bia_14_so_4-_2016_copy.jpg
MỤC LỤC
STT   Tr
1
 
 
 
 
Có hay không lớp văn hóa Phùng Nguyên ở di chỉ Đình Tràng (Hà Nội)
LẠI VĂN TỚI
“Di chỉ Đình Tràng (thôn Đình Tràng, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội), Di chỉ được phát hiện năm 1969 và khai quật 8 lần với tổng diện tích là 776,25m2.
Từ cuộc khai quật lần thứ tư (1998), các nhà khảo cổ học đã nhận ra sự tồn tại rõ ràng của lớp văn hoá Phùng Nguyên dày 60cm. Đặc trưng của lớp văn hoá Phùng Nguyên ở Đình Tràng là nằm trên lớp sinh thổ màu vàng có bề mặt lồi mõm, đất trong tầng văn hoá màu nâu sẫm, tơi xốp chứa di tích mộ táng và bếp lửa. Di vật gồm đồ đá, đồ gốm, một vài di vật và vết tích đồ đồng.
Căn cứ vào cấu tạo địa tầng, diễn biến của hệ thống di tích, di vật,  cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã xác định di chỉ Đình Tràng có 4 lớp văn hoá phát triển liên tục từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, qua giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun đến giai đoạn văn hoá Đông Sơn. Quá trình phát triển này diễn ra khoảng 1.500 - 2.000 năm trước Công nguyên đến một hai thế kỷ trước sau Công Nguyên”.
3
2 Văn hóa Phùng Nguyên - tầm tỏa rộng
HOÀNG XUÂN CHINH
“Cho đến nay đã có khoảng 70 di tích văn hóa Phùng Nguyên được phát hiện. Hầu hết các nhà khảo cổ học đều thống nhất cho rằng, các di tích văn hóa Phùng Nguyên phân bố chủ yếu tại các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội và Bắc Ninh. Đây là vùng đất chuyển tiếp từ trung du xuống đồng bằng châu thổ sông Hồng. Có thể nói, vùng trung du và đồng bằng cao châu thổ sông Hồng là địa bàn gốc của cư dân văn hóa Phùng Nguyên.
Vết tích văn hóa Phùng Nguyên - qua đồ đá và đồ gốm - còn tỏa rộng ra các vùng xung quanh địa bàn gốc. Từ trung tâm văn hóa Phùng Nguyên ở trung du đồng bằng châu thổ sông Hồng đã lan tỏa ra khắp Bắc Bộ, từ vùng núi xuống vùng ven biển và vào tận Bắc Trung Bộ. Sự lan tỏa của văn hóa Phùng Nguyên  ra các vùng với các mức độ khác nhau, trong đó, cường độ lớn nhất, rõ ràng nhất là lan tỏa ra hướng đông và hướng nam làm cho các di tích, các nhóm di tích ở các khu vực đó có nhiều nét gần gũi với văn hóa Phùng Nguyên, thậm chí có nhóm còn được xem là loại hình địa phương của văn hóa Phùng Nguyên.
Có thể thấy sức sống mạnh mẽ của văn hóa Phùng Nguyên qua mức độ ảnh hưởng cũng như mối giao lưu văn hóa giữa văn hóa này với các văn hóa cùng thời là rất mạnh mẽ, phong phú và phức tạp, trong đó bao gồmg các hoạt động trao đổi sản phẩm, kỹ thuật và cũng có thể là sự chuyển cư, phát tán của một bộ phận nhỏ cư dân văn hóa Phùng Nguyên ra các vùng xung quanh”.
 
117
3 Kiến trúc trường tồn, thể chế bền lâu: lao động, đô thị hóa, hình thái nhà nước sớm ở Bắc Việt Nam và xa hơn
NAM C. KIM
“Tường thành Cổ Loa vẫn sừng sững như một bằng chứng lặng lẽ cho quyền lực của một xã hội phân tầng tồn tại trong các thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên của châu thổ sông Hồng. Với việc xây dựng thành lũy này trong thế kỷ III BC, những người sáng lập chính thể này đã sở hữu quyền lực chính trị tập trung theo một trật tự chưa từng thấy trong vùng. Với quy mô xây dựng đồ sộ, Cổ Loa là một mẫu hình đặc biệt mang tính lịch sử và địa phương về đô thị hóa và quyền lực chính trị ra đời trong những thế kỷ trước khi các chính thể đô thị hóa được ghi chép về mặt lịch sử mang tính kinh điển của Đông Nam Á.
Cổ Loa vì vậy cho thấy những biểu hiện bên ngoài của một xã hội cấp nhà nước sớm, một xã hội mà được ghi dấu bởi sự lâu bền của quyền lực tập trung và kiểm soát về chính trị, một kết cấu chính trị xã hội đa thế hệ tiềm ẩn các xung đột và chiến tranh. Việc xây dựng kiến trúc hoành tráng của trung tâm đô thị có lẽ đòi hỏi một mức độ nào đó việc sử dụng lao động khổ sai (ép buộc) cũng như chứng tỏ sức mạnh của cải vật chất mà người nắm quyền lực sở hữu. Nói chung, việc xây dựng của một địa điểm đô thị cho thấy một cơ cấu chính trị phân tầng mà những người cầm quyền phải có được một lực lượng quân sự để giành được và duy trì trật tự của nó”.
 
225
4 Khai quật lần thứ hai di tích chùa Lang Đạo (Tuyên Quang)
TRẦN ANH DŨNG
“Di tích chùa cổ Lang Đạo thuộc thôn Tân Hồng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc khai quật chữa cháy lần thứ nhất tại khu di tích kiến trúc này đã được tiến hành vào năm 2012. Đợt khai quật lần thứ hai được tiến hành trong năm 2015 đã có thêm những phát hiện và nhận thức mới về khu di tích này. Kết quả khai quật đã làm xuất lộ 3 nền kiến trúc, các móng trụ kiến trúc, sân lát gạch cùng nhiều vật liệu kiến trúc và di vật. Niên đại của 3 kiến trúc ở di tích chùa Lang Đạo thuộc thời Trần nhưng cũng có một số thành phần kiến trúc được xây thêm vào thời Lê sơ.
Tuy nhiên, qua 2 đợt khai quật, vẫn còn có những điều chúng ta chưa biết như phạm vi và diện tích của các kiến trúc 2, 3; hệ thống móng trụ trong kiến trúc 3, phạm vi của sân lát gạch hoa chanh… cùng các mối quan hệ của các thành phần kiến trúc. Chùa Lang Đạo, có hay không có tam quan và các kiến trúc phụ khác như hành lang, nhà ở cho sư và Phật tử…? Điều đó đòi hỏi chúng ta tiếp tục mở rộng khai quật di tích này để tìm hiểu đầy đủ hơn về quy mô, bố cục của tổng thể di tích”.
 
372
5 Vài nét về hai ngôi chùa nội công ngoại quốc tại huyện Đan Phượng, Hà Nội
NGUYỄN THẮNG
 
689
6 Ngọc tỷ ấn vương triều Nguyễn
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN
 
895
 
 
CONTENTS
 
No   Page
1 ABOUT THE PHÙNG NGUYÊN - CULTURE LAYER                                 AT THE ĐÌNH TRÀNG SITE (HÀ NỘI)
LẠI VĂN TỚI
The Đình Tràng site (Đình Tràng hamlet, Dục Tú commune, Đông Anh district, Hà Nội city)  was discovered in 1969 and excavated 8 times with the total area of 776.25m2.
From the fourth excavation (1998), the archaeologists identified the clear existence of the Phùng Nguyên-culture layer that is 60cm thick. The characterictics of this layer at the Đình Tràng site are its location on the yellow sterile layer with a convexo-concave surface; the soil in the cultural layer is dark brown and friable with traces of burials and firing places. The found artifacts include stone tools, ceramics, some other artifacts and traces of bronze ones.
Based on the stratigraphical composition and the system of the sites and artifacts to date, the arhaeologists have identified that the Đình Tràng site exhibit 4 cultural layers which developed uninterruptedly form the Phùng Nguyên-culture period, through the periods of the Đồng Đậu, Gò Mun cultures to the Đông Sơn-culture period. This development happened from around 1,500 BC- 2,000 BC to one or two centuries BC and AD.
 
3
2 PHÙNG NGUYÊN CULTURE - WIDESPREAD SCOPE
HOÀNG XUÂN CHINH
To date, about 70 sites from the Phùng Nguyên culture have been found. Most of the archaeologists all agree that the Phùng Nguyên-culture sites are all located in the provinces of Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội and Bắc Ninh. These are transition lands from midland to the delta of the Hồng River, which were the original location of the Phùng Nguyên-culture inhabitants.
The vestiges of the Phùng Nguyên culture - through the stone and bronze artifacts - were also widespread in the vicinity of the original location. From the centre of the Phùng Nguyên culture in the midland and the delta of the Hồng River, the Phùng Nguyên culture was spread to all over northern Việt Nam, from the mountainous to the coastal area and even to the northern part of central Việt Nam. The spread of the Phùng Nguyên culture to other areas at various levels, in which the greatest and clearest intensity was the spread towards the east and the south, and made the sites and site groups in those areas share many similar features to the Phùng Nguyên culture, some of the groups are even considered to be the local type of this culture.
The vitality of the Phùng Nguyên culture through the influence and the cross -cultural contacts between this culture and the other contemporary cultures is actually very strong, rich and complicated, which include the exchange of products, technology and possibly the migration
 
617
3 Lasting Monuments and Durable Institutions:                                                 Labor, Urbanism, and Statehood in Northern VIỆT NAM AND BEYOND
NAM C. KIM
Archaeological research on monumentality, early urbanism, and emergent statehood in Southeast Asia and Vietnam has grown dramatically in recent years, and our understanding of social evolution in Southeast Asia has moved beyond traditional models of Sinicization and Indianization. Although many researchers recognize the significance of the historic and classical states of the first and second millennia AD, the seeds of statehood and urbanism can be seen in a moated settlement pattern during the first millennium BC. The largest in this category of Iron Age settlements, the heavily fortified Co Loa site in Vietnam’s Red River Valley, is emblematic of a tradition of settlements marked by earthworks and moat systems. The scale and extent of Co Loa’s massive earthen rampart system, involving a complex construction enterprise, reflect planning and implementation by a highly centralized, multigenerational, and institutionalized authority. Dating to the last centuries BC, Co Loa represents one of the earlier ancient state-level societies in Vietnam and the wider Southeast Asian region. Ultimately, the durability of Co Loa’s institutions of power and governance is suggested by the nature of its rampart system and construction process, and a package of variables contributed to emergent complexity. In particular, the presence of a monumental system of defensive works, combined with other archaeological markers for intraregional competition and violence, underscores the potential role of warfare and physical coercion in the course of political centralization.
 
225
4 SECOND EXCAVATION AT LANG ĐẠO PAGODA
(TUYÊN QUANG PROVINCE)
TRẦN ANH DŨNG
The ancient Lang Đạo pagoda is located at Tân Hồng hamlet, Tú Thịnh commune, Sơn Dương district, Tuyên Quang  province. The first emergency excavation at this site was conducted in 2012. The second excavation in 2015 resulted in more new discoveries and perception of this site. The excavation results include the findings of 3 architectural foundations, pillar bases, brick yard and many architectural materials and artifacts. These three architectural foundations are from the Trần period, but some other architectural components were additionally built in the early Lê period.
However, through the two excavations, there are many unsolved problems such as the scopes and areas of the second and third architectures; the system of pillar bases of the third architecture; the scope of the lemon-flower-shaped brick yard, etc., and the relations of the architectural components. Whether the Lang Đạo pagoda was composed three gates and other ancillary facilities such as lobby, accommodation for Buddhist priests and monks? We need to expand the excavation area of this site to continue research on the scale, overall outline of this site.
 
372
5 SOME FEATURES OF THE TWO PAGODAS
IN ĐAN PHƯỢNG DISTRICT, HÀ NỘI
NGUYỄN THẮNG
The paper refers to the two pagodas with the architectural plane in 工-shape (inside) and 口-shape (surrounding) in Đan Phượng district, Hà Nội city.
- The first pagoda is Đôi Hồi pagoda, which was built in the Trần period and extended and reconstructed for many times in the Lê Trung hưng period. However, the architecture and composition of the Buddhist altars nowadays exhibit the style of the nineteenth century and later. Apart from the system of worshipping statues, there are many other valuable ancient artifacts such as bronze bells, stone stelea, etc. The oldest stele was built in the Mạc period (1588); two other ones were built in the Lê Trung hưng period (1688 and 1704).
- The second pagoda is Hải Giác pagoda, which might have been built in the Lý period and experienced through many times of reconstruction. The present architecture and composition of the Buddhist altars exhibit the style of the Nguyễn period and later. In the pagoda, there are stone stelea built in the Lê Trung hưng period and a wooden cultic tablet from the seventeenth century.
 
389
6 ROYAL JADE SEALS FROM THE NGUYỄN PERIOD
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN
The royal jade seals from the Nguyễn dynasty were used by the Kings and his family, which were made of gold, silver, jade, etc.
The royal seals were sculptured and ground and made of various types of jade, but normally emerald, opal or aquamarine jade. The jade seals of the Nguyễn dynasty were mainly made from the Minh Mạng period to Tự Đức time. As they were made of rare and precious stones, they are much less in quantity than the ones made of metal.
The royal seals are the invaluable of Vietnamese nation. They serve as very important historical evidence for the Vietnamese history and culture. 
 
 
495
 
TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ
61- Phan chu trinh - Hà Nội
Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607
Email: tapchikhaoco@gmail.com
 
 

bia_14_so_3_-_2016.jpg.ok.jpg Tạp chí Khảo cổ học số 3 – 2016
Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm
MỤC LỤC
STT   Tr
1
 
 
 
 
Bài phát biểu của Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại buổi thăm và làm việc với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (ngày 18-5-2016)
TRẦN ĐẠI QUANG
3
2 Diễn văn của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18-5-2016
NGUYỄN QUANG THUẤN
16
3 Khai quật di chỉ hang Mang Chiêng, Vườn Quốc gia Cúc Phương
NGUYỄN GIA ĐỐI, LÊ HẢI ĐĂNG,
PHAN THANH TOÀN,  A.KANDYBA
“Hang Mang Chiêng thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa và nằm trong khu vực trung tâm rừng Quốc gia Cúc Phương.
Di tích được phát hiện năm 2009 và được Viện Khảo cổ học, Viện Khảo cổ - Dân tộc học Viện HLKH Nga tại Novosibirsk phối hợp với Sở VHTT&DL tỉnh Thanh Hóa khai quật hai lần vào năm 2011 và 2012 với hai hố, mỗi hố rộng 6m2.
Tầng văn hóa tiêu biểu của di chỉ dày trên 1m, cấu tạo gồm ba lớp. Các di tích xuất lộ chủ yếu gồm vỏ ốc núi/ốc suối, di cốt động vật, mộ táng/di cốt người và các cụm chế tác đá. Di vật đá khá phong phú được làm bằng đá cuội và một tỷ lệ khá cao làm bằng đá vôi. Loại hình công cụ đá bao gồm những công cụ ghè đẽo truyền thống kiểu chopper, những công cụ kiểu văn hóa Hòa Bình, công cụ mảnh tuớc và mảnh tuớc, rất hiếm rìu mài. Khung niên đại của di chỉ nằm trong khoảng từ trên 12.000 đến khoảng 7.000 năm cách ngày nay.
 Di chỉ hang Mang Chiêng về mặt hình thái cư trú, kiếm sống và kỹ nghệ đá mang tính chất văn hóa Hòa Bình. Giá trị nổi bật của di chỉ này là có một địa tầng ổn định, rõ ràng, minh chứng quá trình biến đổi khí hậu, môi trường cũng như tiến triển văn hóa của cư dân tiền sử từ cuối Pleistocene đến đầu Holocene ở khu vực này”.
29
4 Hệ thống các di tích Đá mới ở vùng núi Nghệ An: Tư liệu và thảo luận
NGUYỄN KHẮC SỬ, PHAN THANH TOÀN
“Vùng núi Nghệ An gồm 10 huyện với diện tích khá lớn. Các di tích khảo cổ trong hang động được người Pháp phát hiện từ những năm 30s của thế kỷ XX. Hơn nửa thế kỉ qua, ở vùng này đã phát hiện hàng chục di tích tiền sử. Năm 2015, triển khai Nhiệm vụ cấp Bộ: Nghiên cứu hệ thống các di tích khảo cổ hang động miền núi tỉnh Nghệ An, Tác giả và cộng sự đã thẩm định các di tích hang động phát hiện trước đó và phát hiện mới 24 di tích khác.
Các di tích khảo cổ học tiền sử ở vùng núi Nghệ An bao gồm các di tích cổ sinh/cổ nhân và Đá cũ, các di tích thuộc văn hóa Hòa Bình và các di tích thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới – sơ kỳ Kim khí.
Hệ thống di tích khảo cổ học tiền sử ở vùng núi Nghệ An rất phong phú và có vị trí quan trọng tiến trình phát triển văn hóa tiền sử  ở khu vực Bắc Trung Bộ và khu vực Trung – Thượng Lào”.
322
5 Di chỉ Bãi Cát Đồn trong hện thống văn hóa Hạ Long trên đảo Cát Bà (Hạ Long)
BÙI THỊ THU PHƯƠNG
332
6 Các giai đoạn phát triển của văn hóa Đồng Đậu
BÙI HỮU TIẾN
440
7 Sức sống Đông Sơn qua tư liệu trống đồng
NGUYỄN GIANG HẢI
“Văn hóa Đông Sơn được các nhà khoa học định niên đại vào khoảng thế kỷ VII trước Công Nguyên đến thế kỷ I-II sau Công Nguyên. Từ khi nhà Hán áp đặt sự thống trị ở nước ta (từ năm 111 trước Công Nguyên), với chính sách đồng hóa khốc liệt của đế chế Hán, văn hóa Đông Sơn đã bị hủy diệt một phần lớn. Tuy nhiên, bản sắc và sức sống văn hóa Đông Sơn vẫn được gìn giữ bền bỉ ở đâu đó trong cơ tầng văn hóa Việt. Bài báo đề cập đến những chứng cứ về việc tiép tục đúc và sử dụng trống đồng theo truyền thống văn hóa Đông Sơn trong thời kỳ nhà Hán thống trị  (trống Cổ Loa, trống làng Vạc, khuôn đúc trống ở Luy Lâu) cũng như trong các triều đại thuộc kỳ nguyên Đại Việt sau này (trống loại II – trống Mường). Ngoài ra sức sống của văn hóa Đông Sơn còn thể hiện qua những hiện vật mang tính tiếp biến văn hóa Hán – Việt cũng như các di tích thờ cúng và các thực hành nghi lễ liên quan đến trống đồng”.
653
8 Giao lưu thương mại Đông - Tây qua đồ trang sức văn hóa Sa Huỳnh
NGUYỄN KIM DUNG, ĐẶNG NGỌC KÍNH,
PHẠM THỊ NINH, LÊ HẢI ĐĂNG
Tư liệu đồ trang sức trong các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh cho thấy sự đa dạng về loại hình, chất liệu và cả kỹ thuật chế tạo. Những khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai ba mấu đá ngọc hay thủy tinh của văn hóa Sa Huỳnh mặc dầu là biểu tượng của văn hóa này nhưng không chỉ được sử dụng trong nội bộ cộng đồng Sa Huỳnh mà đã có mặt ở các vùng khác nhau tại Đông Nam Á, trong đó đáng chú ý nhất là ở Philippines và Thailand.
Cũng trong loại hình khuyên tai ba mấu và khuyên tai hai đầu thú nhưng ở chất liệu thủy tinh, đã thấy chúng có mặt ở một số nơi rất xa, ngoài Sa Huỳnh như Đông Sơn phía Bắc Việt Nam (Đồng HớiBãi Cọi), U Thong (Thailand) Sam Rong Sen (Campuchia), Tabon và Batangas (Phillippines)...
Hầu hết các sưu tập hạt chuỗi, kể cả thủy tinh, đá quý các loại cho đến vàng ở Sa Huỳnh đều là các sản phẩm thương mại. Cho dù được sản xuất tại chỗ hay nhập khẩu thì những di vật này cũng tham gia vào các kênh” trao đổi buôn bán trong giai đoạn văn hóa Sa Huỳnh và trong khu vực Đông Nam Á, xa hơn nữa là Ấn Độ và Trung Cận Đông”.
760
9 Mộ hợp chất thời Nguyễn ở Nam Bộ
PHẠM ĐỨC MẠNH
“Trong bài báo này, tác giả đã thống kê 518 mộ hợp chất (mummified burial) thuộc thời Nguyễn ở Nam Bộ. Từ kết quả các cuộc thám sát, khai quật và nghiên cứu so sánh, tác giả đã đề cập đến các vấn đề về vật liệu xây dựng, đặc điểm kiến trúc, cách thức mai táng, đồ tùy táng…,chỉ ra những đặc trưng của loại hình mộ hợp chất ở Nam Bộ.
Ngoài ra, thông qua bia mộ, tác giả còn thống kê tên quốc hiệu các triều đại thời Nguyễn ở Nam Bộ, tên các dòng họ người Hoa di cư đến Nam Bộ và đặc biệt là tên các dòng họ người Việt ở thời kỳ này ở Nam Bộ”.
680
 
CONTENTS
 
No   Page
1 The speech of the President of the Socialist Republic of Việt Nam on the visit and work with the Việt Nam Academy of Social Sciences (18 May 2016)
TRẦN ĐẠI QUANG
3
2 The speech of the President of the Việt Nam Academy of Social Sciences on the occasion of the day of Vietnamese Sciences and Technology (18 May 2016)
NGUYỄN QUANG THUẤN
 
66
3 Excavation at Mang Chiêng cave site , Cúc Phương National Garden
NGUYỄN GIA ĐỐI, LÊ HẢI ĐĂNG,
PHAN THANH TOÀN, A.KANDYBA
The Mang Chiêng Cave site is located at Thành Yên commune, Thạch Thành district, Thanh Hóa province and in the central area of Cúc Phương National Garden.
The site was discovered in 2009 and excavated twice in 2011 and 2012 with two excavated trenches that was  6m2 each, by the collaboration of Việt Nam Institute of Archaeology, the Institute of Archaeology – Ethnology of Russia Academy of Sciences in Novosibirsk and the Department of Information and Tourism of Thanh Hóa province.
The typical cultural stratum is over 1m thick, which is composed of three layers. The found relics are mainly mountainous/stream snail shells, animal bones, burials/human bones and clusters of stone tools. The stone tools are fairly rich, which were made of pebble stones and limestones that accounts for fairly high level. The stone tools include traditional choppers, tools with the Hòa Bình-culture style, flakes tools and flakes, and a few ground axes. The chronological frame of the site is from c.12,000 BP to 7,000 BP.
 The Mang Chiêng cave site has characteristics of the Hòa Bình culture in terms of residence morphology, living style and stone industry. The outstanding features of this site are a clear and stable stratum, demontrating the period of climate and environmental changes and the cultural evolution of the prehistorical inhabitants from late Pleistocene to Holocene in this area”.
29
4 System of Neolithic sites in Nghệ An mountainous area: Data and discussion
NGUYỄN KHẮC SỬ, PHAN THANH TOÀN
“The Nghệ An mountainous area is composed of 10 districts with a fairly large area. The archaeological cave sites were found by the French in 1930s of the twentieth century. For over the past century, there have been over tens of prehistoric sites found in this area. In 2015, implementation of the Ministerial project: Research into the system of the archaeological cave sites  in the Nghệ An mountainous area, the author and his colleagues have investigated the cave sites found previously and discovered other 24 sites.
The Prehistorical sites in the Nghệ An mountainous area include Paleobiology/paleoanthropology, Paleolithic sites and the Hòa Bình-culture sites from the late Neolithic – early Metal Age.
The system of the prehistorical sites in the Nghệ An mountainous area is very rich and it plays an important position in the development of the prehistorical cultures in the northern part of Central Việt Nam and the areas of Central – Upper Laos”.
322
5 BÃI CÁT ĐỒN SITE IN THE HẠ LONG-CULTURE SYSTEM
ON CÁT BÀ ISLAND (HẢI PHÒNG)
BÙI THỊ THU PHƯƠNG
The Cát Đồn site is located at Cát Đồn hamlet, Xuân Đám commune, Cát Hải district, Hải Phòng city. In 2003, the Việt Nam Institute of Archaeology and the provincial Museum of Hải Phòng conducted the first excavation at the site and in 2013, the Department of History, the University of Social Sciences and Humanity conducted the second excavation.
The cultural layer is about 80 - 100cm thick, with a simple composition, in which there are not any other relic types found.
The typical characteristics of the stone artifacts are grinding stones with the grooves like “Hạ Long mark”, small shouldered axes/adzes, and pebble pointed tools.
The ceramics are mainly spongy with the basic features of the Hạ Long-culture ones. They include some solid, reddish brown potsherds, with marked designs in combination with hollowly pressed or shell-pressed designs- the typical type of the Hoa Lộc culture.
 
332
6 DEVELOPMENT STAGES OF THE ĐỒNG ĐẬU CULTURE
BÙI HỮU TIẾN
The Đồng Đậu culture of the middle Bronze Age, which is dated to c.3,500BP - 3,000BP, belongs to the genealogy of the pre-Đông Sơn culture in the Hồng-river basin. So far, there have been 42 sites found the Đồng Đậu culture, which were distributed in the midland and plain areas of northern Việt Nam in Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, and Bắc Giang provinces. The data updated and synthetized from the excavation at the Thành Dền, Đồng Đậu sites and many other sites have highlighted the viewpoint that the existence of the Đồng Đậu culture includes 3 uninterrupted stages of development from the early one to the late one: the first stage - the transitional stage from the Phùng Nguyên culture to the Đồng Đậu culture; the second stage - the typical Đồng Đậu stage; the third stage - the transitional stage from the Đồng Đậu culture to the Gò Mun culture. The data serving as evidence are based on the changes of the stone tools, ceramics, bronze artifacts in combination with the stratigraphical data and the absolute dates.
 
440
7 Đông Sơn vitality through bronze drum data
NGUYỄN GIANG HẢI
“The Đông Sơn culture is dated to around the seventh century BC to the first - second AD centuries. Since the Hán dynasty dominated Việt Nam (from 111 BC), with the violent assimilation policies of the Han empire, the Đông Sơn culture has been much destroyed. However, the nature and vitality of the Đông Sơn culture has been still persistently preserved somewhere in the Vietnamese cultural structure. The paper refers to the evidence of the continued casting and using bronze drums as the  Đông Sơn-culture tradition in the Han-domination period (bronze drums of Cổ Loa, Vạc Loa and bronze casting moulds of  Luy Lâu) and in the later dynasties of the Đại Việt period (drums Herger II – Mường drums). In addition, the Đông Sơn-culture vitality is also shown through artifacts with Han – Vietnamese acculturation and the sites for worshipping and ritual practices associated with bronze drums”.
653
 
8 East - West trade interaction through Sa Huỳnh-culture ornaments
NGUYỄN KIM DUNG, ĐẶNG NGỌC KÍNH,
PHẠM THỊ NINH, LÊ HẢI ĐĂNG
“The data of the ornaments in the Sa Huỳnh culture demonstrate the variety of forms, materials and making technology. Although the two animals- headed and three-knobbed earrings made of jade or glass from the Sa Huỳnh culture, they were used not only in the Sa Huỳnh-culture community but also in other regions in Southeast Asia, remarkably in Philippines and Thailand.
The type of glass two animal- headed and three-knobbed earrings also appeared in remote areas outside Sa Huỳnh such as Đông Sơn in Northern Việt Nam (Đồng Hới and Bãi Cọi), U Thong (Thailand) Sam Rong Sen (Cambodia), Tabon and Batangas (Philippines), etc.
Most of the collections of beads made of glass, precious stones and even gold in Sa Huỳnh are all trade products. Whether they were locally made or imported, they were involved in the "exchange and trade channel" in the Sa Huỳnh-culture period, in Southeast Asia, India and Middle-Near East”.
560
9 Mummified burial from Nguyễn period
PHẠM ĐỨC MẠNH
“In this paper, the author introduces his statistics of 518 mummified burials from the Nguyễn period in Southern Việt Nam. From the results of the test-excavations, excavations and comparative research, he refers to the matters of building materials, architectural features, burial customs, funeral goods, etc., and states the characteristics of mummified burials in Southern Việt Nam.
In addition, through burial stelea, the author sums up the national names in the Nguyễn-dynasty periods in Southern Việt Nam, the names of the Chinese families immigrated to Southern Việt Nam, especially the Vietnamese family names”.
 
780
 
TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ
61- Phan chu trinh - Hà Nội
Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607
Email: tapchikhaoco@gmail.com
 
 
Chiều ngày 27/12/2016, tại Hà Nội, Câu lạc bộ Nhà báo Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tổ chức công bố kết quả cuộc bình chọn 10 sự kiện khoa học công nghệ nổi bật năm 2016 thuộc các lĩnh vực cơ chế chính sách, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, lĩnh vực tôn vinh các nhà khoa học.
Đối với lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn, việc phát hiện di tích thời đại đá cũ ở An Khê - Gia Lai được đánh giá là một trong mười sự kiện khoa học nổi bật. Bên cạnh đó, sự kiện tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ năm cũng được vinh danh.
309le-cong-bo-10-su-kien-khcn-2016.jpg
Lễ công bố 10 sự kiện khoa học tiêu biểu 2016 (Nguồn: khoahocphattrien.vn)
Đây là một di tích được nhận định thuộc thời đại Đá cũ ở thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai được các nhà khảo cổ học thuộc Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) phát hiện trong chương trình nghiên cứu hệ thống di tích khảo cổ học thời đại Đá thượng du sông Ba, tỉnh Gia Lai năm 2014. Tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện một số rìu tay.Theo những người khai quật, các rìu tay ở An Khê có nhiều nét tương đồng với rìu tay giai đoạn Đá cũ sơ kỳ ở châu Âu-giai đoạn Acheulean, niên đại gần 1 triệu năm cách ngày nay.
Việc phát hiện hệ thống các di tích sơ kỳ đá cũ ở An Khê là bằng chứng khẳng định vùng đồi gò An Khê ở thượng du sông Ba thuộc dạng hình chuyển tiếp từ cao nguyên xuống vùng đồng bằng, từ rất sớm có thể đã là địa bàn sinh sống của Người vượn đúng thẳng-Homo erecetus. Công việc nghiên cứu tại An Khê vẫn còn được tiếp tục trong nhiều năm sau.

Ngày 20/12, Trung tâm nghiên cứu Kinh Thành (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với Bảo tàng tỉnh Yên Bái tổ chức báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học các di vật lò nung vật liệu thời Trần tại di tích Pù Lườn Xe thuộc thôn 7, xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, Yên Bái.
Năm 2011, Bảo tàng Yên Bái phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành thám sát tại thôn 7, xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên đã phát hiện được quần thể di tích Pù Lườn Xe. Sau khi khai quật mở 11 hố thám sát tại khu vực chân đồi đã xuất lộ dấu vết của một hàng gạch, tường gạch cổ… Đến năm 2015, Bảo tàng tỉnh Yên Bái tiếp tục phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Kinh Thành điều tra khảo sát các di tích này, phát hiện nhiều mảnh gạch, ngói, các loại hình trang trí mái kiến trúc như: ngói đầu đao gắn lá đề, ngói đầu đao gắn trên mái tháp, ngói tạo hình tượng rồng…

Di tích lò nung vật liệu từ thời Trần được khai quật. Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN
Ngày 27/10/2016 Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch đã ra quyết định cho phép Bảo tàng tỉnh Yên Bái phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Kinh thành khai quật di tích Pù Lườn Xe. 
Qua khai quật, các nhà khoa học đã kết luận Pù Lườn Xe là di tích lò nung vật liệu thuộc loại hình di chỉ sản xuất. Đây là lò nung vật liệu kiến trúc với nhiều loại hình khác nhau từ gạch, ngói, đến các loại tượng đất nung, các loại tháp mô hình phục vụ cho việc xây dựng các công trình kiến trúc ở khu vực di tích đồi Hắc Y và chùa Bến Lăn (di tích cấp quốc gia được công nhận năm 2001 tại huyện Lục Yên, Yên Bái), có thể phục vụ xây dựng nhiều công trình ở địa điểm khác…Vật liệu xây dựng và các sản phẩm của lò nung đều có niên đại khoảng từ thế kỷ13 – 14, thuộc thời Trần. 
Phó giáo sư – Tiến sĩ Bùi Minh Trí, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam cho biết: Đây là lần đầu tiên một lò nung vật liệu có niên đại thời Trần được khai quật ở miền Bắc Việt Nam, điều này mang ý nghĩa rất to lớn. Việc phát hiện, khai quật di tích sẽ cung cấp tư liệu, mở ra hướng mới cho công tác nghiên cứu về việc sản xuất vật liệu kiến trúc thời Trần. Kết quả của cuộc khai quật cũng góp phần tuyên truyền, giáo dục nhân dân địa phương trong việc quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị của khu di tích.
Tuấn Anh (TTXVN)
Các nhà khảo cổ đã phát hiện được một cấu trúc thứ hai bên trong kim tự tháp Kukulkan (hay El Castillo) nổi tiếng tại di chỉ tàn tích Chichen Itza của người Maya.

Năm ngoái, các nhà khảo cổ đã dùng kỹ thuật chụp quét ảnh điện tử để tìm kiếm kim tự tháp này, vốn được xây dựng trên một sông ngầm.

Từ lâu các chuyên gia đã biết rằng có một kim tự tháp nhỏ hơn nằm bên trong kim tự tháp lớn bên ngoài, tạo thành 2 lớp kim tự tháp. Nhưng hiện nay họ lại cho biết đã phát hiện được thêm một cấu trúc thậm chí nhỏ hơn nữa ẩn giấu bên trong hai lớp kim tự tháp này.

kim-tu-thap-maya-0.jpg
Ảnh chụp cắt lớp kim tự tháp Kukulkan (Ảnh: AP)
kim-tu-thap-kukulkan-2.jpg

Các lớp công trình kim tự tháp bên trong Kukulkan. (Ảnh: Soha News)

Phát hiện mới có được nhờ sử dụng kỹ thuật chụp quét ảnh 3D, khá giống chụp cắt lớp CT tại bệnh viện, để khám phá cấu trúc bên trong kim tự tháp. Sử dụng cái gọi là ‘phương pháp rọi kính suất điện trở 3D’, họ phát hiện được một cấu trúc cao 10 m nằm trong kim tự tháp ‘trung bình’ cao 20 m, và đến lượt nó lại được bao phủ bởi một lớp kim tự tháp bên ngoài.

Trong phương pháp này, họ chụp quét kim tự tháp sử dụng một loạt điện cực lắp đặt xung quanh di chỉ. Những điện cực này sẽ truyền các dòng điện dùng để đo điện trở, từ đó vẽ cấu trúc của bất kỳ công trình nào.

Nhà khảo cổ Denisse Lorenia Argote nói: ‘Nếu chúng ta có thể nghiên cứu công trình này trong tương lai, thì nó có thể cho chúng ta biết về những người định cư đầu tiên tại di chỉ’.
 

Tuy nhiên, ảnh chụp máy tính từ các nhà nghiên cứu cũng cho thấy kim tự tháp ẩn giấu này có bố cục không đồng đều với 2 lớp kim tự tháp bên ngoài.

Giáo sư nhân chủng học Geoffrey Braswell từ Đại học California (San Diego) đã so sánh kim tự tháp này với một con búp bê Nga, trong đó có nhiều lớp búp bê lồng vào nhau, con nhỏ nằm bên trong con lớn.

kim-tu-thap-maya.jpg
Khu di chỉ Chichen Itza của người Maya, hiện là một Di sản thế giới UNESCO, đón chào hơn một triệu du khách mỗi năm. (Ảnh: Internet)

Theo Daily Mail

Đảo Phục Sinh là hòn đảo biệt lập và huyền bí nhưng xinh đẹp vào bậc nhất thế giới. Nơi đây có lưu giữ 887 bức tượng Moai mà cho đến ngày nay, vẫn chưa có ai lý giải được vì sao và bằng cách nào chúng nằm rải rác khắp hòn đảo.

Người ta vẫn tin tưởng rằng, những bức tượng này chỉ có phần đầu hoặc có thêm phần vai. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ đã phát hiện phần thân chìm bên dưới, trong đó chứa đựng nhiều bí ẩn và căn cứ quan trọng về nền văn minh trên hòn đảo này.

tuongcodai4.jpg

Đảo Phục Sinh còn có tên gọi là Rapa Nui, nghĩa là hòn đảo xa vắng. Những bức tượng Moai là tác phẩm của người Rapa Nui, cư dân đầu tiên trên đảo (từ những năm 300-400) tạc vào giữa những năm 1250-1500, tại địa điểm được cho là vua Rapa Nui đệ nhất Hoto-Matua lần đầu neo thuyền ở khu vực Aneka. Đây cũng là một trong những bãi biển hiếm hoi của hòn đảo vốn gập gềnh tảng đá.
Bà Jo Anne Van Tilburg, giám đốc dự án tượng đảo Phục Sinh cho biết, năm 2010 nhóm của bà đã đào được 2 phần thân bị chôn vùi. Theo đo đạc, những bức tượng Moai có trọng lượng 75 tấn, cao khoảng 10 mét, cá biệt có những bức nặng 270 tấn và cao 21 mét. Phần lớn thân của các bức tượng bị chôn vùi dưới lòng đất, trên thân có những dòng chữ đươc gọi là tranh đá. Có giả thuyết rằng, những chi tiết cổ như vòng xoáy và hình thắt nút là tượng trưng cho chiếc xuồng của người dân Polynesia địa phương.

Điều đáng chú ý là trong những cuộc khai quật, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy dấu vết của sợi dây thừng thắt chặt, chứng tỏ bức tượng đã được lôi hoặc kéo đi. Họ còn tìm thấy hơn 500 công cụ chạm khắc đá, rất có thể đó là công cụ chạm khắc những bộ phận khác nhau của cơ thể bức tượng. Ngoài ra còn có các công cụ để trang trí và mài nhẵn bề mặt thân tượng.

tuongcodai2.jpg

Những bức tượng này được tạc nguyên khối từ núi đá lửa, trên thân lại khắc chữ tượng hình. Những bức tượng như vậy được tạo ra để làm gì? Bằng cách nào họ có thể mang chúng đi chôn khắp hòn đảo?

Những câu hỏi như vậy đến nay vẫn làm đau đầu các nhà khoa học. Người ta tin rằng những bức tranh đá được mã hóa ký tự ấy chính là lời giải cho những bí mật bấy lâu nay về tượng Moai cũng như hòn đảo Phục Sinh.

(daikynguyenvn.com)

tuongcodai9.jpg

Cuốn sách là kết quả của công trình khai quật nghiên cứu khảo cổ di tích Triền Tranh (Quảng Nam), được thực hiện với mục đích chính là khai quật, nghiên cứu và di dời một phần di tích Triền Tranh phục vụ Dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi nằm trong hệ thống Dự án đường cao tốc Bắc Nam.

Với diện tích khai quật 3.800m2, thời gian thực hiện kéo dài gần 1 năm, số lượng cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ được huy động lên tới hơn hai chục người, đây là một trong những công trình nghiên cứu quy mô về khảo cổ học Chămpa mà Viện Khảo cổ học phối hợp với các cơ quan quản lý và chuyên môn liên quan từng thực hiện.

Di tích Triền Tranh nằm trong không gian văn hóa của cụm phế tích kiến trúc Chămpa phân bố ở thung lũng Chiêm Sơn tây. Khu vực này được các nhà nghiên cứu lịch sử - khảo cổ - văn hóa chămpa quan tâm từ lâu nhưng chưa có điều kiện triển khai nghiên cứu.

Cuốn sách là một hệ thống tư liệu có giá trị khoa học, trung thực, khách quan những kết quả đã đạt được từ đợt khai quật năm 2015. Nội dung chính bao gồm 3 phần: Phần thứ nhất là khái lược về di tích Chămpa ở Quảng Nam và lịch sử nghiên cứu di tích Triền Tranh. Phần thứ hai là di tích Triền Tranh qua khai quậ khảo cổ học 2015 bao gồm quá trình chuẩn bị, kết quả khai quật, di vật.
Phần thứ 3 Giá trị lịch sử văn hóa của di tích Triền Tranh trong văn hóa Chămpa.
Ngoài ra còn kèm theo các phụ lục như bản ảnh khai quật, ảnh hiện vật, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ. Sách được viết bằng 2 ngôn ngữ Anh và Việt thuận lợi cho những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu.

 Xin trân trọng giới thiệu đến các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm!
 
Ngô Thị Nhung
Nhân kỷ niệm 65 năm Quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1/10/1949 - 1/10/2014), hưởng ứng Năm Văn hóa ASEAN - Trung Quốc. Trung tâm Giao lưu văn hóa Việt - Trung hợp tác với tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tuyển chọn một số bài viết về văn hóa Trung Quốc và giao lưu Việt - Trung, để xuất bản dưới dạng sách. Đây là những công trình nghiên cứu có giá trị của các nhà khoa học Việt Nam và Trung Quốc đã được đăng tải trên tờ Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc từ năm 1995 đến nay.

Nội dung cuốn sách chia làm 3 phần:
Phần một: Hồ Chí Minh với văn hóa Trung Quốc, giới thiệu các bài nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam, người bạn lớn của nhân dân Trung Quốc với văn hóa Trung Quốc, cùng với ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Quốc với tư tưởng của Người.

Phần hai: Nghiên cứu, giảng dạy văn hóa Trung Quốc ở Việt Nam, giới thiệu những công trình nghiên cứu về Nho giáo Trung Quốc và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu giảng dạy văn hóa Trung Quốc từ mã văn hóa, vấn đề văn tự và đặc điểm văn hóa truyền thống Việt - Trung trong bối cảnh giá trị Đông Á để nhận chân các giá trị của văn hóa truyền thống hai nước.

Phần Ba: Giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc trong tiến trình lịch sử, giới thiệu các bài viết về mối quan hệ giao lưu trong lĩnh vực văn học, tư tưởng, tổ chức chính quyền … giữa hai nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Xin trân trọng giới thiệu!
 
Ngô Thị Nhung
Cuốn sách là những mẩu tư liệu sưu tầm từ những sách báo của người phương Tây viết về buổi tiếp xúc đầu tiên với đất nước và con người Việt Nam vào thế kỷ XVII.

Đây là những bài báo rút ra từ tờ “Tạp chí Thanh Nghị”. Là tập hợp các bản dịch của nhà báo, nhà nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Phấn (1910-1996). Thọ gần 90 tuổi, gần trọn cuộc đời sống và làm việc trong thế kỷ XX, Cụ làm công việc thầm lặng là dịch thuật, giảng dạy, địa lý một thời gian ngắn ở Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) rồi gắn bó với công tác thư viện tại Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 

 Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Để hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu cổ sinh cho toàn lãnh thổ Việt Nam, vào đầu năm 2007, Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản đã chủ trì thực hiện đề tài “Thành lập Atlas Cổ sinh vật Việt Nam” với mục tiêu lưu giữ những bằng chứng khoa học về tuổi của các tầng đất đá khác nhau ở Việt Nam, đồng thời tăng cường trao đổi khoa học và hợp tác quốc tế, góp phần vào sự nghiệp nghiên cứu cổ sinh trên thế giới. Bên cạnh đó, “Atlas Cổ sinh vật Việt Nam” cũng là một tài liệu giá trị, mang tính giáo khoa chuẩn mực phục vụ công tác nghiên cứu khoa học về địa chất, khoáng sản cũng như công tác giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo có liên quan.
 
“Atlas Cổ sinh vật Việt Nam” trước mắt gồm 4 tập: Trùng lỗ, Thân mềm, Tay cuộn và Bào tử - Phấn hóa, được biên soạn chủ yếu dựa vào các tài liệu đã được công bố trước đây và các kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây của các nhà cổ sinh thuộc Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, với sự cộng tác của nhiều cơ quan, trong đó có Viện Khảo cổ học.

Tập Bào tử - Phấn hoa trong bộ Atlas cổ sinh vật Việt Nam giới thiệu các Bào tử - Phấn hoa thu thập được trong các trầm tích Mesozoi và Kainozoi ở nước ta, gồm 250 taxon cấp loài được mô tả, trong đó 218 loài thuộc hệ Kainophyta và 32 loài thuộc hệ Mesophyta. Trong công trình này, mẫu vật mô tả hầu hết được sưu tập từ năm 1960 đến nay và được lưu trữ tại Bảo tàng Địa chất Hà Nội, Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, Phân viện Dầu khí miền Nam và Viện Khảo cổ học.

Tập Bào tử - Phấn hoa gồm hai phần: Phần 1. Bào tử - Phấn hoa trong trầm tích Mesozoi. Các hóa thạch này được xác định theo hệ thống phân loại nhân tạo (theo hình thái của hạt Bào tử và Phấn hoa), nên hệ thống phân loại cũng khác với các Bào tử - Phấn hoa của hệ thực vật Kainophyta, nhất là cấp phân loại cao hơn giống, phần này do Bùi Đức Thắng mô tả; Phần 2. Bào tử - Phấn hoa trong trầm tích Kainozoi, chủ yếu được xác định theo hệ thống phân loại tự nhiên. Ngoài ra còn một số dạng cổ thuộc trầm tích Đệ tam được xác định theo hệ thống phân loại nhân tạo và có liên hệ với các dạng được xác định theo phân loại tự nhiên.

 Xin trân trọng giới thiệu!
 
Ngô Thị Nhung

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9594776
Số người đang online: 27