Cuốn sách Lam Kinh - Khám phá từ lòng đất của TS. Nguyễn Văn Đoàn (Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia) được hình thành từ luận án tiến sĩ của tác giả, tuy nhiên đã được bổ sung, cập nhật thêm những phát hiện mới từ khu di tích Lam Kinh.
 
Khu di tích Lam Kinh, nơi phát tích của nhà Hậu Lê, nơi phát sinh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có quan hệ với nhiều vùng di tích khác (Như Áng, Thủy Chú, Mục Sơn, các vùng Mường - Kinh của miền núi và miền trung du, hạ du xứ Thanh và cả nước (Nghệ Tĩnh, Hòa Bình, Phú Thọ, Thăng Long …). TS. Nguyễn Văn Đoàn đã trực tiếp tham gia khai quật khu vực này, tự mình thu lượm tư liệu, chỉnh lý, phân loại cứ liệu, phân tích, nghiên cứu dữ liệu cả ở trên điền dã và ở trong Labo, tiếp cận liên ngành với các tư liệu khác (tư liệu văn khắc, văn tự, địa lý, bản đồ) để rút ra những nhận xét về chức năng của từng đơn nguyên trong quần thể kiến trúc Lam Kinh/ Lam Sơn, đặc trưng các di tích, di vật và vấn đề niên đại của chúng.
 
 
Nội dung chi tiết của cuốn sách được chia làm 3 phần:
Phần thứ nhất: Lam Kinh trong không gian và thời gian. Ở phần này cuốn sách giới thiệu về địa lý tự nhiên vùng đất xứ Thanh và vùng đất Lam Sơn - Lam Kinh, nêu quá trình hình thành và xây dựng Lam Kinh.
 
Phần thứ hai với tên gọi: Lam Kinh - Khám phá từ lòng đất. Đây là phần nội dung chính của cuốn sách. Tác giả nêu quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về Lam Kinh của các học giả nước ngoài cũng như Việt Nam từ 1954 đến nay; Hệ thống di tích, di vật, niên đại, diễn biến và quá trình tồn tại của khu trung tâm Lam Kinh trong lịch sử.

Phần thứ ba. Tác giả đã đặt khu di tích Lam Kinh trong bối cảnh quan hệ với các di tích thời Hậu Lê, ở xứ Thanh, ở Thăng Long - Hà Nội và các di tích thuộc các thời kỳ quân chủ Việt Nam khác.
Ngoài phần nội dung chính cuốn sách còn kèm theo phụ lục bản vẽ, bản dập, bản ảnh (ảnh màu sắc nét) và tóm tắt bằng tiếng Anh.
Trân trọng giới thiệu!
 
Ngô Thị Nhung
Ngày 31/8/2016, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam đã tổ chức hội nghị thông báo kết quả khai quật di tích Hào thành phía Bắc - Thành Nhà Hồ. Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo Viện Khảo cổ học; lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; lãnh đạo UBND xã Vĩnh Tiến; Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ và các nhà nghiên cứu đầu ngành trong lĩnh vực khảo cổ học.

Cuộc khai quật lần này được thực hiện tại khu vực Hào thành phía Bắc với diện tích khai quật 3000m2 nhằm mục đích tìm hiểu rõ hơn về kiến trúc Hào thành khu vực này, đánh giá vị trí khu vực hào thành phía Bắc với mối tương quan giữa kiến trúc hào thành và hệ thống tường thành Bắc phía trên. Cuộc khai quật đã phát hiện nhiều di tích và di vật quan trọng như: 

Hào thành phía bắc: Xuất lộ với hình dáng dốc dần từ phần bề mặt xuống phần thành bờ và vát chéo dần xuống đáy hào, nằm ở độ sâu từ -360cm đến -414cm (Ở phía Bắc hố) và từ -350cm đến -464cm (ở phía Nam hố khai quật). Dựa trên mặt bằng khai quật và xem xét chi tiết các dấu tích xuất lộ, xác định hệ thống hào thành phía Bắc được gia cố bằng đá khối kích thước nhỏ và đất sét đầm lẫn nhiều sạn sỏi, phần lòng hào rộng 60m, đáy hào rộng 50m với khu vực sâu nhất -7m so với cos 0.
 
tnh_ke_ngoai.jpg
Kè ngoài hào thành bắc Thành Nhà Hồ
tnh_ke_trong.jpg
Kè trong hào thành bắc Thành Nhà Hồ

Khu vực nền chân thành (Hộ thành): cuộc khai quật làm xuất lộ rất nhiều khối đá nguyên khối và đá phiến có kích thước khá lớn, hình khối hộp chữ nhật. Di vật xuất lộ với số lượng lớn bao gồm nhiều loại hình vật liệu như gạch chữ nhật màu đỏ, gạch vồ xám, mảnh ngói đỏ, trang trí kiến trúc, đặc biệt là hệ thống đá khối kích thước lớn, nhỏ phân bố hầu khắp khu vực hố khai quật.. Các lớp trên, hiện vật chủ yếu thuộc niên đại Lê – Nguyễn xuống lớp dưới chủ yếu thuộc niên đại Trần – Hồ. 
tnh_chan_thanh.jpg
Đá khối xuất lộ ở khu vực nền chân thành

Cũng tại khu vực nền chân thành đã xuất lộ lớp đá dăm phủ gần như toàn bộ bề mặt hố khai quật, cao độ -167cm đến – 218cm so với cos 0. Lớp dăm phủ kín toàn bộ bề mặt hố khai quật, cho thấy quá trình chế tác ở công đoạn cuối cùng trước khi các khối đá được dựng lên tường thành. Độ dày lớp khá đều trung bình từ 20 – 25cm.

Hố khai quật đã xuất lộ gia cố phía ngoài cửa cống hiện tại. Lớp gia cố này xuất lộ từ chân tường thành, rộng khoảng 9m, nằm phía dưới lớp dăm đá cắt chéo xuống phía cửa cống hiện tại. Đất trong lớp gia cố là sét màu vàng nhạt lẫn sét đỏ cùng với nhiều mảnh đá vôi nhỏ (kích thước 15 – 30cm). Gia cố phía ngoài cửa nước ra cho thấy những người quy hoạch và xây dựng đã chú trọng tới việc cấp thoát nước cho khu vực trong thành cũng như sự vững chắc phía ngoài khu vực nước đổ ra.
tnh_hoi_thao_1.jpg
Các đại biểu tham quan trưng bày hiện vật khai quật tại hào thành bắc

tnh_hoi_thao.jpg
Hội nghị thông báo kết quả khai quật hào thành bắc

 
Các ý kiến tại Hội nghị đánh giá cao kết quả nghiên cứu của đoàn khai quật và thống nhất với các kết quả đoàn đưa ra. Các đại biểu đề nghị các cơ quan nghiên cứu và quản lý cần gắn chặt kết quả nghiên cứu với phát triển du lịch vòng quanh thành nhà Hồ. Những góp ý về việc bảo tồn khu vực khai quật để tham quan lâu dài cũng được đặt ra trong cuộc Hội thảo. Cuộc khai quật khu vực hào thành phía bắc cùng với cuộc khai quật hào thành phía nam năm 2015 giúp cho hiểu biết về quy mô, cấu trúc hào thành nhà Hồ được rõ hơn. Đồng thời, các ý kiến cũng đề nghị tiếp tục nghiên cứu, khai quật tại các khu vực Hào thành phía Tây và phía Đông, nghiên cứu khu vực bắt góc của hào thành các mặt để xác định rõ quy mô, cấu trúc tổng thể hệ thống Hào thành Thành Nhà Hồ hướng tới phục dựng lại toàn bộ hào thành.
Nguyễn Thơ Đình
        Câu lạc bộ Khoa học Viện Khảo cổ học xin trân trọng kính mời các thầy cô, các nhà khoa học và các bạn đến dự seminar:
          CHỦ ĐỀ: Di tích thực vật thu được ở Hang Bói và Hang Trống, Tràng An (Ninh Bình)
          Diễn giả: Jasminda Ceron, Nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Đại học Otago, New Zealand
          Thời gian: 9h30 sáng ngày 25 tháng 8 năm 2016 (Thứ 5)
          Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học - Số 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội Tóm tắt:
Đây là nghiên cứu về các tàn tích thực vật từ các di tích hang động được tiến hành ở Hang Bói và Hàng Trống, nằm trong Khu sinh thái Tràng An, tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt Nam. Những di tích thực vật bao gồm vỏ hạt, hạt thuộc chi sếu, các loại củ dại và than tro đại diện cho một phổ rộng các giống loài thực vật hoang dại, mang đến cho chúng ta cái nhìn về cảnh quan môi trường trong quá khứ. Các số liệu cũng cho thấy, các nhóm cư dân hái lượm sớm đã có những hiểu biết và gần gũi với môi trường của mình.
 
Về diễn giả
- Tốt nghiệp Cử nhân ngành Nhân học và Cao học Khảo cổ học tại Đại học Philippines.
- Nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Đại học Otago, New Zealand.
Ngoài ra, đã làm trợ lý nghiên cứu và giảng viên cho Chương trình Nghiên cứu Khảo cổ học, Đại học Philippines.
Hướng nghiên cứu khác: Dân tộc học và quản lý di sản văn hóa. 
Cuốn sách Nghề truyền thống ở Hội An của tác giả Trần Văn An (chủ nhiệm công trình - thành viên của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam), thuộc dự án “Công bố và phổ biến tài sản văn hóa - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam đã được Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Trong kho tàng di sản văn hóa Hội An, các nghề truyền thống là một bộ phận rất quan trọng. Chúng là kết tinh của quá trình lao động đầy sáng tạo, năng động của các tầng lớp cư dân kế tục nhau cư trú trên mảnh đất Hội An. Trong quá khứ, sự nhộn nhịp của các nghề, làng nghề truyền thống ở Hội An là biểu hiện sinh động của quá trình đô thị hóa, quá trình hình thành các đô thị theo kiểu phương Đông, mà Hội An là một trường hợp tiêu biểu. Do nhiều nguyên nhân nghề hiện vẫn còn hoạt động nhưng quy mô đã thu hẹp khác trước, nhiều nghề đã mai một chỉ còn trong trí nhớ của những người cao tuổi, nhiều kinh nghiệm quý tích lũy từ nhiều trăm năm của các thế hệ thợ lành nghề đã dần bị mai một, lãng quên, bị thay thế bởi những kỹ thuật mới mà không có sự kế thừa, phát huy phù hợp.

Trước tình hình đó, nhóm tác giả đã tiến hành sưu tầm, khảo sát, tập hợp các nguồn tư liệu thu thập được để giới thiệu một số nghề truyền thống tiêu biểu của địa phương trong công trình này.

Nội dung cuốn sách gồm 2 chương chính:
Chương 1 Tác giả khái quát về mảnh đất Hội An và nghề truyền thống nơi đây như đặc điểm tự nhiên - xã hội của Hội An, vai trò, vị trí, đặc điểm của các làng nghề, ngành nghề truyền thống ở Hội An.

Chương 2 Cuốn sách giới thiệu một số nghề truyền thống tiêu biểu ở Hội An như: nghề gốm Thanh Hòa, nghề mộc xây dựng Kim Bồng, nghề mộc gia dụng Kim Bồng, nghề đóng ghe, nghề rèn, nghề làm nhà tranh tre dừa, nghề làm lồng đèn, nghề dệt chiếu, nghề làm đầu thiên cẩu, đan thúng chai, khai thác yến Thanh Châu …
 
Cuốn sách Sự hình thành nhà nước sơ khai ở Việt Nam (Qua tư liệu khảo cổ học) của PGS.TS. Trịnh Sinh là một cuốn giáo trình dành cho nghiên cứu sinh và học viên cao học dùng cho môn học: 1/ Những vấn đề cơ bản của Khảo cổ học tiền sử và sơ sử Việt Nam; 2/ Văn hóa Đông Sơn và vấn đề nhà nước sơ khai.
 
Cuốn giáo trình gồm 5 chương, sau mỗi chương đều có các câu hỏi dành cho cho nghiên cứu sinh và học viên cao học ôn tập. Nội dung các chương như sau: Chương 1 viết về vấn đề lý luận và lịch sử nghiên cứu nhà nước sơ khai; chương 2 đưa ra những tiền đề dẫn tới sự hình thành nhà nước sơ khai ở miền Bắc Việt Nam; chương 3 giới thiệu về nhà nước Văn Lang - Âu Lạc qua một số tư liệu, về nhà nước Âu Lạc - sự kế thừa của nhà nước Văn Lang, về con người, các tộc người thời Văn Lang - Âu Lạc, về kinh đô Văn Lang và về thiết chế nhà nước sơ khai; chương 4 tác giả đặt nhà nước Văn Lang - Âu Lạc trong bối cảnh của khu vực, đó là với những nhà nước sơ khai ở miền Tây Nam, Đông Nam Trung Quốc, với những tộc người trong văn hóa Sa Huỳnh; chương 5 nêu vấn đề nhà nước sơ khai ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ Việt Nam.

Ngoài nội dung trên cuốn sách còn kèm theo phần phụ lục minh họa với nhiều bản đồ, bản vẽ, bản dập, bản ảnh và biểu đồ về khảo cổ học rõ nét, đặc sắc, hấp dẫn sẽ giúp cho nghiên cứu sinh và học viên cao học hiểu rõ hơn về vấn đề.
CHỦ ĐỀNhững nghiên cứu GIS (Geographic Information System) mới ở tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và miền Trung Việt Nam//(Presentation of a new GIS on the provinces of Thừa Thiên-Huế and Quảng Trị in Central Vietnam)
Diễn giảTS. Anne-Valérie SCHWEYER, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp
Thời gian: 9h30 sáng ngày 15 tháng 8 năm 2016 (Thứ 2)
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học - Số 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
* Tóm tắt:
Công trình nghiên cứu này nhằm mục đích giới thiệu một hệ thống thông tin địa lý, dựa trên hệ thống bản đồ từ thế kỷ 18 đến thế kỷ giữa 20. Nó mang lại những nhận thức về quá trình biến chuyển của cảnh quan môi trường và giúp tái dựng lại quá trình định cư tại khu vực. Vị trí của những công trình kiến trúc Chàm và Nguyễn trong mối quan hệ với các hệ thống sông sẽ cung cấp luận cứ cơ bản mới để hiểu lịch sử và địa lý của vùng đất này.
Về diễn giả
Cử nhân Nghành Ấn Độ học tại Đại học Paris III-Censier, Pháp, năm 1996.
Tiến sĩ sử học, tại Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, năm 1992
Nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm de l'Asie du Sud-Est (CASE), CNRS, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp.
Giảng dạy
2009, 2011, 2013: Tham gia hội nghị tại SOAS Diploma, London
Kể từ năm 2012: Phụ trách khóa học về Ngôn ngữ và Văn minh Champa tại Inalco (Đại học Đông Phương), Paris
Ấn phẩm
Sách :
Le Viet Nam ancien, Guide Belles-Lettres des Civilisations, édition Les Belles Lettres, Paris, 2005, 320 p.
Việt Nam cổ đại. Lịch sử và Khảo cổ học, River Books Guides, Bangkok, 2011.
Các bài viết về  Champa (Việt Nam), chủ yếu là những nghiên cứu về Tôn giáo, Lịch sử và Minh văn: http://case.ehess.fr/index.php?406
* Các Dự án hiện nay
- Trưởng ban Ban Hợp tác khoa học với VICAS-Huê về Di sản Champa ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, tài trợ bởi Ban Hợp tác Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp
- Thành viên Dự án «The Making of Red River» do Li Tana làm chủ nhiệm, Đại học Quốc gia Úc. 
Ngày 20/7, Bộ VHTT&DL đã ban hành quyết định số 2560, 2561, 2562/QĐ-BVHTTDL về việc khai quật khảo cổ di tích lăng Tư Phúc, lăng Phụ Sơn, lăng Ngải Sơn trong Khu di tích quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều. Cả 3 di tích đều thuộc xã An Sinh (TX Đông Triều).

Di tích lăng Tư Phúc nằm trong quần thể lăng mộ, đền miếu nhà Trần tại An Sinh (Đông Triều), được xây dựng năm 1381 nhằm lưu giữ thần vị của 2 chủ lăng Chiêu Lăng và Dụ Lăng từ Tam Đường (Thái Bình) chuyển về. Lăng sẽ khai quật trong thời gian từ 5/8 - 5/11 với diện tích là 600m2. Chủ trì khai quật là Ths Nguyễn Văn Anh (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).

Di tích lăng Phụ Sơn (lăng vua Trần Dụ Tông) sẽ khai quật trong thời gian từ 5/8 - 5/11 với diện tích là 500m2. Chủ trì khai quật là TS Đặng Hồng Sơn (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Vua Trần Dụ Tông sinh năm Bính Tý (1336), tên húy là Hạo, con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, năm 1341, vua Trần Hiến Tông mất, ông được chọn lên kế ngôi. Trần Dụ Tông làm vua 28 năm, thọ 34 tuổi.

Khu lăng tẩm, đền miếu của nhà Trần còn sót lại ở Đông Triều, Quảng Ninh. Ảnh: TL.
Khu lăng tẩm, đền miếu của nhà Trần ở Đông Triều, Quảng Ninh. Ảnh: TL.

Di tích lăng Ngải Sơn (lăng vua Trần Hiến Tông) sẽ khai quật trong thời gian từ 25/7 - 25/10 với diện tích là 400m2. Chủ trì khai quật là PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội).
Vua Trần Hiến Tông là vua thứ 6 của nhà Trần, tên húy là Trần Vượng, con thứ của vua Trần Minh Tông. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Mùi (1319), năm 10 tuổi được vua cha Trần Minh Tông truyền ngôi, ở ngôi 13 năm, mất ngày 11 tháng 6 năm Tân Tỵ (1341), thọ 23 tuổi.

Xung quanh khu lăng hiện còn lại rất nhiều di vật, trong đó đặc biệt phải kể đến là bộ tượng bằng đá, gồm: tượng quan hầu, tượng thú và rùa. Bộ tượng này vốn được đặt dọc hai bên Thần đạo của lăng theo từng cặp đối xứng nhau, tượng quan hầu ở tư thế đứng chầu, tượng các loại thú đều được tạc ở dạng phủ phục. Bộ tượng đá ở An lăng không chỉ được đánh giá là một sưu tập quý của nghệ thuật điêu khắc thời Trần, mà điều quan trọng hơn nữa là, qua bộ tượng này chúng ta biết được trong cấu trúc Thần đạo lăng tẩm thời Trần hai bên có tượng quan hầu và tượng thú đứng chầu.

Ngoài các tượng thú, tại An lăng còn có hai tượng rùa đá của thời Trần, trong đó có một tượng rùa có kích thước rất lớn: dài 1,57m; rộng 0,94m, dày 0,34m, trên lưng rùa có một lỗ mộng lớn cho thấy rùa này cõng bia. Năm 2002, lăng được xây lại như hình dáng hiện nay, việc tôn tạo không dựa trên những nghiên cứu đã khiến cho công trình hiện nay không phù hợp với diện mạo ban đầu của lăng.

Bộ VHTTDL lưu ý, trong thời gian khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép cần chú ý bảo vệ địa tầng của di tích; có trách nhiệm tuyên truyền cho nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa.

Những hiện vật thu được trong quá trình khai quật phải được tạm nhập vào Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh để giữ gìn, bảo quản; Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, Sở VHTT tỉnh Quảng Ninh có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ trưởng Bộ VHTTDL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó.

Chậm nhất ba tháng sau đợt khai quật, Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Quảng Ninh, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội phải có báo cáo sơ bộ, sau một năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa.

(Tổng hợp: baoquangninh; dantri; baomoi)

Chiều 2/8, Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng phối hợp Bảo tàng tỉnh Quảng Trị và UBND huyện Triệu Phong đã công bố sơ bộ kết quả cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ Lỵ sở dinh chúa Nguyễn (1558-1626) tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Cuộc thăm dò và khai quật khảo cổ đã tìm ra được những bằng chứng thông qua những chứng tích, kí ức lịch sử về Lỵ sở của chúa Nguyễn, với một khu vực có sự góp mặt của nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là kiến trúc la thành.

Những dấu tích về thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng dựng nghiệp được khai quật để phục vụ nghiên cứu

Sau đợt khai quật đã phát hiện nhiều dấu tích khác nhau như: gạch ngói và đồ gốm gạch chủ yếu là gạch thẻ màu đỏ, có độ nung thấp, dễ gọt cắt, chất liệu được làm khá kĩ; ngói chủ yếu là ngói phẳng, mỏng, độ nung thấp, có phát hiện thấy ngói mũi sen nhưng rất hiếm; đồ đất nung chủ yếu là các loại bát, nhiều mảnh nối còn giữ nguyên cả vết cháy đen do hun nấu, có niên đại từ thế kỷ XVI-XIX; gốm sành khá phổ biến, đa dạng về loại hình như bình, vò, hũ, chậu, lọ… có niên đại từ thế kỷ XV-XIX; gốm men và gốm sứ chủ yếu là đồ Trung Hoa có xuất xứ từ các lò Phúc Kiến, Quảng Đông, Cảnh Đức, gốm đẹp và có tính thương mại cao, có nhiều mẫu sang trọng để dùng trong tầng lớp quý tộc có niên đại từ thế kỷ XV- XIX…

Cuộc thăm dò, khai quật khảo cổ lần này là một nội dung nằm trong đề tài nghiên cứu “Những luận chứng khoa học lịch sử” nhằm xác định 3 vị trí lịch sử để phục vụ cho công tác quy hoạch, đầu tư, tôn tạo các di tích liên quan đến chúa Nguyễn trên địa bàn huyện Triệu Phong”, theo quyết định của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch.

Những mảnh gạch, gốm sứ thu được trong quá trình khai quật

Cuộc khai quật được tiến hành tại khu vực thực địa ở Cát Dinh, thôn Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong trong 14 ngày từ 20/7-2/8, trên tổng diện tích 113,63m2, bao gồm 3 khu vực: Trà Bát 1, Trà Bát 2 và Trà Bát 3, thuộc xã Triệu Giang.

Theo đó, tại khu vực Trà Bát 1, các nhà khảo cổ đã thực hiện tại 3 hố với mục tiêu thăm dò cấu trúc La thành dinh Chúa Nguyễn với diện tích 67,13m2. Tại khu vực Trà Bát 2, mục tiêu thăm dò dấu tích Dinh Cát với diện tích 18m2. Khu vực Trà Bát 3 với mục tiêu thăm dò cấu trúc di tích Phủ Thờ sau khi chúa Nguyễn dời dinh, khu vực này được lấy làm nơi thờ bài vị Trung ương, với tổng diện tích 28,5m2. Ngoài ra, thăm dò 2 bờ đất nghi là lũy thành.

Tại các hố khai quật ở Trà Bát 1, với dấu vết các vệt thành, những phát hiện khảo cổ cũng đưa đến những kiến thức về kĩ thuật xây dựng thành thời kỳ này. Từ những chứng cứ khảo cổ ở khu vực trà Bát 2 và Trà Bát 3 cũng đưa đến những kết luận quan trọng như: khu vực Trà Bát 1 chính là nơi có khả năng là lỵ sở của chúa Nguyễn những năm đầu thế kỉ XVII; kết quả khai quật ở Cồn Dinh hay Phủ Thờ chứng minh trước đây nơi sầm uất, nơi tụ cư đông đúc.

dinh_chua_nguyen_qt.jpg

Các nhà khảo cổ cho rằng, đây mới chỉ là kết quả bước đầu nên cần phải có thời gian tìm hiểu sâu hơn mới có thể đưa ra khẳng định chính xác

Được biết, dấu ấn chúa Nguyễn Hoàng tại Quảng Trị được ghi lại theo lịch sử bắt đầu từ 1558, tính từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất mới. Ông đã dừng lại ở Ái Tử (nay huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đặt thủ phủ đầu tiên. Sau đó, năm 1570 chúa Nguyễn Hoàng cho dời dinh từ Ái Tử sang làng Trà Bát còn gọi là Dinh Trà Bát. Năm 1600, Nguyễn Hoàng trở lại Thuận Hóa và tiến hành chuyển lỵ sở một lần nữa gọi là Dinh Cát (hay Cát Dinh). Năm 1626, ông tiến hành cho dời Lỵ sở từ Quảng Trị vào vùng Phước Yên của Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, Dinh Cát được xem là 1 trong 12 dinh của xứ đàng trong. Đồng thời, là trung tâm hành chính, chính trị từ thế kỉ XVII-XVIII. Vào thời kỳ 1802-1809 khi vua Gia Long lập dinh Quảng Trị thì Dinh Cát là được xem là lỵ sở của dinh Quảng Trị buổi ban đầu.

(Tổng hợp: baoquangtri; dantri; vietnam+)

Nhóm các nhà khảo cổ học dẫn đầu bởi Tiến sĩ Kichigin đến từ Đại học nghiên cứu Công nghệ Quốc gia Irkutsk kết hợp với sự hỗ trợ của Yuliana Yemelyanova đến từ phòng thí nghiệm Khảo cổ học, Cổ sinh học và Các hệ thống hỗ trợ sự sống của con người ở Bắc Á đã có những nghiên cứu về mộ táng thời đại đồ đồng gần hồ Baikal. Điều này đã gây ra sự ngạc nhiên đối với các nhà khảo cổ học.

001.jpg

Di cốt của người đàn ông có một chiếc vòng được chế tác từ một loại đá ngọc bích màu trắng (Jade) khá hiếm,được đặt ở hốc mắt. Ảnh: Dmitry Kichigin.

Các chuyên gia đánh giá rằng, cặp di cốt này bao gồm một người đàn ông già hơn và vợ hoặc có thể là vợ lẽ của ông ấy. Có một số yếu tố khá độc đáo đối với cặp đôi này và họ được tin rằng là thuộc cư dân văn hóa thời đại Đồng ở Glazkov.

Di cốt của người đàn ông có một chiếc vòng được làm từ đá ngọc bích khá hiếm, đặt trên hốc mắt. Ba chiếc khác thì đặt ở trên ngực. Tiến sĩ khảo cổ học Dmitry Kichingin nói rằng: “Có lẽ vì lý do nào có thể có sự liên quan tới quan niệm của họ về thới giới bên kia”.

002.jpg

003.jpg

004.jpg

005.jpg

006_0.jpg

007.jpg

Ảnh khai quật tại hiện trường và vị trí phát hiện di chỉ chứa di cốt gần hồ Baikal. Ảnh: Dmitry Kichigin.

Một vài mẫu xương của cặp di cốt này đã được gửi tới Canada để phân tích niên đại phóng xạ nhưng nhóm nghiên cứu các nhà khảo cổ học Nga có tham gia môt số cuộc khai quật tin rằng niên đai của cặp đôi đó khoảng từ 4.500BP tới 5.000BP.

Tiến sĩ Dmitry Kichigin cũng nói thêm rằng: “Trong ngôi mộ này chúng tôi tìm thấy bộ xương của người phụ nữ và đàn ông, di cốt được chôn ở tư thế nằm ngửa, đầu hướng về phía tây, hai di cốt nắm tay nhau”.

Di cốt của người đàn ông còn nguyên vẹn nhưng những động vật gặm nhấm đã làm hư hại một phần di cốt của người phụ nữ. Bên cạnh của di cốt nữ là một con dao bằng đá ngọc bích lớn, dài khoảng 13cm và rộng khoảng 7cm.

Dây truyền đeo được chế tác từ xương hươu được tìm thấy gần sọ và xung quanh chân của người đàn ông. Tương tự như vậy, chúng cũng được dùng để trang trí như dạng mũ và ở chân.

 “Chúng có mối liên hệ với người chủ của nó hay người vợ lẽ của ông ta?” Các nhà khảo cổ học đã tự đặt ra câu hỏi như vậy. Hiện tại câu trả lời là chưa rõ ràng: họ có thể tiến hành phân tích DNA để kiểm tra liệu cặp đôi này có liên quan tới nhau, nhưng dường như điều này sẽ mất rất nhiều kinh phí.

Vị trí chính xác của khu vực phát hiện hiện tại vẫn được giữ bí mất để tránh những kẻ tìm kiếm đồ cổ nghiệp dư đến phá hoại bởi vì khu vực này hoàn toàn có thể tìm thấy các mộ khác mà khả năng niên đại sẽ sớm hơn hai di cốt này.
“Chúng ta đã rất may mắn khi tìm được một di cốt trong tình trạng hoàn hảo”, nhà khảo cổ học Kichigin đã nói vậy, “Sẽ rất thú vị để phát hiện ra mục đích của con dao bằng đá ngọc bích có kích cỡ khá lớn được đặt gần người phụ nữ”.
“Chúng ta cũng  tìm ra một số hiện vật bằng kim loại trong một bao da nhỏ ở gần xương bánh chè của người đàn ông”. Các nghiên cứu, phân tích về di vật sẽ bắt đầu vào mùa thu.
“Mũi đất mà chúng tôi đã tiến hành một vài cuộc khai quật trước đó là một nơi vô cùng đáng sợ đối với cư dân tiền sử”, ông ấy nhấn mạnh thêm. Nó không phải là một di chỉ cư trú nhưng đã được sử dụng cho các nghi thức tôn giáo đồng thời có vai trò như nghĩa địa trong thời tiền sử. “Chúng tôi mong chờ nhiều khám phá thú vị về di chỉ khảo cổ học này, vì vậy chúng tôi dự định tiếp tục công việc đó vào năm tới”.

Nguồn: http://siberiantimes.com

Dịch: Phạm Thanh Sơn

 

Người Neanderthal đã cư trú ở gần như toàn bộ châu Âu. Khoảng 45.000 cách ngày nay, người Neanderthal là giống người chiếm đa số ở châu Âu. Các phát hiện khảo cổ học chỉ ra rằng, có một số di chỉ cư trú ở Đức được phát hiện trong thời gian đó.
Tuy nhiên, thời kỳ kết thúc của người Neandethal là khá đột ngột. Dựa trên phân tích nghiên cứu của một số di chỉ khảo cổ học chưa biết đến, giáo sư Jürgen Richter từ Trung tâm hợp tác nghiên cứu 806 - Con đường của chúng ta tới châu Âu đã đi đến kết luận rằng, người Neanderthals đã đạt dân số cực đại trước khi giảm một cách nhanh chóng và họ thậm chí đã bị tuyệt chủng.
 nean.jpg
Sọ cổ người Neanderthal
Những người Neanderthal đã sống ở giai đoạn trung kỳ Đá cũ, giai đoạn giữa của thời đại Đá cũ (cổ) bao gồm khoảng thời gian từ khoảng 200.000 tới 40.000 năm trước thời kỳ của chúng ta. Trong bài báo của ông ấy được xuất bản trong Tạp chí Đệ tứ Quốc tế, Richter đã đi đến một số kết luận rằng, hơn 50% trong số một vài di chỉ cư trú của những người Neanderthal có thể có niên đại vào giai đoạn trung kỳ Đá cũ ở Đức. Quan trọng hơn, niên đại của chúng vào khoảng 60.000 tới 43.000 cách ngày nay. Vì vậy, dân số của người Neanderthal dường như đã đạt đỉnh ở thời kỳ này.
 
Số lượng di chỉ, các nghiên cứu đó cùng với các nghiên cứu về loại hình hiện vật phát hiện ở các di chỉ cư trú chỉ ra rằng người Neanderthal ở Đức phụ thuộc vào sự dao động cao độ về nhân khẩu học. Trong giai đoạn Trung kỳ Đá cũ, dường như có một số cư dân di cư, dân số tăng hoặc giảm và tuyệt chủng ở những khu vực đã biết đến đồng thời sau đó có một sự quay trở lại của những người mới đến những khu vực này.
 
Trong khoảng thời gian 110.000 đến 70.000BP, chỉ có bốn di chỉ cư trú được biết đến, trong giai đoạn tiếp theo từ 70.000 tới 43.000BP con số đó là 94 di chỉ. Tuy nhiên, mặc dù có sự gia tăng về nhân khẩu đạt đỉnh khoảng dưới 1000 năm nhưng đã có một sự sụt giảm nhanh và người Neanderthal đã biến mất trong bối cảnh đó. Rõ ràng là tại sao họ là chết hết thì đó vẫn là một vấn đề chưa rõ ràng. Có thể là vì sự đa dạng về gen của họ thấp hoặc cũng có lẽ là sự xuất hiện của Homo spiens. Câu hỏi này vẫn là thách thức với các nhà hoa học. 
Dịch: Phạm Thanh Sơn

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9751986
Số người đang online: 23