
Thành tựu quan trọng của khảo cổ học Việt Nam suốt 90 năm qua là đã khai quật, nghiên cứu và khẳng định những giá trị, đóng góp của văn hóa Đông Sơn trong dòng chảy của các nền văn hóa ở Việt Nam và ảnh hưởng, giao thoa sâu rộng đến vùng Nam Trung Hoa và Đông Nam Á. Các giai đoạn phát triển cùng với các loại hình địa phương của văn hóa Đông Sơn cũng được nhận thức từ việc nghiên cứu tính thống nhất và đa dạng của một nền văn hóa. Nghiên cứu văn minh Đông Sơn trong thời kỳ dựng nước khẳng định vị trí nền tàng của văn minh Đông Sơn trong việc tạo dựng quốc gia - dân tộc.
Hội thảo khoa học Văn hóa Đông Sơn - 90 năm phát hiện và nghiên cứu do Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tổ chức đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu, nhận thức và phát huy sâu sắc hơn về văn hóa Đông Sơn.
Cuốn sách là kỷ yếu của hội thảo, tập hợp nhiều bài viết đề cập đến văn hóa Đông Sơn với những hướng tiếp cận mới, tư liệu mới, nhận thức mới của các nhà khoa học.
Xin trân trọng giới thiệu đến đông đảo các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm!
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với các nhà khảo cổ học Nhật Bản và Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh tổ chức khai quật, khám phá khảo cổ học thương cảng cổ Hội Thống (thuộc xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Đây là hoạt động nằm trong kế hoạch thực hiện chương trình hợp tác nghiên cứu khảo cổ học và lịch sử quan hệ Việt Nam - Nhật Bản với Trường Đại học Chiêu Hòa (Nhật Bản).
Đoàn khảo cổ đang tiến hành mở các hố khai quật tại vị trí thương cảng cổ Hội Thống (Hà Tĩnh).
Đoàn khảo khổ sẽ tổ chức khai quật tại hai địa điểm di tích Đình Hội Thống và Đền Cả thuộc xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Diện tích cho phép khai quật là 20m2 (đình Hội Thống 10m2, đền Cả 10m2). Thời gian khai quật từ ngày 5/9 đến ngày 15/9/2016.
Đến thời điểm này, các nhà khảo cổ học Việt Nam và Nhật Bản đã tiến hành mở 4 hố khai quật, mỗi hố có chiều dài 2m, rộng 1m, sâu 1,5m. Địa điểm khai quật thứ nhất là Cồn Bồi, cách di tích Đền Cả 500m về hướng Đông, thuộc vị trí toạ độ: 18 độ, 44'16.6"N; 105 độ 46'14.7"E. Địa điểm thứ hai là phía trước đình Hội Thống về hướng Đông Bắc, có toạ độ: 18 độ 44'30.5"N 105 độ 46'13.7"E.
Hiện các nhà khảo cổ đang tiến hành bóc tách lớp sinh thổ phía trên các hố khai quật để tiến hành thăm dò sâu phía dưới các tầng văn hoá nhằm tìm kiếm hiện vật. Quá trình này đã phát lộ các mảnh gốm, sành, sứ cổ ở mặt trên các hố khai quật.
Theo ông Lê Bá Hạnh, Phó giám đốc Bảo tàng Hà Tĩnh, Hội Thống là thương cảng cổ có vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt thời Lý - Trần.
Quá trình này đã phát lộ các mảnh gốm, sành, sứ cổ ở mặt trên các hố khai quật.
Cuộc khai quật khảo cổ học lần này nhằm bổ sung thêm tư liệu cho quá trình xác định quy mô vị trí và vai trò của thương cảng cổ Hội Thống trong hệ thống thương mại biển ven bờ khu vực Bắc Trung bộ Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu vai trò của thương cảng cổ trong đó có cảng biển Hội Thống và mối quan hệ giao thương giữa hai quốc gia Nhật Bản - Đại Việt trong tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc.
Phần thứ nhất: Lam Kinh trong không gian và thời gian. Ở phần này cuốn sách giới thiệu về địa lý tự nhiên vùng đất xứ Thanh và vùng đất Lam Sơn - Lam Kinh, nêu quá trình hình thành và xây dựng Lam Kinh.
Phần thứ ba. Tác giả đã đặt khu di tích Lam Kinh trong bối cảnh quan hệ với các di tích thời Hậu Lê, ở xứ Thanh, ở Thăng Long - Hà Nội và các di tích thuộc các thời kỳ quân chủ Việt Nam khác.
Ngoài phần nội dung chính cuốn sách còn kèm theo phụ lục bản vẽ, bản dập, bản ảnh (ảnh màu sắc nét) và tóm tắt bằng tiếng Anh.
Trân trọng giới thiệu!
Cuộc khai quật lần này được thực hiện tại khu vực Hào thành phía Bắc với diện tích khai quật 3000m2 nhằm mục đích tìm hiểu rõ hơn về kiến trúc Hào thành khu vực này, đánh giá vị trí khu vực hào thành phía Bắc với mối tương quan giữa kiến trúc hào thành và hệ thống tường thành Bắc phía trên. Cuộc khai quật đã phát hiện nhiều di tích và di vật quan trọng như:
Hào thành phía bắc: Xuất lộ với hình dáng dốc dần từ phần bề mặt xuống phần thành bờ và vát chéo dần xuống đáy hào, nằm ở độ sâu từ -360cm đến -414cm (Ở phía Bắc hố) và từ -350cm đến -464cm (ở phía Nam hố khai quật). Dựa trên mặt bằng khai quật và xem xét chi tiết các dấu tích xuất lộ, xác định hệ thống hào thành phía Bắc được gia cố bằng đá khối kích thước nhỏ và đất sét đầm lẫn nhiều sạn sỏi, phần lòng hào rộng 60m, đáy hào rộng 50m với khu vực sâu nhất -7m so với cos 0.

Kè ngoài hào thành bắc Thành Nhà Hồ

Kè trong hào thành bắc Thành Nhà Hồ
Khu vực nền chân thành (Hộ thành): cuộc khai quật làm xuất lộ rất nhiều khối đá nguyên khối và đá phiến có kích thước khá lớn, hình khối hộp chữ nhật. Di vật xuất lộ với số lượng lớn bao gồm nhiều loại hình vật liệu như gạch chữ nhật màu đỏ, gạch vồ xám, mảnh ngói đỏ, trang trí kiến trúc, đặc biệt là hệ thống đá khối kích thước lớn, nhỏ phân bố hầu khắp khu vực hố khai quật.. Các lớp trên, hiện vật chủ yếu thuộc niên đại Lê – Nguyễn xuống lớp dưới chủ yếu thuộc niên đại Trần – Hồ.

Đá khối xuất lộ ở khu vực nền chân thành
Cũng tại khu vực nền chân thành đã xuất lộ lớp đá dăm phủ gần như toàn bộ bề mặt hố khai quật, cao độ -167cm đến – 218cm so với cos 0. Lớp dăm phủ kín toàn bộ bề mặt hố khai quật, cho thấy quá trình chế tác ở công đoạn cuối cùng trước khi các khối đá được dựng lên tường thành. Độ dày lớp khá đều trung bình từ 20 – 25cm.
Hố khai quật đã xuất lộ gia cố phía ngoài cửa cống hiện tại. Lớp gia cố này xuất lộ từ chân tường thành, rộng khoảng 9m, nằm phía dưới lớp dăm đá cắt chéo xuống phía cửa cống hiện tại. Đất trong lớp gia cố là sét màu vàng nhạt lẫn sét đỏ cùng với nhiều mảnh đá vôi nhỏ (kích thước 15 – 30cm). Gia cố phía ngoài cửa nước ra cho thấy những người quy hoạch và xây dựng đã chú trọng tới việc cấp thoát nước cho khu vực trong thành cũng như sự vững chắc phía ngoài khu vực nước đổ ra.

Các đại biểu tham quan trưng bày hiện vật khai quật tại hào thành bắc

Hội nghị thông báo kết quả khai quật hào thành bắc
CHỦ ĐỀ: Di tích thực vật thu được ở Hang Bói và Hang Trống, Tràng An (Ninh Bình)
Diễn giả: Jasminda Ceron, Nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Đại học Otago, New Zealand
Thời gian: 9h30 sáng ngày 25 tháng 8 năm 2016 (Thứ 5)
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học - Số 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội Tóm tắt:
Đây là nghiên cứu về các tàn tích thực vật từ các di tích hang động được tiến hành ở Hang Bói và Hàng Trống, nằm trong Khu sinh thái Tràng An, tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt Nam. Những di tích thực vật bao gồm vỏ hạt, hạt thuộc chi sếu, các loại củ dại và than tro đại diện cho một phổ rộng các giống loài thực vật hoang dại, mang đến cho chúng ta cái nhìn về cảnh quan môi trường trong quá khứ. Các số liệu cũng cho thấy, các nhóm cư dân hái lượm sớm đã có những hiểu biết và gần gũi với môi trường của mình.
Về diễn giả:
- Tốt nghiệp Cử nhân ngành Nhân học và Cao học Khảo cổ học tại Đại học Philippines.
- Nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Đại học Otago, New Zealand.
Ngoài ra, đã làm trợ lý nghiên cứu và giảng viên cho Chương trình Nghiên cứu Khảo cổ học, Đại học Philippines.
Hướng nghiên cứu khác: Dân tộc học và quản lý di sản văn hóa.

Trong kho tàng di sản văn hóa Hội An, các nghề truyền thống là một bộ phận rất quan trọng. Chúng là kết tinh của quá trình lao động đầy sáng tạo, năng động của các tầng lớp cư dân kế tục nhau cư trú trên mảnh đất Hội An. Trong quá khứ, sự nhộn nhịp của các nghề, làng nghề truyền thống ở Hội An là biểu hiện sinh động của quá trình đô thị hóa, quá trình hình thành các đô thị theo kiểu phương Đông, mà Hội An là một trường hợp tiêu biểu. Do nhiều nguyên nhân nghề hiện vẫn còn hoạt động nhưng quy mô đã thu hẹp khác trước, nhiều nghề đã mai một chỉ còn trong trí nhớ của những người cao tuổi, nhiều kinh nghiệm quý tích lũy từ nhiều trăm năm của các thế hệ thợ lành nghề đã dần bị mai một, lãng quên, bị thay thế bởi những kỹ thuật mới mà không có sự kế thừa, phát huy phù hợp.
Trước tình hình đó, nhóm tác giả đã tiến hành sưu tầm, khảo sát, tập hợp các nguồn tư liệu thu thập được để giới thiệu một số nghề truyền thống tiêu biểu của địa phương trong công trình này.
Nội dung cuốn sách gồm 2 chương chính:
Chương 1 Tác giả khái quát về mảnh đất Hội An và nghề truyền thống nơi đây như đặc điểm tự nhiên - xã hội của Hội An, vai trò, vị trí, đặc điểm của các làng nghề, ngành nghề truyền thống ở Hội An.
Chương 2 Cuốn sách giới thiệu một số nghề truyền thống tiêu biểu ở Hội An như: nghề gốm Thanh Hòa, nghề mộc xây dựng Kim Bồng, nghề mộc gia dụng Kim Bồng, nghề đóng ghe, nghề rèn, nghề làm nhà tranh tre dừa, nghề làm lồng đèn, nghề dệt chiếu, nghề làm đầu thiên cẩu, đan thúng chai, khai thác yến Thanh Châu …

Ngoài nội dung trên cuốn sách còn kèm theo phần phụ lục minh họa với nhiều bản đồ, bản vẽ, bản dập, bản ảnh và biểu đồ về khảo cổ học rõ nét, đặc sắc, hấp dẫn sẽ giúp cho nghiên cứu sinh và học viên cao học hiểu rõ hơn về vấn đề.
* Diễn giả: TS. Anne-Valérie SCHWEYER, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp
Thời gian: 9h30 sáng ngày 15 tháng 8 năm 2016 (Thứ 2)
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học - Số 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
* Tóm tắt:
Công trình nghiên cứu này nhằm mục đích giới thiệu một hệ thống thông tin địa lý, dựa trên hệ thống bản đồ từ thế kỷ 18 đến thế kỷ giữa 20. Nó mang lại những nhận thức về quá trình biến chuyển của cảnh quan môi trường và giúp tái dựng lại quá trình định cư tại khu vực. Vị trí của những công trình kiến trúc Chàm và Nguyễn trong mối quan hệ với các hệ thống sông sẽ cung cấp luận cứ cơ bản mới để hiểu lịch sử và địa lý của vùng đất này.
* Về diễn giả:
Cử nhân Nghành Ấn Độ học tại Đại học Paris III-Censier, Pháp, năm 1996.
Tiến sĩ sử học, tại Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, năm 1992
Nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm de l'Asie du Sud-Est (CASE), CNRS, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp.
* Giảng dạy
2009, 2011, 2013: Tham gia hội nghị tại SOAS Diploma, London
Kể từ năm 2012: Phụ trách khóa học về Ngôn ngữ và Văn minh Champa tại Inalco (Đại học Đông Phương), Paris
* Ấn phẩm
Sách :
Le Viet Nam ancien, Guide Belles-Lettres des Civilisations, édition Les Belles Lettres, Paris, 2005, 320 p.
Việt Nam cổ đại. Lịch sử và Khảo cổ học, River Books Guides, Bangkok, 2011.
Các bài viết về Champa (Việt Nam), chủ yếu là những nghiên cứu về Tôn giáo, Lịch sử và Minh văn: http://case.ehess.fr/index.php?406
* Các Dự án hiện nay
- Trưởng ban Ban Hợp tác khoa học với VICAS-Huê về Di sản Champa ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, tài trợ bởi Ban Hợp tác Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp
- Thành viên Dự án «The Making of Red River» do Li Tana làm chủ nhiệm, Đại học Quốc gia Úc.
Di tích lăng Tư Phúc nằm trong quần thể lăng mộ, đền miếu nhà Trần tại An Sinh (Đông Triều), được xây dựng năm 1381 nhằm lưu giữ thần vị của 2 chủ lăng Chiêu Lăng và Dụ Lăng từ Tam Đường (Thái Bình) chuyển về. Lăng sẽ khai quật trong thời gian từ 5/8 - 5/11 với diện tích là 600m2. Chủ trì khai quật là Ths Nguyễn Văn Anh (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Di tích lăng Phụ Sơn (lăng vua Trần Dụ Tông) sẽ khai quật trong thời gian từ 5/8 - 5/11 với diện tích là 500m2. Chủ trì khai quật là TS Đặng Hồng Sơn (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Vua Trần Dụ Tông sinh năm Bính Tý (1336), tên húy là Hạo, con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, năm 1341, vua Trần Hiến Tông mất, ông được chọn lên kế ngôi. Trần Dụ Tông làm vua 28 năm, thọ 34 tuổi.

Di tích lăng Ngải Sơn (lăng vua Trần Hiến Tông) sẽ khai quật trong thời gian từ 25/7 - 25/10 với diện tích là 400m2. Chủ trì khai quật là PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Vua Trần Hiến Tông là vua thứ 6 của nhà Trần, tên húy là Trần Vượng, con thứ của vua Trần Minh Tông. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Mùi (1319), năm 10 tuổi được vua cha Trần Minh Tông truyền ngôi, ở ngôi 13 năm, mất ngày 11 tháng 6 năm Tân Tỵ (1341), thọ 23 tuổi.
Xung quanh khu lăng hiện còn lại rất nhiều di vật, trong đó đặc biệt phải kể đến là bộ tượng bằng đá, gồm: tượng quan hầu, tượng thú và rùa. Bộ tượng này vốn được đặt dọc hai bên Thần đạo của lăng theo từng cặp đối xứng nhau, tượng quan hầu ở tư thế đứng chầu, tượng các loại thú đều được tạc ở dạng phủ phục. Bộ tượng đá ở An lăng không chỉ được đánh giá là một sưu tập quý của nghệ thuật điêu khắc thời Trần, mà điều quan trọng hơn nữa là, qua bộ tượng này chúng ta biết được trong cấu trúc Thần đạo lăng tẩm thời Trần hai bên có tượng quan hầu và tượng thú đứng chầu.
Ngoài các tượng thú, tại An lăng còn có hai tượng rùa đá của thời Trần, trong đó có một tượng rùa có kích thước rất lớn: dài 1,57m; rộng 0,94m, dày 0,34m, trên lưng rùa có một lỗ mộng lớn cho thấy rùa này cõng bia. Năm 2002, lăng được xây lại như hình dáng hiện nay, việc tôn tạo không dựa trên những nghiên cứu đã khiến cho công trình hiện nay không phù hợp với diện mạo ban đầu của lăng.
Bộ VHTTDL lưu ý, trong thời gian khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép cần chú ý bảo vệ địa tầng của di tích; có trách nhiệm tuyên truyền cho nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa.
Những hiện vật thu được trong quá trình khai quật phải được tạm nhập vào Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh để giữ gìn, bảo quản; Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, Sở VHTT tỉnh Quảng Ninh có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ trưởng Bộ VHTTDL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó.
Chậm nhất ba tháng sau đợt khai quật, Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Quảng Ninh, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội phải có báo cáo sơ bộ, sau một năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa.
(Tổng hợp: baoquangninh; dantri; baomoi)
Chiều 2/8, Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng phối hợp Bảo tàng tỉnh Quảng Trị và UBND huyện Triệu Phong đã công bố sơ bộ kết quả cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ Lỵ sở dinh chúa Nguyễn (1558-1626) tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Cuộc thăm dò và khai quật khảo cổ đã tìm ra được những bằng chứng thông qua những chứng tích, kí ức lịch sử về Lỵ sở của chúa Nguyễn, với một khu vực có sự góp mặt của nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là kiến trúc la thành.
Những dấu tích về thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng dựng nghiệp được khai quật để phục vụ nghiên cứu
Sau đợt khai quật đã phát hiện nhiều dấu tích khác nhau như: gạch ngói và đồ gốm gạch chủ yếu là gạch thẻ màu đỏ, có độ nung thấp, dễ gọt cắt, chất liệu được làm khá kĩ; ngói chủ yếu là ngói phẳng, mỏng, độ nung thấp, có phát hiện thấy ngói mũi sen nhưng rất hiếm; đồ đất nung chủ yếu là các loại bát, nhiều mảnh nối còn giữ nguyên cả vết cháy đen do hun nấu, có niên đại từ thế kỷ XVI-XIX; gốm sành khá phổ biến, đa dạng về loại hình như bình, vò, hũ, chậu, lọ… có niên đại từ thế kỷ XV-XIX; gốm men và gốm sứ chủ yếu là đồ Trung Hoa có xuất xứ từ các lò Phúc Kiến, Quảng Đông, Cảnh Đức, gốm đẹp và có tính thương mại cao, có nhiều mẫu sang trọng để dùng trong tầng lớp quý tộc có niên đại từ thế kỷ XV- XIX…
Cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ lần này là một nội dung nằm trong đề tài nghiên cứu “Những luận chứng khoa học lịch sử” nhằm xác định 3 vị trí lịch sử để phục vụ cho công tác quy hoạch, đầu tư, tôn tạo các di tích liên quan đến chúa Nguyễn trên địa bàn huyện Triệu Phong”, theo quyết định của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch.
Những mảnh gạch, gốm sứ thu được trong quá trình khai quật
Cuộc khai quật được tiến hành tại khu vực thực địa ở Cát Dinh, thôn Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong trong 14 ngày từ 20/7-2/8, trên tổng diện tích 113,63m2, bao gồm 3 khu vực: Trà Bát 1, Trà Bát 2 và Trà Bát 3, thuộc xã Triệu Giang.
Theo đó, tại khu vực Trà Bát 1, các nhà khảo cổ đã thực hiện tại 3 hố với mục tiêu thăm dò cấu trúc La thành dinh Chúa Nguyễn với diện tích 67,13m2. Tại khu vực Trà Bát 2, mục tiêu thăm dò dấu tích Dinh Cát với diện tích 18m2. Khu vực Trà Bát 3 với mục tiêu thăm dò cấu trúc di tích Phủ Thờ sau khi chúa Nguyễn dời dinh, khu vực này được lấy làm nơi thờ bài vị Trung ương, với tổng diện tích 28,5m2. Ngoài ra, thăm dò 2 bờ đất nghi là lũy thành.
Tại các hố khai quật ở Trà Bát 1, với dấu vết các vệt thành, những phát hiện khảo cổ cũng đưa đến những kiến thức về kĩ thuật xây dựng thành thời kỳ này. Từ những chứng cứ khảo cổ ở khu vực trà Bát 2 và Trà Bát 3 cũng đưa đến những kết luận quan trọng như: khu vực Trà Bát 1 chính là nơi có khả năng là lỵ sở của chúa Nguyễn những năm đầu thế kỉ XVII; kết quả khai quật ở Cồn Dinh hay Phủ Thờ chứng minh trước đây nơi sầm uất, nơi tụ cư đông đúc.

Các nhà khảo cổ cho rằng, đây mới chỉ là kết quả bước đầu nên cần phải có thời gian tìm hiểu sâu hơn mới có thể đưa ra khẳng định chính xác
Được biết, dấu ấn chúa Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị được ghi lại theo lịch sử bắt đầu từ 1558, tính từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất mới. Ông đã dừng lại ở Ái Tử (nay huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đặt thủ phủ đầu tiên. Sau đó, năm 1570 chúa Nguyễn Hoàng cho dời dinh từ Ái Tử sang làng Trà Bát còn gọi là Dinh Trà Bát. Năm 1600, Nguyễn Hoàng trở lại Thuận Hóa và tiến hành chuyển lỵ sở một lần nữa gọi là Dinh Cát (hay Cát Dinh). Năm 1626, ông tiến hành cho dời Lỵ sở từ Quảng Trị vào vùng Phước Yên của Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, Dinh Cát được xem là 1 trong 12 dinh của xứ đàng trong. Đồng thời, là trung tâm hành chính, chính trị từ thế kỉ XVII-XVIII. Vào thời kỳ 1802-1809 khi vua Gia Long lập dinh Quảng Trị thì Dinh Cát là được xem là lỵ sở của dinh Quảng Trị buổi ban đầu.
(Tổng hợp: baoquangtri; dantri; vietnam+)