dạng mai táng chủ yếu của cư dân văn hóa Hòa Bình, Quỳnh Văn và Đa Bút…Di cốt người của mộ ký hiệu 14HDHIL5M4 có tục nhổ 4 răng cửa của xương hàm dưới.  Dựa vào hệ số tương quan Q-mode, thì sọ cổ Bàu Dũ (nữ) gần nhất với những sọ cổ thuộc văn hóa Hòa Bình”.
3
2
Kết quả khai quật di chỉ Hòn Ngò (Quảng Ninh) năm 2014
LƯU VĂN PHÚ, TRỊNH HOÀNG HIỆP, NGUYỄN THƠ ĐÌNH
“Di chỉ Hòn Ngò phân bố trong khu vực bãi triều cạnh cửa sông Hà Thanh, thuộc đội 5, thôn Hà Tràng Đông, xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc khai quật lần đầu tiên tại di chỉ này vào năm 2014 với diện tích 200m2 (8 hố khai quật) ở khu vực phía nam di chỉ.
Tầng văn hóa di chỉ Hòn Ngò đã bị phá hủy, di vật phát hiện được trên bề mặt hoặc trong lớp bùn phù sa. Di vật chủ yếu là công cụ đá ghè đẽo với loại hình phổ biến là công cụ mũi nhọn; công cụ mài hiếm, một số mảnh đồ gốm thô giống gốm sớm ở di chỉ Cái Bèo lớp dưới.
Sưu tập di vật này được xác định thuộc giai đoạn trung kỳ Đá mới có hai giai đoạn: khoảng 7.000-6.000 nghìn năm BP và 4.500 năm BP. Di chỉ này có mối liên hệ gần gũi với di chỉ Cái Bèo (Lớp dưới), Thoi Giếng (lớp dưới) và một số di tích ở ven biển tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, gần với tỉnh Quảng Ninh”.
17
3
Những kết quả nghiên cứu ban đầu các hiện vật đá ở Tràng Kênh, Hải Phòng, miền Bắc Việt Nam
YOSHIYUKI IIZUKA, TOMOMI SUZUKI, EMILYMIYAMA, NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG, MAROKO YAMAGATA
Di tích Tràng Kênh nằm ở phía đông của Núi Ao Non gần cửa sông Thái tại thành phố Hải Phòng. Di chỉ được Viện Khảo Cổ học hợp tác với Trường Đại học Trung hoa Hồng Kông khai quật lần thứ 3 tại Khu B của di chỉ  vào năm 1997. Theo báo cáo của Nguyễn Kim Dung và Tang Chung (năm 2000), rất nhiều mảnh gốm và hiện vật đá được phát hiện từ những lớp dưới của hố khai quật.
Trong báo cáo này, nhóm tác giả trình bày các kết quả nghiên cứu về khoáng vật với việc sử dụng kính hiển vi điện tử quét với đầu thu năng lượng khuếch tán tia X (SEM-EDS: Scanning electron microscope with X-ray energy dispersive techniques) mà không làm xâm hại hiện vật trên 22 tiêu bản lõi vòng được cho là từ nguồn đá ngọc của di tích Tràng Kênh. Các phân tích trên các tiêu bản lõi vòng  đều là đá ngọc nephrite và có thể chia thành 2 nhóm theo thành phần khoáng vật là tremolite và actinolite. Trong đó Tremolite nephrite có màu trắng chiếm đa số ở di tích Tràng Kênh.
Nghiên cứu về nguồn gốc của đá ngọc nephrite cho thấy loại actinolite nephrite (màu xanh lá cây) của Đài Loan được phát hiện ở Philippines, Borneo, miền Trung và Nam Việt Nam và bán đảo Thái Lan nhưng chưa bao giờ được phát hiện ở miền Bắc Việt Nam. Nhóm các nhà nghiên cứu gợi ý khả năng phát hiện được các mạch đá ngọc Tremolite nephrite trong các dãy núi đá vôi ở khu vực Tràng Kênh”.
29
4
Dấu vết lúa gạo mới phát hiện ở miền Bắc Việt Nam
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
“Bài báo đề cập đến một số phát hiện về những hạt thóc gạo ở di chỉ Thành Dền, huyện Mê Linh, Hà Nội (niên đại khoảng 3.000 BP), trong ngôi mộ gạch thời Lục Triều ở Ciputra, huyện Từ Liêm, Hà Nội (thế kỷ IV - VI) và đàn Xã Tắc, quận Đống Đa, Hà Nội (thế kỷ X). Thông qua phân tích hình thái các hạt lúa gạo và nghiên cứu so sánh, tác giả bước đầu xác định quá trình phát triển của các dạng lúa trồng ở Việt Nam và gợi mở khả năng liên quan đến các hoạt động sử dụng ngũ cốc trong nghi lễ mai táng thời bấy giờ trên vùng đất Thăng Long xưa”.
40
5
Đền Hindu ở Ấn Độ và trong văn hóa Óc Eo
ĐẶNG VĂN THẮNG
“Bài báo giới thiệu những nét cơ bản về hệ thống đền Hindu ở Ấn Độ với đặc điểm kiến trúc, hệ thống thờ thượng thần, thực hành nghi lễ và một số khác biệt về đền thờ Hindu giữa Bắc Ấn và Nam Ấn.
Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Hindu nên kiến trúc và hệ thống nghi lễ thờ cúng có nhiều điểm tương đồng , tuy nhiên cũng có những nét riêng biệt. Tác giả mô tả và hệ thống hóa các đền Hindu trong văn hóa Óc Eo, qua đó phân loại chúng qua các dạng kiến trúc như: đền không có mái che, đền có mái che và đền xây dựng bằng gạch, đá. Hệ thống biểu tượng hay tượng thờ trong đền có thể là thần Mặt trời, tượng Shiva hay Visnu gắn với tín ngưỡng Ấn độ giáo của cư dân văn hóa Óc Eo suốt từ thế kỷ I đến thế kỷ XII AD”.
51
6
Nhận diện La Thành (Thăng Long) qua kết quả khai quật đê Bưởi
NGUYỄN DOÃN VĂN
La thành Thăng Long là vòng thành ngoài cùng của thành Thăng Long. Từ cuối năm 2012 đến cuối năm 2015, Ban quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội và Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật, nghiên cứu trên diện tích 1.600m24 địa điểm Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn và Bưởi trên đường đê Bưởi, Hà Nội. Địa tầng xuất lộ qua các hố khai quật cho thấy dấu vết các lớp đất đắp đê – thành thuộc nhiều thời kỳ từ thời Đại La qua thời Lý – Trần đến thời Lê sơ. Các di tích và di vật phát hiện được gồm mộ táng, lò nung vật liệu xây dựng, gạch, ngói, đồ gốm sứ…là chứng tích về một công trình kiến trúc khá quy mô tồn tại gần 10 thế kỷ trong lịch sử.
Cùng với các công trình kiến trúc khác, La thành Thăng Long là một phần diện mạo của Kinh đô Thăng Long trong lịch sử, là một trong những niềm tự hào của lịch sử dân tộc, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của một dân tộc sau hàng ngàn năm Bắc thuộc”.
63
7
Di vật tùy táng phát hiện trong một số lăng mộ thời Nguyễn ở Nam Bộ
LƯƠNG CHÁNH TÒNG
“Bài báo giới thiệu khá chi tiết về các đồ tùy táng phát hiện được trong các lăng mộ thời Nguyễn ở Nam Bộ. Qua đó cho thấy, mức độ đồ sộ về số lượng, sự phong phú về loại hình, kiểu dáng và chất liệu của các di vật này. Chúng bao gồm các loại triều phục, đồ trang sức, đồ dùng sinh hoạt… bằng các loại chất liệu vàng, bạc, đồng, đá quý, đồ sứ… Đồ tùy táng trongcác  lăng mộ phản ánh địa vị xã hội và đời sống sinh hoạt của các quan lại cao cấp của xã hội đương thời. Nghiên cứu các đồ tùy táng trong lăng mộ góp phần tìm hiểu về quan chế, trang phục, kinh tế xã hội dưới thời Nguyễn ở Nam Bộ”.
74
8
Tín ngưỡng nông nghiệp của người Thái ở NGệ An và Thanh Hóa
LÊ HẢI ĐĂNG
“Ở Việt Nam, người Thái cư trú tập trung ở các tỉnh Tây Bắc và miền Tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Do cư trú ở vùng thung lũng, người Thái sinh sống dựa vào canh tác nông nghiệp, chủ yếu là lúa nước. Người Thái tổ chức nhiều nghi thức, lễ cúng trời đất, thần linh để cầu cho mùa màng bội thu, người yên vật thịnh. Và khi kết thúc mùa vụ, người Thái lại tổ chức lễ tạ ơn thần linh để tỏ lòng thành kính và cảm tạ sự bảo hộ của đấng siêu nhiên. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tìm hiểu một số nghi lễ cầu mùa cơ bản và ý nghĩa của chúng trong bối cảnh văn hóa của cộng đồng người Thái. Các nghi lễ đó là: Lễ cầu mưa, lễ xuống giống (gieo cấy), lễ cúng ruộng đồng, lễ cúng làm đòng (ngô/lúa ra hoa), lễ trừ sâu bệnh, nghi lễ thu hoạch và bảo quản, lễ cơm mới, lễ hiến tế trâu…
Các nghi lễ, nghi thức cầu cúng không chỉ là niềm tin tuyệt đối với đấng siêu nhiên, mà còn thể hiện tâm lý, tình cảm và tín ngưỡng vạn vật hữu linh tồn tại đến tận ngày nay. Trong đó có nhiều điểm tích cực là hướng con người đến cuộc sống ấm no hạnh phúc, yêu thiên nhiên, yêu đồng loại và đặc biệt là tinh thần cố kết cộng đồng bền chặt, cần được gìn giữ, phát huy”.
93

CONTENTS
 
No   Page
1
About ancient human bones from Bàu Dũ site (Quảng Nam provice) in 2014 excavation
NGUYỄN LÂN CƯỜNG
“The Bàu Dũ site is located on a mollusc-shell mound at Phú Trung hamlet, Tam Xuân 1 commune, Núi Thành district, Quảng Nam province. This site was discovered in 1981 and first excavated in 1983, and three burials were found then. In 2014, the provincial Museum of Quảng Nam conducted the second excavation and found 6 more burials/human bones. The Bàu Dũ site was 14C-dated to 5330±60 BP.
This paper announces the results of the on-site observation, the description of the burial custom, the anthropometric indexes, the pathological identification, and the anthropological identification of the burials/human bones from the Bàu Dũ site.
As a result, the author supposes that most of the bones in sitting position - the main burial type of the inhabitants of the Hòa Bình, Quỳnh Văn and Đa Bút cultures. The bones from the burial coded 14HDHIL5M4 demonstrate the custom of extracting 4 incisors of the lower jaw. Based on the relevant coefficient Q-mode, the ancient skulls (female) from the Bàu Dũ site are the closest to the ones of the Hòa Bình culture”.
3
2
Excavation results from Hòn Ngò site (Quảng Ninh privice) in 2014
LƯU VĂN PHÚ, TRỊNH HOÀNG HIỆP, NGUYỄN THƠ ĐÌNH
 “The Hòn Ngò site is located in a tidal beach near the estuary of the Hà Thanh river, which belongs to the Unit 5, Hà Tràng Đông hamlet, Đông Hải commune, Tiên Yên district, Quảng Ninh province. The first excavation was conducted at the southern side of the site in 2014 in the 200m2 area (with 8 excavated trenches).
The cultural layer of the Hòn Ngò site was destroyed, and the artifacts were found on the site or in an alluvial muddy layer. The artifacts are mainly chopped stone tools with a popular type of pointed tools, a few ground tools and some early coarse potsherds from the lower layer of the Cái Bèo site.
This collection of the artifacts has been identified from the middle Neolithic period with two stages: c.7,000 BP - 6,000 BP and 4,500 BP. This site was closely related to the Cái Bèo site (the lower layer), the Thoi Giếng site (the lower layer) and some other coastal sites of Guangxi province (China), near Quảng Ninh province”.
17
3
Initial results of the research on stone artifacts from Tràng Kênh, Hải Phòng, Northern Việt Nam
YOSHIYUKI IIZUKA, TOMOMI SUZUKI, EMILYMIYAMA, NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG, MAROKO YAMAGATA
 “The Tràng Kênh site is located to the south of the Núi Ao Non site near the estuary of the Thái river in Hải Phòng city. The site was excavated the third time at the Section B in 1997 by the Việt Nam Institute of Archaeology and the Chinese University of Hongkong. According to the report from Nguyễn Kim Dung and Sang Zhong (2000), many potsherds and stone artifacts were found from the lower layer of the excavated trench.
In this report, the authors introduces the results from the study on minerals and the use of SEM-EDS (Scanning electron microscope with X-ray energy dispersive techniques) without interfering the 22 samples of the bracelet cores considered to be from the jade resource of the Tràng Kênh site. The analysis shows that the samples are nephrite and can be divided into 2 groups of tremolite and actinolite minerals. Of which white Tremolite nephrite accounts for the most at the Tràng Kênh site.
The research into the source of nephrite indicates that the Taiwan actinolite nephrite (green) was found in Philippines, Borneo, the central and southern Việt Nam and the Thai peninsular, but it has never been found in Northern Việt Nam. The researchers suggest the possibility to find Tremolite nephrite from the limestone mountains in the Tràng Kênh area”.
 
29
4
Rice traces at some archaeological sites in Northern Việt Nam
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
The paper refers to some discoveries of burnt rice seeds from the Thành Dền site, Mê Linh district, Hà Nội (c.3,000 BP), in the brick tomb from the period of the Six Dynasties at Ciputra, Từ Liêm district, Hà Nội (the fourth - sixth centuries) and Xã Tắc Altar, Đống Đa distirct, Hà Nội (the tenth century). Based on the analysis of the burnt rice and the comparative research, the author initially identified the development process of the rice grown in Việt Nam and suggests the possibility related to the activities with the use of cereals in the burial ceremony at that ime in the ancient Thăng Long land”.
 
40
5
Hindu temples in India and Óc Eo culture
ĐẶNG VĂN THẮNG
“The paper introduces the main features of the system of Hindu temples in India, with the architectural features, the system of top deity altars, the practice of ritual ceremonies and some differences of the Hindu temples between northern and southern India.
The Óc Eo culture was affected by the Hindu culture; therefore their architect and the systems of cultive ceremonies share many similarities, but also include different features. The author has described and systematized the Hindu temples in the Óc Eo culture, through which he has classified them in terms of architectural types: the temple with roofs, the temple without roofs and the brick, stone ones. The symbolic system or the statues in the temples might be the solar deity, Shiva or Vishnu closely related to Hinduism for the Óc Eo-culture inhabitant from the first century to the twelveth century AD”.
 
51
6
Indentification of La citadel (Thăng Long) excavation results from Đê Bưởi site
NGUYỄN DOÃN VĂN
The La citadel is the outer one of the Thăng Long citadel. From the end of 2012 to the end of 2015, the Management Department of Relics and Landscapes of Hà Nội and the Việt Nam Institute of Archaeology conducted an excavation and research on the 1,600m2 area including the 4 sites at Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn and Bưởi on the Bưởi-dike road, Hà Nội. The strata exposed in the excavated trenches reveal traces of the dike-citadel layers from the Đại La period through the Lý - Trần ones to the early Lê period. The found relics and artifacts include burials, kiln for making building materials such as bricks, tiles and ceramics/porcelain, etc., which are the evidence of a fairly large-scale architectural monument existing for nearly 10 centuries in the history.
Cùng với các công trình kiến trúc khác, La thành Thăng Long là một phần diện mạo của Kinh đô Thăng Long trong lịch sử, là một trong những niềm tự hào của lịch sử dân tộc, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của một dân tộc sau hàng ngàn năm Bắc thuộc”.
63
7
Funeral goods found in some mausoleums from Nguyễn period in Southern Việt Nam
LƯƠNG CHÁNH TÒNG
“The paper introduces the accompanied goods found from the Nguyễn-period mausoleums in southern Việt Nam in details. This demonstrates the imposing level of the quantity, the rich forms and materials of these artifacts. They include the royal outfits, ornaments, daily utensils, etc., made of such materials as gold, silver, precious stones, bronze, porcelain, etc. the accompanied good in the mausoleums reflect the daily life of the high-ranking mandarins of the contemporary society. The research into these goods contributes to better awareness of the civil service system, dress codes, and the social economy in the Nguyễn period in southern Việt Nam.
 
74
8
Agricultural beliefs of Thái minority in Nghệ An and Thanh Hóa province
LÊ HẢI ĐĂNG
“In Việt Nam, the Thái minority focally live in Tây Bắc provinces and the western areas of Thanh Hóa and Nghệ An provinces. Due to their settlements in the valleys, they live on agricultural cultivation, mainly wet rice. They hold many ceremonies for praying the heaven/earth and deities to ask for good crops and peaceful and wealthy life. And after the farming seasons, they hold the thanksgiving ceremony to express their gratitude to the protection of the super naturals. In this paper, the author presents his study of some basic ceremonies for good seasons and their significance in the cultural context of the Thái communities. These ceremonies are for raining, cultivation, praying fields, praying for maize/rice to blossom, praying for elimination of pests/insects, harvesting and maintenance, new rice, buffalo sacrifice, etc.
The praying ceremonies and rituals not only demonstrate the absolute beliefs in the super naturals, but also show psychological, sentiment expressions and beliefs in living beings/spirits until now. In which there are many positive points such as leading human beings to a well-off and happy life, loving nature, loving fellow-creatures and especially the spirit of strengthening the steadfast communities that need to be valorized and brought into full play”.
93
TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ
61- Phan chu trinh - Hà Nội
Tel: 04. 39330732, Fax: 04. 9331607
Email: tapchikhaoco@gmail.com
 
 
Ở nước ta, có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó người Kinh chiếm số đông hơn cả, ở đồng bằng và đô thị, còn 53 dân tộc ít người khác còn lại, phần lớn sinh sống ở miền núi, mỗi dân tộc có một bộ trang phục truyền thống riêng, 54 dân tộc với 54 bộ trang phục với dáng vẻ, màu sắc, chất liệu khác nhau tạo nên nét độc đáo, đa dạng của dân tộc Việt Nam.
 

Cuốn sách với 15 chương, là tập hợp các trang phục của tất cả các dân tộc, trải qua các thời đại từ thời dựng nước đến thời phong kiến, thời thuộc Pháp, từ năm 1945 cho đến nay. Tác giả chia ra các nhóm dân tộc chính như: ở chương 2 thì nói về trang phục của dân tộc Kinh bao gồm trang phục của người Kinh Bắc, của người Huế (Kinh ở Trung Bộ) và của người Kinh ở Nam Bộ; chương 3 với trang phục của dân tộc Mường ở cả nam giới và nữ giới; chương 4 là trang phục của dân tộc Tày - Nùng; chương 5 với trang phục của dân tộc Thái; chương 6 là trang phục của dân tộc Dao; chương 7 là trang phục của dân tộc Mông; chương 8 là trang phục của dân tộc Tạng - Miến bao gồm dân tộc Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, Là Hủ, Cống, Si La; chương 9 là trang phục của nhóm dân tộc ở miền núi phía Bắc; chương 10 trang phục của nhóm dân tộc ở Tây Nguyên; chương 11 là trang phục của dân tộc Chăm; chương 12 trang phục của dân tộc Khơ me ở Nam Bộ; chương 13 là trang phục của dân tộc Hoa.
Nội dung cuốn sách đã đi sâu tìm hiểu diện mạo và những nét tiêu biểu của trang phục của từng vùng, từng nhóm dân tộc, thậm chí là những dân tộc cụ thể.
Ngô Thị Nhung

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9027561
Số người đang online: 20