Đối với lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn, việc phát hiện di tích thời đại đá cũ ở An Khê - Gia Lai được đánh giá là một trong mười sự kiện khoa học nổi bật. Bên cạnh đó, sự kiện tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ năm cũng được vinh danh.
Việc phát hiện hệ thống các di tích sơ kỳ đá cũ ở An Khê là bằng chứng khẳng định vùng đồi gò An Khê ở thượng du sông Ba thuộc dạng hình chuyển tiếp từ cao nguyên xuống vùng đồng bằng, từ rất sớm có thể đã là địa bàn sinh sống của Người vượn đúng thẳng-Homo erecetus. Công việc nghiên cứu tại An Khê vẫn còn được tiếp tục trong nhiều năm sau.
Ngày 20/12, Trung tâm nghiên cứu Kinh Thành (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với Bảo tàng tỉnh Yên Bái tổ chức báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học các di vật lò nung vật liệu thời Trần tại di tích Pù Lườn Xe thuộc thôn 7, xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, Yên Bái.
Năm 2011, Bảo tàng Yên Bái phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành thám sát tại thôn 7, xã Tân Lĩnh, huyện Lục Yên đã phát hiện được quần thể di tích Pù Lườn Xe. Sau khi khai quật mở 11 hố thám sát tại khu vực chân đồi đã xuất lộ dấu vết của một hàng gạch, tường gạch cổ… Đến năm 2015, Bảo tàng tỉnh Yên Bái tiếp tục phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Kinh Thành điều tra khảo sát các di tích này, phát hiện nhiều mảnh gạch, ngói, các loại hình trang trí mái kiến trúc như: ngói đầu đao gắn lá đề, ngói đầu đao gắn trên mái tháp, ngói tạo hình tượng rồng…
Năm ngoái, các nhà khảo cổ đã dùng kỹ thuật chụp quét ảnh điện tử để tìm kiếm kim tự tháp này, vốn được xây dựng trên một sông ngầm.
Từ lâu các chuyên gia đã biết rằng có một kim tự tháp nhỏ hơn nằm bên trong kim tự tháp lớn bên ngoài, tạo thành 2 lớp kim tự tháp. Nhưng hiện nay họ lại cho biết đã phát hiện được thêm một cấu trúc thậm chí nhỏ hơn nữa ẩn giấu bên trong hai lớp kim tự tháp này.
Ảnh chụp cắt lớp kim tự tháp Kukulkan (Ảnh: AP)
Các lớp công trình kim tự tháp bên trong Kukulkan. (Ảnh: Soha News)
Phát hiện mới có được nhờ sử dụng kỹ thuật chụp quét ảnh 3D, khá giống chụp cắt lớp CT tại bệnh viện, để khám phá cấu trúc bên trong kim tự tháp. Sử dụng cái gọi là ‘phương pháp rọi kính suất điện trở 3D’, họ phát hiện được một cấu trúc cao 10 m nằm trong kim tự tháp ‘trung bình’ cao 20 m, và đến lượt nó lại được bao phủ bởi một lớp kim tự tháp bên ngoài.
Trong phương pháp này, họ chụp quét kim tự tháp sử dụng một loạt điện cực lắp đặt xung quanh di chỉ. Những điện cực này sẽ truyền các dòng điện dùng để đo điện trở, từ đó vẽ cấu trúc của bất kỳ công trình nào.
Nhà khảo cổ Denisse Lorenia Argote nói: ‘Nếu chúng ta có thể nghiên cứu công trình này trong tương lai, thì nó có thể cho chúng ta biết về những người định cư đầu tiên tại di chỉ’.
Tuy nhiên, ảnh chụp máy tính từ các nhà nghiên cứu cũng cho thấy kim tự tháp ẩn giấu này có bố cục không đồng đều với 2 lớp kim tự tháp bên ngoài.
Giáo sư nhân chủng học Geoffrey Braswell từ Đại học California (San Diego) đã so sánh kim tự tháp này với một con búp bê Nga, trong đó có nhiều lớp búp bê lồng vào nhau, con nhỏ nằm bên trong con lớn.
Khu di chỉ Chichen Itza của người Maya, hiện là một Di sản thế giới UNESCO, đón chào hơn một triệu du khách mỗi năm. (Ảnh: Internet)
Đảo Phục Sinh là hòn đảo biệt lập và huyền bí nhưng xinh đẹp vào bậc nhất thế giới. Nơi đây có lưu giữ 887 bức tượng Moai mà cho đến ngày nay, vẫn chưa có ai lý giải được vì sao và bằng cách nào chúng nằm rải rác khắp hòn đảo.
Người ta vẫn tin tưởng rằng, những bức tượng này chỉ có phần đầu hoặc có thêm phần vai. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ đã phát hiện phần thân chìm bên dưới, trong đó chứa đựng nhiều bí ẩn và căn cứ quan trọng về nền văn minh trên hòn đảo này.
Bà Jo Anne Van Tilburg, giám đốc dự án tượng đảo Phục Sinh cho biết, năm 2010 nhóm của bà đã đào được 2 phần thân bị chôn vùi. Theo đo đạc, những bức tượng Moai có trọng lượng 75 tấn, cao khoảng 10 mét, cá biệt có những bức nặng 270 tấn và cao 21 mét. Phần lớn thân của các bức tượng bị chôn vùi dưới lòng đất, trên thân có những dòng chữ đươc gọi là tranh đá. Có giả thuyết rằng, những chi tiết cổ như vòng xoáy và hình thắt nút là tượng trưng cho chiếc xuồng của người dân Polynesia địa phương.
Điều đáng chú ý là trong những cuộc khai quật, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy dấu vết của sợi dây thừng thắt chặt, chứng tỏ bức tượng đã được lôi hoặc kéo đi. Họ còn tìm thấy hơn 500 công cụ chạm khắc đá, rất có thể đó là công cụ chạm khắc những bộ phận khác nhau của cơ thể bức tượng. Ngoài ra còn có các công cụ để trang trí và mài nhẵn bề mặt thân tượng.
Những bức tượng này được tạc nguyên khối từ núi đá lửa, trên thân lại khắc chữ tượng hình. Những bức tượng như vậy được tạo ra để làm gì? Bằng cách nào họ có thể mang chúng đi chôn khắp hòn đảo?
Những câu hỏi như vậy đến nay vẫn làm đau đầu các nhà khoa học. Người ta tin rằng những bức tranh đá được mã hóa ký tự ấy chính là lời giải cho những bí mật bấy lâu nay về tượng Moai cũng như hòn đảo Phục Sinh.
(daikynguyenvn.com)
Với diện tích khai quật 3.800m2, thời gian thực hiện kéo dài gần 1 năm, số lượng cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ được huy động lên tới hơn hai chục người, đây là một trong những công trình nghiên cứu quy mô về khảo cổ học Chămpa mà Viện Khảo cổ học phối hợp với các cơ quan quản lý và chuyên môn liên quan từng thực hiện.
Di tích Triền Tranh nằm trong không gian văn hóa của cụm phế tích kiến trúc Chămpa phân bố ở thung lũng Chiêm Sơn tây. Khu vực này được các nhà nghiên cứu lịch sử - khảo cổ - văn hóa chămpa quan tâm từ lâu nhưng chưa có điều kiện triển khai nghiên cứu.
Cuốn sách là một hệ thống tư liệu có giá trị khoa học, trung thực, khách quan những kết quả đã đạt được từ đợt khai quật năm 2015. Nội dung chính bao gồm 3 phần: Phần thứ nhất là khái lược về di tích Chămpa ở Quảng Nam và lịch sử nghiên cứu di tích Triền Tranh. Phần thứ hai là di tích Triền Tranh qua khai quậ khảo cổ học 2015 bao gồm quá trình chuẩn bị, kết quả khai quật, di vật.
Phần thứ 3 Giá trị lịch sử văn hóa của di tích Triền Tranh trong văn hóa Chămpa.
Ngoài ra còn kèm theo các phụ lục như bản ảnh khai quật, ảnh hiện vật, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ. Sách được viết bằng 2 ngôn ngữ Anh và Việt thuận lợi cho những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu.
Xin trân trọng giới thiệu đến các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm!
Nội dung cuốn sách chia làm 3 phần:
Phần một: Hồ Chí Minh với văn hóa Trung Quốc, giới thiệu các bài nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam, người bạn lớn của nhân dân Trung Quốc với văn hóa Trung Quốc, cùng với ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Quốc với tư tưởng của Người.
Phần hai: Nghiên cứu, giảng dạy văn hóa Trung Quốc ở Việt Nam, giới thiệu những công trình nghiên cứu về Nho giáo Trung Quốc và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu giảng dạy văn hóa Trung Quốc từ mã văn hóa, vấn đề văn tự và đặc điểm văn hóa truyền thống Việt - Trung trong bối cảnh giá trị Đông Á để nhận chân các giá trị của văn hóa truyền thống hai nước.
Phần Ba: Giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc trong tiến trình lịch sử, giới thiệu các bài viết về mối quan hệ giao lưu trong lĩnh vực văn học, tư tưởng, tổ chức chính quyền … giữa hai nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Xin trân trọng giới thiệu!
Đây là những bài báo rút ra từ tờ “Tạp chí Thanh Nghị”. Là tập hợp các bản dịch của nhà báo, nhà nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Phấn (1910-1996). Thọ gần 90 tuổi, gần trọn cuộc đời sống và làm việc trong thế kỷ XX, Cụ làm công việc thầm lặng là dịch thuật, giảng dạy, địa lý một thời gian ngắn ở Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) rồi gắn bó với công tác thư viện tại Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu!
Tập Bào tử - Phấn hoa trong bộ Atlas cổ sinh vật Việt Nam giới thiệu các Bào tử - Phấn hoa thu thập được trong các trầm tích Mesozoi và Kainozoi ở nước ta, gồm 250 taxon cấp loài được mô tả, trong đó 218 loài thuộc hệ Kainophyta và 32 loài thuộc hệ Mesophyta. Trong công trình này, mẫu vật mô tả hầu hết được sưu tập từ năm 1960 đến nay và được lưu trữ tại Bảo tàng Địa chất Hà Nội, Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, Phân viện Dầu khí miền Nam và Viện Khảo cổ học.
Tập Bào tử - Phấn hoa gồm hai phần: Phần 1. Bào tử - Phấn hoa trong trầm tích Mesozoi. Các hóa thạch này được xác định theo hệ thống phân loại nhân tạo (theo hình thái của hạt Bào tử và Phấn hoa), nên hệ thống phân loại cũng khác với các Bào tử - Phấn hoa của hệ thực vật Kainophyta, nhất là cấp phân loại cao hơn giống, phần này do Bùi Đức Thắng mô tả; Phần 2. Bào tử - Phấn hoa trong trầm tích Kainozoi, chủ yếu được xác định theo hệ thống phân loại tự nhiên. Ngoài ra còn một số dạng cổ thuộc trầm tích Đệ tam được xác định theo hệ thống phân loại nhân tạo và có liên hệ với các dạng được xác định theo phân loại tự nhiên.
Xin trân trọng giới thiệu!
Tham dự hội thảo về phía Việt Nam có PGS.TS. Nguyễn Giang Hải - Viện trưởng Viện Khảo cổ học cùng các nhà nghiên cứu đến từ Viện Khảo cổ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội. Về phía Thái Lan có Ngài Vinut Intarasuwan, Học viện Quân đội Hoàng gia Chulachomklao, TS. Silaporn Buasai, Ban Giám đốc Qũy Nghiên cứu Thái Lan, Trung tâm Nghiên cứu CRMA, TS Tej Bunnag, Giám, đốc Trung tâm Nghiên cứu CRMA, cùng đông đảo các nhà nghiên cứu đến từ Thái Lan, Nhật Bản, Úc, Cambodia , Malaysia, Myanmar.
PGS.TS Nguyễn Giang Hải phát biểu khai mạc hội thảo
Toàn cảnh hội thảo
Các đại biểu tham dự Hội thảo
Trong hai ngày làm việc tại Hội trường, Hội thảo đã thảo luận các vấn đề “Nhà nước sớm ở khu vực Đông Nam Á lục địa, Mối quan hệ văn hóa ở Đông Nam Á lục địa, Hành lang văn hóa Đông Tây”. Nhiều báo cáo cụ thể liên quan đến các vấn đề này đã được trình bày và thảo luận sôi nổi như Nghề luyện kim cổ trong đế chế Khơ me: Một phát hiện mới về khu lò luyện sắt Angkor-Salakravan; Những di tích khảo cổ học dọc hệ thống đường giao thông cổ ở miền nam Myanmar, Nghiên cứu bước đầu những di tích lò gốm và di vật của nó thời kỳ nhà nước Môn, Myanmar, Mạng lưới trao đổi thương mại thời Pyu qua tài liệu gốm sứ, Hành lang văn hóa Đông Tây thời trung đại: Phương pháp tiếp cận Thông tin địa lý; Mối quan hệ văn hóa ở Đông Nam Á thời kỳ sớm: Nghiên cứu trường hợp Thái Lan…
Các đại biểu Việt Nam tham dự hội thảo đã có 05 tham luận với các chủ đề “Điêu khắc Ấn Độ giáo và vai trò của những trung tâm thương mại ở Đông Nam Á lục địa, Văn hóa Sa Huỳnh và vấn đề hình thành nhà nước sớm ở miền Trung Việt Nam; Di vật khảo cổ từ cuộc khai quật thành Cổ Loa; Những vấn đề liên quan đến vấn đề nhà nước sớm ở Việt Nam; Nhà nước sớm ở Bắc Việt Nam; Vương quốc Champa từ thế kỷ 4-7: Quá trình hình thành nhà nước sớm ở miền Trung Việt nam dưới tiếp cận khảo cổ học cảnh quan”.
Bên cạnh đó cũng có báo cáo giới thiệu việc ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật trong việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như Khảo sát 3D Di sản lịch sử văn hóa sử dụng flycam: Nghiên cứu trường hợp đền Sulamani, Bagan, Myanmar.
Tổng kết hội thảo, PSG.TS Nguyễn Giang Hải, PGS.TS Surat Lertum nhấn mạnh hội thảo là dịp để các nhà nghiên cứu trao đổi thảo luận, cũng như mở rộng tìm kiếm cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực nghiên cứu liên quốc gia, giáo dục văn hóa cho khu vực Đông Nam Á lục địa.
Kết thúc thời gian làm việc tại hội trường, Hội thảo tiếp tục bằng những chương trình đi khảo sát thực tế tại một số bảo tàng, di tích lịch sử văn hóa tại Thái Lan và Campuchia trong các ngày 14-16/11/2016.
Các đại biểu tham quan di chỉ khảo cổ học Mahosot tại Thái Lan
Các đại biểu tham quan di chỉ khảo cổ học Batambang tại Campuchia
Phát biểu tại Hội thảo, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam GS.TS Nguyễn Quang Thuấn cho biết: Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông sinh ngày 20/11/1916 tại Hà Nội. Ông được nhiều người biết đến với tư cách là một nhà sử học, khảo cổ học, nhà hoạt động chính trị, nhà sư phạm mẫu mực, nhà thơ của thể loại anh hùng ca, với nhiều chức danh cao ở trong nước và quốc tế. Song trước hết phải nói đến Phạm Huy Thông – một trí thức cách mạng yêu nước.
Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1966); nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1967-1988) (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam); Viện trưởng đầu tiên của Viện Khảo cổ học. Ông cũng là người sáng lập Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
GS Phạm Huy Thông (thứ 2 từ phải sang) tiếp khách Mỹ năm 1984. Ảnh tư liệu của Viện Khảo cổ học
Phạm Huy Thông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của danh tướng thời nhà Trần: Phạm Ngũ Lão. Năm 16 tuổi Phạm Huy Thông đã nổi tiếng tiên phong của phong trào Thơ mới, điển hình là bài thơ Tiếng địch sông Ô. Năm 21 tuổi ông đỗ cử nhân luật tại Viện Đại học Đông Dương. Năm 22 tuổi ông sang Pháp tiếp tục theo học chương trình đào tạo trên đại học các ngành sử, địa, luật, kinh tế, chính trị. Năm 26 tuổi ông lần lượt đỗ tiến sĩ luật, thạc sĩ sử-địa tại Pháp. Năm 31 tuổi ông được phong giáo sư giữ chức Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp.
Năm 1946, tại Paris (Pháp) ông được chọn giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hội nghị Fontainebleau. Chính thời gian được gần gũi Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã quyết định đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho Tổ quốc.
Năm 1949 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, năm 1953 gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông phụ trách tổ chức Việt kiều yêu nước hải ngoại, bị bắt, bị giam cầm. Năm 1952 bị trục xuất khỏi Pháp, về nước ông vẫn kiên định lý tưởng của Đảng, năm 1952 ông bị chính quyền Pháp đưa về quản thúc tại Hải Phòng.
Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông là người có biệt tài về tổ chức và kinh nghiệm lãnh đạo công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy, ông đã cùng các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thực hiện thành công nhiều đề tài do Đảng, Nhà nước giao phó, như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học Việt Nam 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần… góp phần làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia có nền khảo cổ học mạnh tại Đông Nam Á và thế giới.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu, sáng tác, Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông còn là một dịch giả nổi tiếng, chuyển ngữ thành công tập Truyện ký Nguyễn Ái Quốc từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Với tất cả những đóng góp, cống hiến của ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng nền Khoa học xã hội và Giáo dục Việt Nam, cho sự nghiệp hòa bình thế giới, Đảng, Nhà nước ta đã tặng Giáo sư, Viện sỹ Phạm Huy Thông nhiều huân chương và phần thưởng cao quý. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu khảo cổ (Hang Con Moong, trống đồng Đông Sơn và các bài dẫn luận về thời đại Hùng Vương).
Chân dung giáo sư Phạm Huy Thông do ông Hoàng Văn Dư cán bộ Viện Khảo cổ học vẽ năm 2000
PGS.TS Nguyễn Giang Hải (Viện trưởng Viện Khảo cổ học) trả lời phỏng vấn về sự nghiệp khoa học của GS.VS Phạm Huy Thông
Các đại biểu tham dự buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS.VS Phạm Huy Thông