Phần lớn văn hóa vật chất của chúng ta được làm bằng vật liệu hữu cơ, và điều này có thể cũng xảy ra trong thời tiền sử. Trong số văn hóa vật liệu hữu cơ thời tiền sử này có hàng dệt may và dây thừng, tận dụng tính linh hoạt và độ bền của sợi thực vật. Mặc dù trong những trường hợp rất đặc biệt và trong những hoàn cảnh rất thuận lợi, các mảnh giỏ và dây còn sót lại và được phát hiện ở các địa điểm khảo cổ học vào cuối thế Pleistocene và Holocene, tuy nhiên những đồ vật này nói chung không được bảo quản, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới.
Nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường  khảo cổ học,  đại học Philippines cùng với bảo tàng quốc gia Philippine dẫn đầu bởi Ts. Xhauflair đã báo cáo về việc phát hiện ra dấu vết sử dụng đặc trưng của các sợi thực vật mỏng được tìm thấy trên ba công cụ bằng đá từ các trầm tích cuối kỷ Pleistocene tại Hang Tabon, Đảo Palawan, Philippines, có niên đại từ 39.000–33.000 BP. Sự phân bố các vết sử dụng trên các hiện vật này giống như sự phân bố được quan sát thấy trên các công cụ thử nghiệm được sử dụng để làm mỏng sợi, theo một kỹ thuật được ghi lại trong bối cảnh dân tộc học trong các cộng đồng Palawan và hiện đang phổ biến trong khu vực. Mục đích của hoạt động này là biến các đoạn thực vật cứng thành các dải mềm phù hợp làm vật liệu buộc hoặc đan giỏ, bẫy và thậm chí cả thuyền
Những kết quả này cho thấy rằng các hiện vật Đông Nam Á có vẻ đơn giản đang ẩn chứa những bằng chứng về sự phức tạp trong hành vi mà mắt thường không nhìn thấy được nhưng chúng ta có thể khám phá thông qua phân tích dấu vết sử dụng công cụ.
 Những người ủng hộ Giả thuyết Tre đã đưa ra giả thuyết rằng các công cụ bằng đá ở Đông Nam Á chủ yếu được sử dụng để chế tạo công cụ tre và việc những người làm đồ thủ công thời tiền sử tập trung vào loại cây này sẽ giải thích được tính đơn giản về mặt công nghệ của các đồ tạo tác bằng đá (Xhauflair và cộng sự, 2023).
Kết quả từ nhóm của Xhauflair bổ sung thêm bằng chứng gần đây cho thấy công nghệ  dựa trên thực vật thực sự đã tồn tại trong khu vực trong thời Tiền sử, nhưng cũng bổ sung thêm sắc thái cho Giả thuyết Tre theo nghĩa chặt chẽ, cho thấy rằng con người đầu tư vào vật liệu thực vật theo nghĩa rộng hơn nhiều và không chỉ sử dụng các công cụ bằng đá của họ để làm dao, mũi tên và phi tiêu bằng tre.
Phát biểu trong buổi họp báo tại bảo tàng quốc gia Philippines, Ts.  Timothy James -Một thành viên của nhóm nghiên cứu đã khẳng định tính cố hữu, nhất quán của kĩ nghệ đá này, đồng thời nhấn mạnh mối liên hệ giữa con người và môi trường, sự hấp dẫn của môi trường nhiệt đới đối với cư dân săn bắn – hái lượm.

                                          
      Dấu vết sử dụng và tàn tích được quan sát trên hiện vật P- XIII- T-299 từ lớp Pleistocene muộn, hang Tabon, Palawan, Philippines.
                                        
 

                               Ví dụ phân bố dấu vết sử dụng trên các công cụ thử nghiệm sử dụng cho việc làm mỏng sợi thực vật.

                                             

                  Quá trình tạo sợi được ghi lại tại các cộng đồng Palawan và thử nghiệm tạo ra sợi bằng công cụ đá.

Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:  Xhauflair, H., Jago-On, S., Vitales, T. J., Manipon, D., Amano, N., Callado, J. R., Tandang, D., Kerfant, C., Choa, O., & Pawlik, A. (2023). The invisible plant technology of Prehistoric Southeast Asia: Indirect evidence for basket and rope making at Tabon Cave, Philippines, 39-33,000 years ago. PloS one18(6), e0281415. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0281415





 

                                                             
                                                              Các nhà khảo cổ học Lào khai quật hang Tam Pà Ling (Nguồn: Vito Herna)

Nghiên cứu cấu trúc vi mô của các lớp đất đào từ hang Tam Pà Ling ở đông bắc Lào đã cung cấp cho nhóm các nhà khảo cổ học  Đại học Flinders và các đồng nghiệp quốc tế những hiểu biết sâu sắc hơn về một số bằng chứng sớm nhất về Homo sapiens ở Đông Nam Á lục địa.
Di chỉ này đã được nghiên cứu trong 14 năm qua bởi một nhóm các nhà khoa học Lào, Pháp, Mỹ và Úc, phát hiện một số bằng chứng hóa thạch sớm nhất về tổ tiên trực tiếp của chúng ta ở Đông Nam Á.
Hiện nay, một nghiên cứu mới được dẫn đầu bởi  Nghiên cứu sinh Vito Hernandez và Phó Giáo sư Mike Morley từ  Đại học Nhân văn, Nghệ thuật và Khoa học Xã hội đã phục dựng lại điều kiện mặt đất trong hang động từ 52.000 đến 10.000 năm cách ngày nay, và được công bố trên Tạp chí Quaternary Science Reviews
"Sử dụng kỹ thuật vi địa tầng học tại Phòng thí nghiệm vi khảo cổ học Flinders, chúng tôi đã có thể tái tạo lại điều kiện hang động trong quá khứ và xác định dấu vết hoạt động của con người trong và xung quanh Tam Pà Ling", Hernandez cho biết. "Điều này cũng giúp chúng tôi xác định được bối cảnh chính xác mà một số hóa thạch người hiện đại sớm nhất  ở Đông Nam Á được lắng đọng sâu bên trong".
Vi địa tầng học cho phép các nhà khoa học nghiên cứu đất ở mức độ chi tiết nhỏ nhất, cho phép họ quan sát các cấu trúc và đặc điểm lưu giữ thông tin về môi trường trong quá khứ, thậm chí cả dấu vết hoạt động của con người và động vật có thể đã bị bỏ qua trong quá trình khai quật do kích thước cực nhỏ của chúng.
 
                                  
                                                      PGS. Mike Moley  (Nguồn: Flinders University)
Các hóa thạch người được phát hiện tại Tam Pà Ling đã được lắng đọng trong hang từ 86.000–30.000 năm trước, nhưng cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tiến hành phân tích chi tiết các trầm tích xung quanh những hóa thạch này để hiểu được cách chúng được lắng đọng  trong hang như thế nào hoặc các điều kiện môi trường tại thời điểm đó.
Những phát hiện cho thấy điều kiện trong hang thay đổi đáng kể, từ khí hậu ôn đới với điều kiện đất ẩm ướt thường xuyên sang khô theo mùa.
Phó Giáo sư Morley cho biết:"Sự thay đổi môi trường này ảnh hưởng đến địa hình bên trong hang  và sẽ tác động đến cách trầm tích, bao gồm cả hóa thạch người được lắng đọng trong hang động".
"Cách thức Homo sapiens đầu tiên được chôn sâu trong hang từ lâu đã được tranh luận, nhưng kết quả phân tích trầm tích của chúng tôi chỉ ra rằng các hóa thạch đã được rửa trôi vào hang dưới dạng trầm tích rời rạc và các mảnh vụn tích tụ theo thời gian, có khả năng được nước từ các sườn đồi xung quanh mang theo trong thời kỳ mưa lớn".
 
 
                              
                                                      
                                                                Khai quật hang Tampaling (nguồn: Vito Hernandez)
Nhóm nghiên cứu cũng xác định được các dấu vết vi mô của than củi và tro được bảo quản trong trầm tích hang động, cho thấy rằng hoặc là cháy rừng đã xảy ra trong khu vực trong thời kỳ khô hạn, hoặc con người đến thăm hang có thể đã sử dụng lửa ở trong hang hoặc gần lối vào.
Đồng tác giả nghiên cứu, Phó giáo sư Fabrice Demeter, nhà cổ nhân chủng học từ Đại học Copenhagen, người đã lãnh đạo nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế nghiên cứu Tam Pàn Ling từ năm 2009, cho biết:
"Nghiên cứu này đã cho phép nhóm của chúng tôi phát triển những hiểu biết chưa từng có về động lực của tổ tiên chúng ta khi họ phân tán qua các khu rừng đã từng thay đổi của Đông Nam Á và trong thời kỳ khí hậu khu vực bất ổn".
 
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2024-10-fossils-insights-early-modern-human.html?fbclid=IwY2xjawGahMFleHRuA2FlbQIxMQABHdvOXmG5ZIRs-fglqOnl5qPBhrlch2vjVo_9lQagfA5sVuhIfpZir7bWQg_aem_CBsv1fNMCdKs0M1PHBpxAA
 
- c giả: Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa
Nhà xuất bản: Thanh Hóa – 2020
- Số trang: 212 tr
- Khổ sách: 21 x 29,7cm
Thanh Hóa, nơi sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa làm rạng danh quê hương, đất nước. Trải qua thời gian, lịch sử đã để lại cho vùng đất này những di sản văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc, tiêu biểu là bộ sưu tập sắc phong đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày phát huy giá trị tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.
Sắc phong, sắc chỉ là văn bản của Nhà nước, do các vị vua ban tặng. Sắc phong có hai loại: sắc phong cho các vị thần và sắc phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công với triều đình hay cộng đồng.
Sắc phong thần là những sắc phong gìn giữ bảo quản trong các đình đền, miếu … dung để xác nhận việc phong thần cho các vị thần được thờ cúng trong các đình làng, đền, miếu (Thành hoàng …). Các vị thần được phong tặng có thể là thiên thần hay nhân thần. Thiên thần là những vị thần có nguồn gốc trong tín ngưỡng dân gian những nhân vật huyền thoại, vật linh, các hiện tượng thiên nhiên… Nhân thần là những nhân vật lịch sử cụ thể có công với nước chống giặc ngoại xâm, danh nhân văn hóa nhưng cũng có thể là người dân bình thường nhưng có công khai hoang lập làng…. gắn liền với lịch sử làng xã.
Sắc phong chức tước là loại sắc phong do nhà vua các triều đại phong kiến dung để phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công… Loại này không còn nhiều và thường do các gia đình, dòng họ lưu giữ nên ít được công chúng biết đến. Riêng loại sắc phong nội dung này ở Thanh Hóa lại khá phong phú, bởi nơi đây có nhiều công thần của các triều đại phong kiến khác nhau trong lịch sử dân tộc.
Tập sách là nguồn tư liệu phong phú, góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa của tỉnh Thanh Hóa.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: GS.TS. Nguyễn Hữu Minh (chủ biên)
- Năm xuất bản: 2022
- Số trang: 434
Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội, năm 2022, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn sách với nhan đề “Vận dụng phương pháp định lượng và định tính trong nghiên cứu: Từ hình thành ý tưởng đến phát hiện khoa học” do GS.TS. Nguyễn Hữu Minh làm chủ biên. Nội dung chính của cuốn sách là cung cấp cơ sở lý thuyết và các kỹ thuật vận dụng phương pháp định lượng và định tính trong quá trình nghiên cứu, từ việc xây dựng ý tưởng nghiên cứu đến việc thu thập và phân tích thông tin nhằm có được những phát hiện mới về mặt khoa học. Cuốn sách là sản phẩm chắt lọc kinh nghiệm từ nhiều năm nghiên cứu khoa học xã hội và giảng dạy về phương pháp nghiên cứu của các tác giả. Nhiều ví dụ được trình bày nhằm minh họa cho việc vận dụng lý thuyết và kỹ thuật phân tích định lượng và định tính.
Ngoài phần Lời nói đầu, cuốn sách được kết cấu thành 4 phần chính:
Phần I. Bản chất và đặc trưng của phương pháp nghiên cứu định tính
Phần này, nhóm tác giả làm rõ bản chất của nghiên cứu định tính và định lượng thông qua một số tiêu chí sau: (i) Khái niệm; (ii) Các mối quan tâm của nghiên cứu định tính/định lượng; (iii) Một số phương pháp thu thập thông tin cơ bản; (iv) Một số hạn chế của nghiên cứu; (v) Một số lỗi thường gặp. Trên cơ sở đó, nhận diện sự khác biệt chủ yếu giữa nghiên cứu định lượng và định tính; đề xuất phương thức lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp và sự kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu trên. Nhóm tác giả khẳng định, mỗi loại phương pháp có thế mạnh riêng và những hạn chế nhất định. Trong thực tế, nhà nghiên cứu cần phải căn cứ vào mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu và thế mạnh của các nhân đề lựa chọn loại hình phương pháp phù hợp để từ đó đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất.
Phần II. Thiết kế nghiên cứu định lượng và định tính
Tập trung trình bày mục đích và đặc điểm một số loại thiết kế nghiên cứu: (i) Thiết kế mô tả; (ii) Thiết kế nhân quả; (iii) Thiết kế khám phá/thăm dò; (iv) Thiết kế lịch sử; (v) Thiết kế so sánh theo không gian và theo thời gian; (vi) Thiết kế phân tích siêu dữ liệu; (vii) Thiết kế nghiên cứu hành động; (viii) Thiết kế nghiên cứu thực nghiệm. Nhóm tác giả cho rằng, đối với nhà nghiên cứu lành nghề, ý tưởng nghiên cứu có thể đến một cách tự nhiên và để có một ý tưởng hoàn chỉnh cần trải qua nhiều bước khác nhau trước khi đưa ra các câu hỏi nghiên cứu. Về bản chất, câu hỏi nghiên cứu la fnooij dung cơ bản của nghiên cứu được cụ thể hóa dưới dạng câu hỏi. Câu hỏi nghiên cứu khác với câu hỏi thông thường ở chỗ nó đòi hỏi câu trả lời phải có đầy đủ các bằng chứng khoa học và phải thông qua một quá trình nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu phản ánh mối quan tâm của nhà nghiên cứu. Chúng làm nên nội dung nghiên cứu của đề tài
Phần III. Thu thập thông tin định lượng và định tính
Để có thể thu thập thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và chính xác, đặc biệt đảm bảo tính khách quan cho hoạt động nghiên cứu, nhóm tác giả tập trung phân tích và hướng dẫn người nghiên cứu các cách thức thu thập thông tin: (i) Thu thập thông tin thứ cấp; (ii) Thu thập thông tin qua bảng hỏi; (iii) Thu thập thông tin định tính. Trong giai đoạn thực hành nghiên cứu xã hội tại thức địa, nhóm tác giả đưa ra một số lưu ý về đạo đức nghiên cứu trong tổ chức thu thập dữ liệu, trong đó có vấn đề bảo mật dữ liệu thu thập được.
Phần IV. Phân tích thông tin định lượng và định tính
Về phân tích thông tin định lượng, nhóm tác giả đưa ra một số khái niệm cơ bản và hướng dẫn cách so sánh trung bình hai mẫu độc lập và so sánh trung bình nhiều mẫu. Việc so sánh sự khác biệt giữa các nhóm khác nhau giúp làm rõ hiện trạng của vấn đề nghiên cứu; Hướng dẫn một số phương pháp phân tích như: Phân tích tương quan, phân tích hồi quy tuyến tính, phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Trong quá trình phân tích thông tin định lượng, người nghiên cứu cần lưu ý một số điểm sau: thứ nhất, sử dụng thông tin định lượng trong nghiên cứu xã hội không thể tách rời toàn bộ quá trình nghiên cứu đinh lượng; thứ hai, sử dụng thông tin định lượng phải dựa trên khung lý thuyết và các giả thuyết; thứ ba, sử dụng thông tin định lượng cần bắt đầu bằng việc xử lý/ đánh giá mức độ nhất quán, độ tin cậy và tính có hiệu lực của thông tin…
Về phân tích định tính, nhóm tác giả đưa ra một số khái niệm cơ bản và chỉ ra cách xử lý thông tin khi có nguồn dữ liệu đầu vào như tài liệu ghi chép, băng ghi âm, tranh ảnh và hiện vật. Điểm nhấn của phần này là làm rõ các bước trong quá trình phân tích tư liệu văn bản: (i) Phân tích trên thực địa và quản lý dữ liệu; (ii) Mã hóa và ghi nhớ, việc này nhằm rút gọn dữ liệu để có thể dễ dàng phân tích chứ không được làm cho dữ liệu trở nên kềnh càng hơn; (iii) Tìm kiếm mô hình; (iv) Trình bày dữ liệu, rút ra kết luận và kiểm tra.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
- Tác giả: Paul Ory
- Người dịch: Phạm Văn Tuân
- Nhà xb: Dân Trí, 2019
- Khổ: 14 x 20,5
- Số trang: 164tr
Sau cuộc xâm lăng bằng súng ống, cuối thế kỳ 19, đầu thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu chọn cách tiếp cận nhẹ nhàng hơn với mảnh đất An Nam khi đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu văn hóa. Nhiều tác phẩm đã được ra đời ở giai đoạn này, khi họ khám phá đất nước chúng ta từ mọi phương diện: từ địa lý, môi trường tự nhiên, cảnh quan, đến cấu trúc xã hội, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, tâm lý,... Trong đó, Làng Xã Của Người An Nam Ở Bắc Kỳ là một nguồn tư liệu thú vị, khá đủ đầy. Đời sống tinh thần phong phú của người Việt xưa với các lễ hội, tín ngưỡng, thủ tục ma chay, cưới hỏi được đề cập sâu sát. Mọi khía cạnh của lãng xã ở Bắc Kỳ đều được miêu tả sắc bén: từ lịch sử hình thành, tổ chức hành chính, phân chia quyền lực cho đến hiện trạng xã hội, các vấn đề quan trọng của làng xã như đất đai, sở hữu, thuế. Trích đoạn Paul Ory nhận xét về nạn tham quan nhũng nhiễu: “Không có nơi nào mà quyền lực vượt trên cả pháp luật như ở nơi đây: chỉ cần lưu tâm tới vụ việc, bằng vài món quà biếu xén là đủ khiến kẻ nghèo hèn và người yếu thế trở thành kẻ phạm tội, bất chấp công lý”. Làng xã tuy là đơn vị hành chính thấp và nhỏ nhất về quy mô nhưng lại chứa đựng những giá trị tinh thần lớn lao, là tinh hoa của nhiều thế hệ người Việt, ẩn chứa trong đó cả sự phức tạp mà đôi khi người bản địa cũng không nắm bắt hết. Để có thể đi sâu vào văn hóa An Nam thời điểm đó, tác giả Paul Ory đã bỏ công sức học tiếng Việt, đi đến nhiều vùng quê, làng xã xa xôi, nhất là khu vực Bắc Kỳ xưa để có được cái nhìn khái quát, nhận định chi tiết nhất. Cuốn sách có tên tiếng Pháp là La commune Annamite au Tonkin, được xuất bản lần đầu tại Paris năm 1894 và từng được hai học giả Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh xếp vào thư mục tham khảo của mình vào cuối thập niên 1930.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Năm 2021, trong đợt khai quật khu vực Đông Bắc di tích Chính điện Kính Thiên (Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long), đoàn khai quật của Viện Khảo cổ học và Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội đã phát hiện một di vật mô hình kiến trúc đất nung tráng men màu xanh. Nghiên cứu bước đầu cho thấy đó là các mảnh vỡ một tầng mái của mô hình đất nung nhiều tầng ký hiệu 21.ĐKT.H1.L2-3, thuộc lớp đào L03 (hình 1), nằm trong tầng văn hóa thời Lê sơ (thế kỷ XV - XVI). Di vật đã bị vỡ mất hết tầng đế và tầng trên, phần còn lại gần đầy đủ một tầng mái (hình 2). Mô hình được làm bằng đất sét mịn màu đỏ tươi, toàn bộ mặt ngoài được phủ men màu xanh đối với bộ mái và màu vàng đối với phần khung gỗ, mặt trong mô hình cũng được tráng men vàng (hình 2). Nhận thấy đây là một loại di vật quý có giá trị cung cấp những tư liệu mới mang tính xác thực cao quý hiếm cho việc nghiên cứu hình thái kiến trúc và mỹ thuật trang trí kiến trúc cổ truyền Việt Nam, chúng tôi bước đầu nghiên cứu mô hình kiến trúc đất nung này.

(Tống Trung Tín, Bùi Văn Sơn, Khảo cổ học số 5/2023)
Qua những phát hiện về kiến trúc và di vật trong quá trình khai quật nghiên cứu phế tích tháp Xuân Mỹ góp phần làm rõ thêm về tiến trình trang trí kiến trúc trong nghệ thuật Champa thời vương triều Vijaya. Nếu giai đoạn đầu khi dời đô về Vijaya vào cuối thế kỷ X, các kiến trúc tháp Champa trang trí bằng cách khắc tạc trực tiếp trên gạch là chủ đạo, tiêu biểu như tháp Bình Lâm. Đến thế kỷ XII, khi có sự chuyển biến về kiến trúc, về cơ bản những họa tiết trang trí trực tiếp trên gạch trở nên giảm dần, thay vào đó là những trang trí bằng gốm đất nung trở thành chủ đạo, bên cạnh đó vẫn sử dụng chất liệu đá trong trang trí nhưng với số lượng hạn chế, tiêu biểu cho kiến trúc thời kỳ này là tháp Bánh Ít, phế tích tháp Lai Nghi, phế tích tháp Rừng Cấm và phế tích tháp Xuân Mỹ. Đến đầu thế kỷ XIII, trở về sau, khi ảnh hưởng của kiến trúc Khmer trở nên đậm nét hơn thì việc sử dụng chất liệu đá trong trang trí kiến trúc trở nên phổ biến hơn, tiêu biểu như tháp Dương Long, tháp Đôi, tháp Cánh Tiên, phế tích Tháp Mắm…
Bối cảnh lịch sử có sự tác động đến kiến trúc Champa trong từng thời kỳ khác nhau. Với quy mô kiến trúc to lớn, trang trí mỹ thuật đẹp, được xây dựng tại cửa ngõ kinh đô Vijaya, đã phần nào phản ảnh lịch sử Vijaya thời kỳ này, đây là thời kỳ ổn định về xã hội, kinh tế phát triển, tạo nên sức sống mới sau những biến động lịch sử. Như phần trên đã trình bày, có thể tháp Xuân Mỹ được xây dựng dưới triều vua Jaya Harivarman I. Ông là vị vua đã đưa vương quốc Champa phát triển hùng mạnh với nhiều chiến công như đẩy lùi cuộc tấn công của quân Khmer vào Vijaya vào năm 1149 và sự can thiệp của Đại Việt ở phía bắc năm 1150. Để củng cố vương quyền và sự thống nhất trên toàn lãnh thổ vương quốc Champa, vua Jaya Harivarman I đã đem quân dẹp tan các cuộc nổi loạn của tiểu quốc Amaravarti năm 1151 và tiểu quốc Panduranga năm 1160, được công nhận là người cai trị toàn cõi vương quốc Champa. Sau những chiến thắng, ông đã cho xây dựng rất nhiều ngôi tháp trên khắp lãnh thổ Champa như tại tháp G trong thánh địa Mỹ Sơn, mà bia ký G5 có ghi lại và tại tháp Po Nagar, hai thánh địa lớn nhất phía Bắc và phía Nam của vương quốc Champa (Maspero 2020: 252-253).
Những mảnh gốm sứ có nguồn gốc từ Đại Việt và Trung Hoa được sử dụng phục vụ trong công trình tôn giáo Champa, cũng phản ánh quá trình giao thương buôn bán diễn ra giữa vương quốc Champa với các quốc gia lân cận.Vương quốc Champa có vị trí địa lý nằm trên tuyến đường giao thương đông - tây, chính vì vậy có điều kiện tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa bên ngoài. Phế tích tháp Xuân Mỹ được xây dựng theo truyền thống kế thừa tinh hoa nghệ thuật kiến trúc tháp Champa, đó là sử dụng chất liệu gạch, kết hợp vật liệu xây dựng mới ảnh hưởng từ văn hóa Khmer đó là đá ong. Quá trình khai quật phát hiện một số hiện vật trang trí kiến trúc có khắc chữ Hán, phản ánh sự giao lưu giữa văn hóa Champa với văn hóa Đại Việt hoặc Trung Hoa xa hơn là Khmer. Đó là những minh chứng cho mối quan hệ mở rộng  đa chiều giữa vùng đất Vijaya với các nền văn hóa bên ngoài, tiếp thu có chọn lọn làm giàu bản sắc văn hóa Champa trong lịch sử.

(Hoàng Như Khoa, Khảo cổ học số 2/2024)
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích thuộc tính để hiểu sự biến đổi hình thái và hành vi sử dụng vật liệu liên quan đến các kỹ thuật sản xuất theo thời gian, như trong trường hợp các hiện vật đá được thu thập từ hang đá Thung Lau trong cuộc khai quật năm 2022 tại thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Kết quả cho thấy, trong khoảng thời gian hơn 20.000 calBP và trước đó, các loại công cụ đều là những chiếc chopper với các cạnh nằm ngang, dọc hoặc ba cạnh, được làm từ vật liệu đá vôi thuận lợi. Những đặc điểm này có sự tương đồng với một số di tích Hòa Bình sớm ở Ninh Bình đã được xác định niên đại chính xác, từ hơn 30.000 calBP đến 20.000 calBP. Từ khoảng 14.000 calBP đến 9.000 calBP, các công cụ có hình dạng xuất hiện và có sự gia tăng các công cụ được làm từ đá magma và đá biến chất với sự xuất hiện của đá bazan, diabase và granite. Giai đoạn mới nhất cho thấy sự hiện diện của cư dân Đa Bút, những người biết làm gốm và khai thác tài nguyên biển.
(Phạm Thanh Sơn, Khảo cổ học số 1/2024)
Khổ 19x27, 100 trang

- Tác giả :TS.Trần Thị Phương Hoa (Chủ biên), Viện sử học

Năm xuất bản: 2023
- Số trang: 432tr
Cuốn sách được phát triển từ đề tài nằm trong hệ đề tài nghiên cứu cấp Bộ về Nông thôn Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại do Viện Sử học triển khai từ năm 2013. Hệ đề tài nghiên cứu Nông thôn Việt Nam sẽ góp phần nhận diện đầy đủ hơn về diện mạo làng xã, hình thức quần cư, cộng cư, thiết chế chính trị - xã hội làng xã; kết cấu kinh tế truyền thống; quá trình thiên di, di dân; các mối quan hệ họ hàng – làng – nước ở nông thôn… và vai trò của nông thôn, làng xã trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nội dung khoa học của đề tài góp phần tư vấn cho các nhà quản lý hoạch định những chính sách phù hợp đối với nông thôn, nông dân qua những kinh nghiệm lịch sử, như chính sách về đất đai, thuế khóa, về xây dựng thiết chế làng xã, về việc kết hợp các yếu tố pháp luật với luật lệ làng xã khi xử lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến người dân… Đặc biệt, nội dung nghiên cứu của đề tài có thể góp phần cung cấp kinh nghiệm lịch sử trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Đầu thế kỷ XX, nông thôn Việt Nam, trong đó nông thôn Trung Kỳ đã nằm trong chủ trương khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân Pháp vì đây chính là nơi sản sinh ra các nguồn lực chủ yếu của thuộc địa như đất đai, thuế, nông sản phẩm, nguồn nhân lực. Việc phân chia Việt Nam ra làm ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ và quá trình thiết lập hệ thống quản lý hành chính, kinh tế và xã hội ở những xứ này là một phần quan trọng trong hoạt động khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam.

Nhiều nghiên cứu của các học giả nước ngoài cho thấy Trung Kỳ là xứ có điều kiện tự nhiên đang dạng nhất Đông Dương, cùng với đó là sự phức tạp được hiện diện ở nhiều mặt như địa lý, lịch sử, thể chế chính trị. Chính những yếu tố này có những tác động nhất định đến nông thôn Trung Kỳ dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Để làm rõ vấn đề này, năm 2023, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn sách “Nông thôn Trung Kỳ từ năm 1858 đến năm 1945” do TS. Trần Thị Phương Hoa làm chủ biên.

Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, nội dung chính của cuốn sách được thể hiện qua 3 chương:

Chương 1. Tổ chức, quản lý làng xã nông thôn Trung Kỳ thời Pháp thuộc

Chương 2. Kinh tế nông thôn Trung Kỳ dười thời Pháp thuộc

Chương 3. Văn hóa – xã hội nông thôn Trung Kỳ thời Pháp thuộc

Cầm cuốn sách trên tay, độc giả được tiếp cận một lượng lớn tài liệu sơ cấp và thứ cấp qua đó hiểu rõ phần nào sự thay đổi diện mạo nông thôn Trung Kỳ từ năm 1858 đến năm 1945. Phân tích nông thôn Trung Kỳ từ năm 1858 đến năm 1945 trên các bình diện, nhóm nghiên cứu khẳng định, thay đổi lớn nhất ở nông thôn Trung Kỳ thời Pháp thuộc là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền làng xã được tăng cường; cơ sở hạ tầng đường sá, cầu cống được xây dựng, kết nối nông thôn với thành thị và giữa các vùng nông thôn với nhau. Tuy nhiên, đời sống người dân dường như không có thay đổi gì rõ rệt nếu không muốn nói tình trạng nghèo đói và bần cùng hóa có xu hướng tăng cao. Mâu thuẫn xã hội trong làng ngày càng thêm căng thẳng khi làng xã là nơi cung cấp nguồn nhân lực cũng như vật lực chủ yếu, quan trọng nhất cho chính quyền trung ương. Trong khi đó, người nông dân bị bần cùng hóa, bị bóc lột. Căng thẳng xã hội đã dẫn đến những phản kháng. Trên thực tế, các cuộc đấu tranh phần nhiều xuất phát từ nông thôn, kể từ phong trào Văn thân – Cần Vương, đến phong trào Duy Tân và sau này là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh đều lấy nông thôn, làng xã là nơi khởi phát và địa bàn hoạt động. Nhằm xoa dịu người dân, chính quyền thực dân đã thực thi một số chính sách đầu tư cho nông thôn nhưng sản xuất nông nghiệp đình đốn, suy thoái, đời sống người dân bấp bênh, kiệt quệ...
Xin trân trọng giới thiệu!

 

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9902136
Số người đang online: 14