Nghiên cứu mới gần đây được công bố—“Hoạt động thủ công giống người ở Australopithecus” (Tạp chí Tiến hóa người, Số 196, tháng 11 năm 2024)—chỉ ra rằng việc sản xuất và sử dụng các công cụ đã diễn ra sớm hơn so với những gì đã được ghi chép trước đây.
 
Cho đến nghiên cứu mới này, các công cụ bằng đá chưa được tìm thấy có liên quan trực tiếp đến các thành viên nhánh người đầu tiên thuộc chi Australopithecus, ngoại trừ các thành viên của chi Homo, (H. habilis), tiến hóa từ Australopithecus. Do đó, mặc dù người ta cho rằng việc chế tạo và sử dụng công cụ có nguồn gốc sớm hơn, nhưng vẫn thiếu bằng chứng cụ thể. Có khả năng các công cụ và hiện vật khác làm từ vật liệu hữu cơ (ví dụ: gỗ, da động vật) đã được đưa vào công nghệ hominin sớm nhất. Tuy nhiên, vì những vật liệu như vậy bị phân hủy theo thời gian nên chúng hiếm khi, nếu có, được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ học sớm.
 
Eberhard Karls và các đồng nghiệp tại Đại học Tubingen, Đức đã sử dụng một phương pháp gián tiếp để xác định bằng chứng về việc chế tạo và sử dụng công sơ khai. Họ bắt đầu bằng việc quan sát rằng việc chế tạo công cụ đòi hỏi rất nhiều sự khéo léo của bàn tay và mặc dù cả vượn và người đều có bàn tay, và vượn sử dụng một số công cụ rất đơn giản (gậy và đá với ít hoặc không có sự tu chỉnh), chúng không thể hiện sự tinh vi trong chế tạo công cụ như con người. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng có thể có sự khác biệt về mặt vật lý trong giải phẫu của bàn tay tương ứng của chúng phản ánh sự thích nghi tiến hóa với việc chế tạo công cụ mà giống người đã trải qua.



                                    
So sánh các xương ngón tay được chọn – người hiện đại (đổ bóng tối) và tinh tinh (đổ bóng sáng hơn).
Các mảng màu là vị trí bám cơ, lớn hơn và nổi bật hơn ở người. [Ảnh của Jana Kunze, Katerina Harvati, Gerhard Hotz, Fotios Alexandros Karakostis / CC BY 4.0]

Nhóm các nhà khoa học đã tiến hành kiểm tra chi tiết các dấu vết của các điểm bám cơ trên hóa thạch xương bàn tay (xương ngón tay), được chỉ ra bởi sự khác biệt về độ cao bề mặt, màu sắc và kết cấu bề mặt, từ ba loài người sớm: Australopithecus sediba (A. sediba) niên đại 1.98 triệu năm và A. afarensis (3.9-2.9 mya) và A. africanus (3.3-2.1 mya), và so sánh chúng với loài vượn và người hiện đại.
Sử dụng dữ liệu này, các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình 3D bàn tay của từng loài. Nghiên cứu tập trung vào các bằng chứng khác nhau về việc sử dụng được phản ánh trong các điểm bám cơ trên các xương này vì chúng sẽ cung cấp dấu hiệu về mức độ khéo léo được chỉ ra bởi mức độ sử dụng bàn tay của các loài khác nhau.
Các mẫu  của hai loài Australopithecus là A. sediba, có niên đại khoảng 1,98 triệu năm trước (mya) và A. afarensis (3,9-2,9 mya) được phát hiện có các kiểu sử dụng phản ánh ở các điểm bám cơ tương tự nhưng không giống hệt với các điểm bám cơ của người hiện đại. Loài còn lại—A. africanus (3,3-2,1 mya)—thể hiện sự kết hợp các đặc điểm bao gồm cả kiểu vượn và kiểu người hiện đại. Các khoảng thời gian theo niên đại khác nhau cho thấy mức độ thích nghi khác nhau đối với sự phụ thuộc vào công nghệ giữa các loài. Điều này cho thấy các loài hominin ban đầu khác nhau thể hiện mức độ sử dụng công nghệ khác nhau, có lẽ là do sự thích nghi sinh thái khác nhau.
 
Kết quả cho thấy:
1) điểm tương đồng giữa mẫu vật của Australopithecus và con người hiện đại, trái ngược với loài vượn, ủng hộ cho cách giải thích rằng những người sớm đầu tiên này rõ ràng có khả năng thao tác tinh vi cần thiết để sản xuất và sử dụng các công cụ bằng đá và
2) có sự khác biệt về mặt này giữa các loài người sớm đầu tiên khác nhau, cho thấy bằng chứng về sự thích nghi tiến hóa đa dạng.
 

 Các nhà nghiên cứu kết luận rằng “Việc kích hoạt thường xuyên các cơ cần thiết để thực hiện các thao tác cầm nắm và điều khiển giống người đặc trưng ở những loài người đầu tiên này ủng hộ cho quan niệm rằng việc sử dụng bàn tay giống người đã xuất hiện trước và có thể ảnh hưởng đến các quá trình thích nghi tiến hóa để có sự khéo léo bằng tay cao hơn ở các loài người sau này”.
Ý nghĩa của những phát hiện này là sự phát triển của công nghệ công cụ bằng đá mà tổ tiên loài người ngày càng phụ thuộc vào đã bắt đầu sớm hơn nhiều so với những gì đã biết trước đây. Hơn nữa, sự phát triển của khả năng này là chìa khóa cho sự tiến hóa của nhánh người ngay từ khi mới xuất hiện, khác biệt với các loài vượn.
Các mẫu công cụ bằng đá thực tế sớm nhất mà các nhà khảo cổ học biết đến có niên đại khoảng 3,3 triệu năm trước nhưng không có hóa thạch người liên quan, vì vậy người chế tạo chúng không được biết đến. Bằng chứng gián tiếp về việc sử dụng công cụ bằng đá dưới dạng vết cắt trên xương có từ sớm hơn một chút—khoảng 3,4 triệu năm trước. Nghiên cứu mới này ủng hộ mạnh mẽ cách giải thích rằng các loài Australopithecus có khả năng chế tạo những công cụ bằng đá sớm nhất này, trước khi xuất hiện chi Homo, vào khoảng 2,4 triệu năm trước.
Ý nghĩa rộng hơn của nghiên cứu này là sự tiến hóa về công nghệ giữa các tổ tiên loài người đã bắt đầu từ rất lâu trước khi bằng chứng vật lý về công cụ bằng đá được phát hiện cho đến nay. Hơn nữa, sự phát triển và sử dụng các công nghệ ngày càng tinh vi không chỉ đòi hỏi sự thích nghi về kỹ năng vận động mà còn cả về nhận thức.
Sự tiến hóa của công nghệ công cụ bằng đá và ngôn ngữ có thể đã được liên kết theo phương pháp biện chứng. Do đó, tính trung tâm của công nghệ đối với quá trình tiến hóa của con người được củng cố. Đây không phải là một ý tưởng mới. Hơn một trăm năm trước, Frederick Engels đã viết điều này trong “Vai trò của lao động trong quá trình chuyển đổi từ vượn sang người”:
“Nhưng chính ở đây, người ta mới thấy được khoảng cách lớn đến thế nào giữa bàn tay chưa phát triển của ngay cả loài vượn giống người nhất và bàn tay con người đã được hoàn thiện cao độ nhờ lao động trong hàng trăm nghìn năm. Số lượng và sự sắp xếp chung của xương và cơ ở cả hai đều giống nhau; nhưng bàn tay của người có thể thực hiện hàng trăm thao tác mà không bàn tay khỉ nào có thể bắt chước được. Không có bàn tay vượn nào có thể tạo ra được con dao đá thô sơ nhất.”

Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://www.wsws.org/en/articles/2024/10/21/bhlz-o21.html?fbclid=IwY2xjawGarwlleHRuA2FlbQIxMQABHVi1CGQhd2YRTq1rR8J7vCwrnwPm0ItSoPT0ugUiAOJXeipJTjXLPlIuqw_aem_hBcnu2yB5qjHVS3p17AnHg
 

 
 
Các phát hiện mới từ một hang ở phía bắc Lào đã bổ sung thêm bằng chứng cho người hiện đại đến khu vực Đông Nam Á hơn 80.000 năm cách ngày nay, sớm hơn hàng vạn năm so  với các suy nghĩ trước kia. Những phát hiện mang tính đột phá này được xuất bản gần đây tại tạp chí uy tín Nature.


                                                               
Nhà khảo cổ Philippin Vito Hernandez (thứ 2 bên phải, với camera) cũng với các nghiên cứu đồng nghiệp ở hang Tam Pà Ling phía bắc Lào ( ảnh: Macquarie University / Kira Westaway)
 
Các phân tích hóa thạch và trầm tích từ hang Tam Pà Ling ( Hang Khỉ ở Lào) bởi nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế trong đó  một  nhà nghiên cứu Philippine trước đây đã từng giảng dạy tại đại học Philippines và hiện tại đang làm việc Phòng thí nghiệm vi khảo cổ, đại học Flinders ở Nam Úc,  đã đẩy lùi khung niên đại khi chúng ta biết về loài người Homo sapiens, có mặt ở khu vực Đông Nam Á lục địa.
 
Các hóa thạch mới phát hiện này cung cấp bằng chứng chắc chắn về sự có mặt của người hiện đại ở bắc Lào từ 86,000 năm cách đây . Điều này gần như cổ hơn 20,000 năm so với hầu hết các bằng chứng từ các di chỉ cho đến nay  được nghiên cứu ở Đông Nam Á và đã bổ sung thêm xác nhận cho sự di cư trước 60,0000 năm của người hiện đại vào khu vực Đông Á.
 
Vito Hernandez, nhà địa khảo cổ Philippines – thành viên của đoàn nghiên cứu đã công bố những phát hiện gần đây ở hang Tam Pà Ling cho biết:
“ Phát hiện này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về sự phân bố của các tổ tiên trực tiếp của chúng ta tại thời điểm mà chúng ta biết về các quần thể người khác, đã tồn tại và  tuyệt chủng hiện nay”.
 
Nghiên cứu này ở bắc Lào, trong đó một nghiên cứu trước đó về các loài người tuyệt chủng hiện nay được biết là người Denisovan 164000 -131000 cách ngày nay ở hang Tam Ngu Hao 2 (Hang Cobra) thuộc cùng dãy núi với hang Tam Pà Ling, điều đó cho gợi ý sâu sắc rằng khu vực này của Đông Nam Á là một con đường di cư người sớm. Vito Hernandez giải thích “ Điều này cũng chứng minh rằng tổ tiên loài người chúng ta đã đi dọc các khu rừng và các thung lũng ven sông, ngoài việc men theo các đảo và các bờ biển khi họ di chuyển về hướng đông đến Australia, nơi mà còn nhiều tranh luận khi cho rằng họ đã di cư từ 65,000 năm trước.”
 
 Ông cho biết thêm: “Các phân tích về hóa thạch ở Tam Pà Ling cho thấy những người hiện đại sơ khai này là một phần của quần thể người nhập cư, nhưng liệu dòng gen của họ có tồn tại thành công trong quần thể hiện tại hay không vẫn chưa được xác định”.
 
Ban đầu, các hóa thạch từ Tam Pà Ling rất khó xác định niên đại, dẫn đến sự hoài nghi về các bằng chứng của hang này được đưa ra trước đó. Điều này khiến các chuyên gia địa chất và khảo cổ học của nhóm áp dụng một cách chiến lược các kỹ thuật của họ để xác định xem các trầm tích có niên đại liên quan đến hóa thạch như thế nào và xác định tuổi chính xác cho cả hai.
 
Vito Hernandez giải thích chi tiết:
“Việc xác định niên đại và chất lượng bảo quản hóa thạch rất quan trọng như chúng ta đã thấy từ nghiên cứu đứng đầu bởi các nhà khoa học như Giáo sư Armand Mijares tại Trường Khảo cổ học, đại học Philippin, nhưng như chúng ta cũng thấy từ nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu tiến hóa khác của con người như ở hang Denisova, Nga, rất cần thiết sự hợp tác chặt chẽ giữa khoa học Trái đất và con người,  nếu chúng ta muốn đạt được một bức tranh hoàn chỉnh hơn về sự tiến hóa  và định cư của con người như thế nào ở các khu vực khác nhau trên thế giới,” .
 
Hernandez trước đây là giảng viên của  Trường Khảo cổ học, Đại học Philippin, và từng tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học ở đây.  Ông cũng  quản lý các lớp Khoa học, Công nghệ và Xã hội, của trường Cao đẳng Khoa học UP Diliman (UPD-CS). Ông khẳng định rằng “Tôi hy vọng sẽ trở lại sau công việc nghiên cứu của mình ở Úc và góp phần đưa nền khoa học của chúng ta phục vụ xã hội Philippines,” .
 
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo
 
Pinoy archaeologist helps rewrite human history in Southeast Asia (upd.edu.ph)
Freidline, S. E., Westaway, K. E., Joannes-Boyau, R., Duringer, P., Ponche, J.-L., Morley, M. W., Hernandez, V. C., McAllister-Hayward, M. S., McColl, H., Zanolli, C., Gunz, P., Bergmann, I., Sichanthongtip, P., Sihanam, D., Boualaphane, S., Luangkhoth, T., Souksavatdy, V., Dosseto, A., Boesch, Q., … Demeter, F. (2023). Early presence of Homo sapiens in Southeast Asia by 86–68 kyr at Tam Pà Ling, Northern Laos. Nature Communications14(1). https://doi.org/10.1038/s41467-023-38715-y
 
Phần lớn văn hóa vật chất của chúng ta được làm bằng vật liệu hữu cơ, và điều này có thể cũng xảy ra trong thời tiền sử. Trong số văn hóa vật liệu hữu cơ thời tiền sử này có hàng dệt may và dây thừng, tận dụng tính linh hoạt và độ bền của sợi thực vật. Mặc dù trong những trường hợp rất đặc biệt và trong những hoàn cảnh rất thuận lợi, các mảnh giỏ và dây còn sót lại và được phát hiện ở các địa điểm khảo cổ học vào cuối thế Pleistocene và Holocene, tuy nhiên những đồ vật này nói chung không được bảo quản, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới.
Nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường  khảo cổ học,  đại học Philippines cùng với bảo tàng quốc gia Philippine dẫn đầu bởi Ts. Xhauflair đã báo cáo về việc phát hiện ra dấu vết sử dụng đặc trưng của các sợi thực vật mỏng được tìm thấy trên ba công cụ bằng đá từ các trầm tích cuối kỷ Pleistocene tại Hang Tabon, Đảo Palawan, Philippines, có niên đại từ 39.000–33.000 BP. Sự phân bố các vết sử dụng trên các hiện vật này giống như sự phân bố được quan sát thấy trên các công cụ thử nghiệm được sử dụng để làm mỏng sợi, theo một kỹ thuật được ghi lại trong bối cảnh dân tộc học trong các cộng đồng Palawan và hiện đang phổ biến trong khu vực. Mục đích của hoạt động này là biến các đoạn thực vật cứng thành các dải mềm phù hợp làm vật liệu buộc hoặc đan giỏ, bẫy và thậm chí cả thuyền
Những kết quả này cho thấy rằng các hiện vật Đông Nam Á có vẻ đơn giản đang ẩn chứa những bằng chứng về sự phức tạp trong hành vi mà mắt thường không nhìn thấy được nhưng chúng ta có thể khám phá thông qua phân tích dấu vết sử dụng công cụ.
 Những người ủng hộ Giả thuyết Tre đã đưa ra giả thuyết rằng các công cụ bằng đá ở Đông Nam Á chủ yếu được sử dụng để chế tạo công cụ tre và việc những người làm đồ thủ công thời tiền sử tập trung vào loại cây này sẽ giải thích được tính đơn giản về mặt công nghệ của các đồ tạo tác bằng đá (Xhauflair và cộng sự, 2023).
Kết quả từ nhóm của Xhauflair bổ sung thêm bằng chứng gần đây cho thấy công nghệ  dựa trên thực vật thực sự đã tồn tại trong khu vực trong thời Tiền sử, nhưng cũng bổ sung thêm sắc thái cho Giả thuyết Tre theo nghĩa chặt chẽ, cho thấy rằng con người đầu tư vào vật liệu thực vật theo nghĩa rộng hơn nhiều và không chỉ sử dụng các công cụ bằng đá của họ để làm dao, mũi tên và phi tiêu bằng tre.
Phát biểu trong buổi họp báo tại bảo tàng quốc gia Philippines, Ts.  Timothy James -Một thành viên của nhóm nghiên cứu đã khẳng định tính cố hữu, nhất quán của kĩ nghệ đá này, đồng thời nhấn mạnh mối liên hệ giữa con người và môi trường, sự hấp dẫn của môi trường nhiệt đới đối với cư dân săn bắn – hái lượm.

                                          
      Dấu vết sử dụng và tàn tích được quan sát trên hiện vật P- XIII- T-299 từ lớp Pleistocene muộn, hang Tabon, Palawan, Philippines.
                                        
 

                               Ví dụ phân bố dấu vết sử dụng trên các công cụ thử nghiệm sử dụng cho việc làm mỏng sợi thực vật.

                                             

                  Quá trình tạo sợi được ghi lại tại các cộng đồng Palawan và thử nghiệm tạo ra sợi bằng công cụ đá.

Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:  Xhauflair, H., Jago-On, S., Vitales, T. J., Manipon, D., Amano, N., Callado, J. R., Tandang, D., Kerfant, C., Choa, O., & Pawlik, A. (2023). The invisible plant technology of Prehistoric Southeast Asia: Indirect evidence for basket and rope making at Tabon Cave, Philippines, 39-33,000 years ago. PloS one18(6), e0281415. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0281415





 

                                                             
                                                              Các nhà khảo cổ học Lào khai quật hang Tam Pà Ling (Nguồn: Vito Herna)

Nghiên cứu cấu trúc vi mô của các lớp đất đào từ hang Tam Pà Ling ở đông bắc Lào đã cung cấp cho nhóm các nhà khảo cổ học  Đại học Flinders và các đồng nghiệp quốc tế những hiểu biết sâu sắc hơn về một số bằng chứng sớm nhất về Homo sapiens ở Đông Nam Á lục địa.
Di chỉ này đã được nghiên cứu trong 14 năm qua bởi một nhóm các nhà khoa học Lào, Pháp, Mỹ và Úc, phát hiện một số bằng chứng hóa thạch sớm nhất về tổ tiên trực tiếp của chúng ta ở Đông Nam Á.
Hiện nay, một nghiên cứu mới được dẫn đầu bởi  Nghiên cứu sinh Vito Hernandez và Phó Giáo sư Mike Morley từ  Đại học Nhân văn, Nghệ thuật và Khoa học Xã hội đã phục dựng lại điều kiện mặt đất trong hang động từ 52.000 đến 10.000 năm cách ngày nay, và được công bố trên Tạp chí Quaternary Science Reviews
"Sử dụng kỹ thuật vi địa tầng học tại Phòng thí nghiệm vi khảo cổ học Flinders, chúng tôi đã có thể tái tạo lại điều kiện hang động trong quá khứ và xác định dấu vết hoạt động của con người trong và xung quanh Tam Pà Ling", Hernandez cho biết. "Điều này cũng giúp chúng tôi xác định được bối cảnh chính xác mà một số hóa thạch người hiện đại sớm nhất  ở Đông Nam Á được lắng đọng sâu bên trong".
Vi địa tầng học cho phép các nhà khoa học nghiên cứu đất ở mức độ chi tiết nhỏ nhất, cho phép họ quan sát các cấu trúc và đặc điểm lưu giữ thông tin về môi trường trong quá khứ, thậm chí cả dấu vết hoạt động của con người và động vật có thể đã bị bỏ qua trong quá trình khai quật do kích thước cực nhỏ của chúng.
 
                                  
                                                      PGS. Mike Moley  (Nguồn: Flinders University)
Các hóa thạch người được phát hiện tại Tam Pà Ling đã được lắng đọng trong hang từ 86.000–30.000 năm trước, nhưng cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tiến hành phân tích chi tiết các trầm tích xung quanh những hóa thạch này để hiểu được cách chúng được lắng đọng  trong hang như thế nào hoặc các điều kiện môi trường tại thời điểm đó.
Những phát hiện cho thấy điều kiện trong hang thay đổi đáng kể, từ khí hậu ôn đới với điều kiện đất ẩm ướt thường xuyên sang khô theo mùa.
Phó Giáo sư Morley cho biết:"Sự thay đổi môi trường này ảnh hưởng đến địa hình bên trong hang  và sẽ tác động đến cách trầm tích, bao gồm cả hóa thạch người được lắng đọng trong hang động".
"Cách thức Homo sapiens đầu tiên được chôn sâu trong hang từ lâu đã được tranh luận, nhưng kết quả phân tích trầm tích của chúng tôi chỉ ra rằng các hóa thạch đã được rửa trôi vào hang dưới dạng trầm tích rời rạc và các mảnh vụn tích tụ theo thời gian, có khả năng được nước từ các sườn đồi xung quanh mang theo trong thời kỳ mưa lớn".
 
 
                              
                                                      
                                                                Khai quật hang Tampaling (nguồn: Vito Hernandez)
Nhóm nghiên cứu cũng xác định được các dấu vết vi mô của than củi và tro được bảo quản trong trầm tích hang động, cho thấy rằng hoặc là cháy rừng đã xảy ra trong khu vực trong thời kỳ khô hạn, hoặc con người đến thăm hang có thể đã sử dụng lửa ở trong hang hoặc gần lối vào.
Đồng tác giả nghiên cứu, Phó giáo sư Fabrice Demeter, nhà cổ nhân chủng học từ Đại học Copenhagen, người đã lãnh đạo nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế nghiên cứu Tam Pàn Ling từ năm 2009, cho biết:
"Nghiên cứu này đã cho phép nhóm của chúng tôi phát triển những hiểu biết chưa từng có về động lực của tổ tiên chúng ta khi họ phân tán qua các khu rừng đã từng thay đổi của Đông Nam Á và trong thời kỳ khí hậu khu vực bất ổn".
 
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2024-10-fossils-insights-early-modern-human.html?fbclid=IwY2xjawGahMFleHRuA2FlbQIxMQABHdvOXmG5ZIRs-fglqOnl5qPBhrlch2vjVo_9lQagfA5sVuhIfpZir7bWQg_aem_CBsv1fNMCdKs0M1PHBpxAA
 
- c giả: Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa
Nhà xuất bản: Thanh Hóa – 2020
- Số trang: 212 tr
- Khổ sách: 21 x 29,7cm
Thanh Hóa, nơi sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa làm rạng danh quê hương, đất nước. Trải qua thời gian, lịch sử đã để lại cho vùng đất này những di sản văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc, tiêu biểu là bộ sưu tập sắc phong đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày phát huy giá trị tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.
Sắc phong, sắc chỉ là văn bản của Nhà nước, do các vị vua ban tặng. Sắc phong có hai loại: sắc phong cho các vị thần và sắc phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công với triều đình hay cộng đồng.
Sắc phong thần là những sắc phong gìn giữ bảo quản trong các đình đền, miếu … dung để xác nhận việc phong thần cho các vị thần được thờ cúng trong các đình làng, đền, miếu (Thành hoàng …). Các vị thần được phong tặng có thể là thiên thần hay nhân thần. Thiên thần là những vị thần có nguồn gốc trong tín ngưỡng dân gian những nhân vật huyền thoại, vật linh, các hiện tượng thiên nhiên… Nhân thần là những nhân vật lịch sử cụ thể có công với nước chống giặc ngoại xâm, danh nhân văn hóa nhưng cũng có thể là người dân bình thường nhưng có công khai hoang lập làng…. gắn liền với lịch sử làng xã.
Sắc phong chức tước là loại sắc phong do nhà vua các triều đại phong kiến dung để phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công… Loại này không còn nhiều và thường do các gia đình, dòng họ lưu giữ nên ít được công chúng biết đến. Riêng loại sắc phong nội dung này ở Thanh Hóa lại khá phong phú, bởi nơi đây có nhiều công thần của các triều đại phong kiến khác nhau trong lịch sử dân tộc.
Tập sách là nguồn tư liệu phong phú, góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa của tỉnh Thanh Hóa.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: GS.TS. Nguyễn Hữu Minh (chủ biên)
- Năm xuất bản: 2022
- Số trang: 434
Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội, năm 2022, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn sách với nhan đề “Vận dụng phương pháp định lượng và định tính trong nghiên cứu: Từ hình thành ý tưởng đến phát hiện khoa học” do GS.TS. Nguyễn Hữu Minh làm chủ biên. Nội dung chính của cuốn sách là cung cấp cơ sở lý thuyết và các kỹ thuật vận dụng phương pháp định lượng và định tính trong quá trình nghiên cứu, từ việc xây dựng ý tưởng nghiên cứu đến việc thu thập và phân tích thông tin nhằm có được những phát hiện mới về mặt khoa học. Cuốn sách là sản phẩm chắt lọc kinh nghiệm từ nhiều năm nghiên cứu khoa học xã hội và giảng dạy về phương pháp nghiên cứu của các tác giả. Nhiều ví dụ được trình bày nhằm minh họa cho việc vận dụng lý thuyết và kỹ thuật phân tích định lượng và định tính.
Ngoài phần Lời nói đầu, cuốn sách được kết cấu thành 4 phần chính:
Phần I. Bản chất và đặc trưng của phương pháp nghiên cứu định tính
Phần này, nhóm tác giả làm rõ bản chất của nghiên cứu định tính và định lượng thông qua một số tiêu chí sau: (i) Khái niệm; (ii) Các mối quan tâm của nghiên cứu định tính/định lượng; (iii) Một số phương pháp thu thập thông tin cơ bản; (iv) Một số hạn chế của nghiên cứu; (v) Một số lỗi thường gặp. Trên cơ sở đó, nhận diện sự khác biệt chủ yếu giữa nghiên cứu định lượng và định tính; đề xuất phương thức lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp và sự kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu trên. Nhóm tác giả khẳng định, mỗi loại phương pháp có thế mạnh riêng và những hạn chế nhất định. Trong thực tế, nhà nghiên cứu cần phải căn cứ vào mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu và thế mạnh của các nhân đề lựa chọn loại hình phương pháp phù hợp để từ đó đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất.
Phần II. Thiết kế nghiên cứu định lượng và định tính
Tập trung trình bày mục đích và đặc điểm một số loại thiết kế nghiên cứu: (i) Thiết kế mô tả; (ii) Thiết kế nhân quả; (iii) Thiết kế khám phá/thăm dò; (iv) Thiết kế lịch sử; (v) Thiết kế so sánh theo không gian và theo thời gian; (vi) Thiết kế phân tích siêu dữ liệu; (vii) Thiết kế nghiên cứu hành động; (viii) Thiết kế nghiên cứu thực nghiệm. Nhóm tác giả cho rằng, đối với nhà nghiên cứu lành nghề, ý tưởng nghiên cứu có thể đến một cách tự nhiên và để có một ý tưởng hoàn chỉnh cần trải qua nhiều bước khác nhau trước khi đưa ra các câu hỏi nghiên cứu. Về bản chất, câu hỏi nghiên cứu la fnooij dung cơ bản của nghiên cứu được cụ thể hóa dưới dạng câu hỏi. Câu hỏi nghiên cứu khác với câu hỏi thông thường ở chỗ nó đòi hỏi câu trả lời phải có đầy đủ các bằng chứng khoa học và phải thông qua một quá trình nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu phản ánh mối quan tâm của nhà nghiên cứu. Chúng làm nên nội dung nghiên cứu của đề tài
Phần III. Thu thập thông tin định lượng và định tính
Để có thể thu thập thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và chính xác, đặc biệt đảm bảo tính khách quan cho hoạt động nghiên cứu, nhóm tác giả tập trung phân tích và hướng dẫn người nghiên cứu các cách thức thu thập thông tin: (i) Thu thập thông tin thứ cấp; (ii) Thu thập thông tin qua bảng hỏi; (iii) Thu thập thông tin định tính. Trong giai đoạn thực hành nghiên cứu xã hội tại thức địa, nhóm tác giả đưa ra một số lưu ý về đạo đức nghiên cứu trong tổ chức thu thập dữ liệu, trong đó có vấn đề bảo mật dữ liệu thu thập được.
Phần IV. Phân tích thông tin định lượng và định tính
Về phân tích thông tin định lượng, nhóm tác giả đưa ra một số khái niệm cơ bản và hướng dẫn cách so sánh trung bình hai mẫu độc lập và so sánh trung bình nhiều mẫu. Việc so sánh sự khác biệt giữa các nhóm khác nhau giúp làm rõ hiện trạng của vấn đề nghiên cứu; Hướng dẫn một số phương pháp phân tích như: Phân tích tương quan, phân tích hồi quy tuyến tính, phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến. Trong quá trình phân tích thông tin định lượng, người nghiên cứu cần lưu ý một số điểm sau: thứ nhất, sử dụng thông tin định lượng trong nghiên cứu xã hội không thể tách rời toàn bộ quá trình nghiên cứu đinh lượng; thứ hai, sử dụng thông tin định lượng phải dựa trên khung lý thuyết và các giả thuyết; thứ ba, sử dụng thông tin định lượng cần bắt đầu bằng việc xử lý/ đánh giá mức độ nhất quán, độ tin cậy và tính có hiệu lực của thông tin…
Về phân tích định tính, nhóm tác giả đưa ra một số khái niệm cơ bản và chỉ ra cách xử lý thông tin khi có nguồn dữ liệu đầu vào như tài liệu ghi chép, băng ghi âm, tranh ảnh và hiện vật. Điểm nhấn của phần này là làm rõ các bước trong quá trình phân tích tư liệu văn bản: (i) Phân tích trên thực địa và quản lý dữ liệu; (ii) Mã hóa và ghi nhớ, việc này nhằm rút gọn dữ liệu để có thể dễ dàng phân tích chứ không được làm cho dữ liệu trở nên kềnh càng hơn; (iii) Tìm kiếm mô hình; (iv) Trình bày dữ liệu, rút ra kết luận và kiểm tra.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
- Tác giả: Paul Ory
- Người dịch: Phạm Văn Tuân
- Nhà xb: Dân Trí, 2019
- Khổ: 14 x 20,5
- Số trang: 164tr
Sau cuộc xâm lăng bằng súng ống, cuối thế kỳ 19, đầu thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu chọn cách tiếp cận nhẹ nhàng hơn với mảnh đất An Nam khi đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu văn hóa. Nhiều tác phẩm đã được ra đời ở giai đoạn này, khi họ khám phá đất nước chúng ta từ mọi phương diện: từ địa lý, môi trường tự nhiên, cảnh quan, đến cấu trúc xã hội, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, tâm lý,... Trong đó, Làng Xã Của Người An Nam Ở Bắc Kỳ là một nguồn tư liệu thú vị, khá đủ đầy. Đời sống tinh thần phong phú của người Việt xưa với các lễ hội, tín ngưỡng, thủ tục ma chay, cưới hỏi được đề cập sâu sát. Mọi khía cạnh của lãng xã ở Bắc Kỳ đều được miêu tả sắc bén: từ lịch sử hình thành, tổ chức hành chính, phân chia quyền lực cho đến hiện trạng xã hội, các vấn đề quan trọng của làng xã như đất đai, sở hữu, thuế. Trích đoạn Paul Ory nhận xét về nạn tham quan nhũng nhiễu: “Không có nơi nào mà quyền lực vượt trên cả pháp luật như ở nơi đây: chỉ cần lưu tâm tới vụ việc, bằng vài món quà biếu xén là đủ khiến kẻ nghèo hèn và người yếu thế trở thành kẻ phạm tội, bất chấp công lý”. Làng xã tuy là đơn vị hành chính thấp và nhỏ nhất về quy mô nhưng lại chứa đựng những giá trị tinh thần lớn lao, là tinh hoa của nhiều thế hệ người Việt, ẩn chứa trong đó cả sự phức tạp mà đôi khi người bản địa cũng không nắm bắt hết. Để có thể đi sâu vào văn hóa An Nam thời điểm đó, tác giả Paul Ory đã bỏ công sức học tiếng Việt, đi đến nhiều vùng quê, làng xã xa xôi, nhất là khu vực Bắc Kỳ xưa để có được cái nhìn khái quát, nhận định chi tiết nhất. Cuốn sách có tên tiếng Pháp là La commune Annamite au Tonkin, được xuất bản lần đầu tại Paris năm 1894 và từng được hai học giả Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh xếp vào thư mục tham khảo của mình vào cuối thập niên 1930.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Năm 2021, trong đợt khai quật khu vực Đông Bắc di tích Chính điện Kính Thiên (Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long), đoàn khai quật của Viện Khảo cổ học và Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội đã phát hiện một di vật mô hình kiến trúc đất nung tráng men màu xanh. Nghiên cứu bước đầu cho thấy đó là các mảnh vỡ một tầng mái của mô hình đất nung nhiều tầng ký hiệu 21.ĐKT.H1.L2-3, thuộc lớp đào L03 (hình 1), nằm trong tầng văn hóa thời Lê sơ (thế kỷ XV - XVI). Di vật đã bị vỡ mất hết tầng đế và tầng trên, phần còn lại gần đầy đủ một tầng mái (hình 2). Mô hình được làm bằng đất sét mịn màu đỏ tươi, toàn bộ mặt ngoài được phủ men màu xanh đối với bộ mái và màu vàng đối với phần khung gỗ, mặt trong mô hình cũng được tráng men vàng (hình 2). Nhận thấy đây là một loại di vật quý có giá trị cung cấp những tư liệu mới mang tính xác thực cao quý hiếm cho việc nghiên cứu hình thái kiến trúc và mỹ thuật trang trí kiến trúc cổ truyền Việt Nam, chúng tôi bước đầu nghiên cứu mô hình kiến trúc đất nung này.

(Tống Trung Tín, Bùi Văn Sơn, Khảo cổ học số 5/2023)

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9020370
Số người đang online: 14