ác giả: Đông A - Nxb: Đại học sư phạm-
- Số trang: 660tr
- Khổ sách: 25x30cm
- Hình thức bìa: cứng
Bên cạnh lịch sử Việt Nam, cuối mỗi phần có thêm bài khái quát vắn tắt tình hình Trung Quốc và phương Tây ứng với từng giai đoạn lịch sử trong nước. Dựa vào đó, bạn đọc có thể nhìn rộng ra khung cảnh thế giới đương thời và hiểu biết thấu đáo hơn về lịch sử nước nhà.
Phần 1: Tiền sử và truyền thuyết
Phần 2: Chống Bắc thuộc
Phần 3: Nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê
Phần 4: Nhà Lý
Phần 5: Nhà Trần
Phần 6: Nhà Hồ và thời thuộc Minh
Phần 7: Nhà Hậu Lê (thời Lê sơ)
Phần 8: Nhà Mạc
Phần 9: Thời Lê Trung hưng và chính quyền chúa Nguyễn
Phần 10: Nhà Tây Sơn
Phần 11: Nhà Nguyễn (Sơ kỳ)
Phần 12: Chống Pháp và Pháp thuộc
Phần 13: Độc lập, thống nhất và phát triển
Phần 14: Nghìn năm văn hiến
Các di tích, chùa, đền, tượng đài gắn liền với tên tuổi các danh nhân lịch sử cũng hiện diện trong cuốn sách này dưới dạng ảnh chụp để minh họa cho ngôn từ thêm phần sinh động. Toàn bộ cuốn sách có gần 2.000 tranh ảnh và bản đồ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Tác giả: Trung tâm Bảo tồ di tích cố đô Huế - Bảo tàng cổ vật cùng đình Huế- Nxb: Thế giới -2023
- Số trang: 265tr
- Khổ sách: 22,5x30cm
- Hình thức bìa: cứng
Giới thiệu đến công chúng 100 hiện vật, cổ vật thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng cổ vật cung đình Huế. Các hiện vật này là những hiện vật tiêu biểu thời Khải Định - vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn. Các hiện vật sự phong phú về chất liệu (vàng, bạc, ngọc, ngà voi, gốm sứ, vải, giấy); đa dạng về loại hình và chức năng từ những báu vật biểu trưng cho quyền lực của nhà vua (ấn, kiếm, ngai, kim sách) đến đồ thờ tự (đài thờ, sắc phong) hay đồ trang trí nội thất, đồ dùng hàng ngày, cả những hiện vật liên quan đến nghi thức khen thưởng trang trọng của vương triều…
Tiêu biểu trong số này là các kim bảo, ngọc tỷ. Trong thời gian 10 năm trị vì (1916 - 1925), vua Khải Định có 12 kim bảo và ngọc tỷ. Biểu trưng cho vương quyền, bảo vật của hoàng đế Khải Định còn có thanh bảo kiếm, mang tên “An dân bảo kiếm” được chế tác từ nhiều chất liệu: vàng, đồi mồi, thủy tinh…
Những hiện vật này phần lớn do ngự xưởng sản xuất, chế tác để phục vụ cho vua, hoàng gia và cung đình; một số khác, được đặt hàng từ nước ngoài, chủ yếu là ở Trung Hoa và Pháp, Anh với các dòng hiệu đề và lạc khoản.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược- Nxb: Mỹ Thuật - 2022
- Số trang: 255tr
- Khổ sách: 25x30cm
- Hình thức bìa: cứng
Xin trân trọng giới thiệu!
ả: Bộ xây dựng- Nxb: Xây Dựng - 2021
- Số trang: 275tr
- Khổ sách: 19x27cm
- Hình thức bìa: mềm
Phần II: Cấu tạo nhà dân dụng
- 1. Nền móng
- 2. Móng, nền nhà và hè rảnh
- 3. Tường, cột, khung
- 4. Cửa sổ và cửa đi
- 5. Sàn bê tông cốt thép
- 6. Cầu thang
- 7. Mái nhà
- 8. Các bộ phận khác
- 9. Khái niệm chung
- 10. Khung nhà công nghiệp một tầng
- 11. Khung nhà công nghiệp nhiều tầng
- 12. Kết cấu bao che và kết cấu phụ
Đình Tư- Nxb: Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh-2023
- Số trang: 887tr
- Khổ sách: 20,5x29cm
- Hình thức bìa: cứng
Bộ sách ra mắt nhân kỷ niệm 325 năm hình thành Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định-Thành phố Hồ Chí Minh (1698-2023) và kỷ niệm 48 năm Ngày Giải phóng miền nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2023).
“Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử (1698-2020)” được xem là công trình dày công nghiên cứu trên 20 năm của Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư. Với niềm đam mê sử học, ông đã tập trung thời gian, sức lực đi khắp các thư viện, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II ở Thành phố Hồ Chí Minh để tập hợp tài liệu, hoàn thành đề tài “Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh” với mong muốn cung cấp bao quát thông tin đến công chúng về lịch sử từ thời đại tiền sử cho đến Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
Tác phẩm “Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử (1698-2020)” gồm 6 phần chính. Được chia ra 2 tập với mốc thời gian tập I từ 1698-1945 và tập II từ 1945-2020. “Với tác phẩm này, tôi muốn cung cấp cho độc giả cái nhìn bao quát, toàn diện, cụ thể các giai đoạn lịch sử, từ năm 1698 đến năm 2020, các chế độ chính trị, các lĩnh vực hoạt động về hành chính, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giáo tín ngưỡng, thể dục thể thao,… của từng thời kỳ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Một số thành phần khoáng vật như khoáng có nguồn gốc magma, quặng hay quarzite có nguồn gốc địa chất trong khu vực, cho thấy nguồn sét và khoáng vật được khai tác tại chỗ. Một số loại khoáng khác như zircon, zoisit, gabbro, epidot cần được khảo chứng thêm về nguồn, nếu chúng có mặt tại chỗ chứng tỏ cư dân Quỳnh Văn hoàn toàn tự túc trong sản xuất gốm, nếu từ nơi khác cho thấy cư dân làm gốm có những mối liên hệ xa hơn.
Với những chứng cớ trên, chúng tôi cho rằng kỹ thuật làm gốm và gốm đáy nhọn không phải sản phẩm được cư dân Quỳnh Văn sáng tạo ra mà là kết quả sự tiếp thu kỹ thuật/ con người từ cộng đồng cư dân khác.
Kết quả thám sát, khai quật cho thấy kết cấu chân tường thành không hoàn toàn đồng nhất: có vị trí chỉ kè phía bên ngoài, có vị trí kè cả bên trong và bên ngoài. Tại những vị trí có hai hàng đá, mép ngoài các hàng đá cách nhau từ 3,4-3,6m. Rất có thể tại những khu vực địa hình phức tạp, địa chất không ổn định hoặc có vị trí quân sự trọng yếu thành sẽ được kè cả hai mặt trong, ngoài. Ngược lại các vị trí khác chỉ được kè phần chân tường bên ngoài.
Đá kè chân tường thành được chế tác tương đối cẩn thận: Phần mặt trên và cạnh ngoài phẳng nhẵn. Đá được đặt ngay ngắn, đặc biệt là mép ngoài được căn chỉnh thẳng hàng. Điều này không chỉ phản ánh kỹ thuật xây dựng chính xác và quy chuẩn, nó còn có tác dụng lớn trong việc giữ ổn định kết cấu phần tường bên trên, tránh sụp đổ hoặc nứt vỡ.
Việc xây dựng không sử dụng chất kết dính. Phần tường thành đất được đầm chặt tạo độ kết dính tự nhiên, trong đất lẫn rất nhiều cuội, sỏi làm tăng độ vững chắc.
Ở những vị trí xuất lộ lớp lát nền, gạch dù sử dụng cả gạch lành và gạch vỡ nhưng luôn được xếp ngay ngắn. Hơn nữa, bên dưới lớp gạch lát, đất được trộn gạch vỡ đầm lèn rất chặt tạo mặt bằng. Điều đó làm cho lớp lát nền rất ổn định. Việc lát nền bằng gạch vồ, trùm cả lên phần đá kè là ấn số mà chúng tôi chưa giải thích được một cách thấu đáo. Phải chăng đây là vị trí các cửa thành hoặc cũng có thể đây là dấu tích đường đi trong thành. Bởi lẽ, phần chân tường thành thì chắc chắn không cần phải làm cầu kỳ đến như vậy.
Ở một số vị trí (hố 1 năm 2025 và hố 5 năm 2024) xuất hiện lớp ngói tương đối dày. Quá trình chỉnh lý, phân loại cho thấy có 2 loại ngói: ngói phẳng và ngói cong. Ngói phẳng hoàn toàn là ngói mũi nhọn, móc cài được tạo bởi kỹ thuật ấn vuốt bằng hai ngón tay. Cùng với số lượng lớn mảnh ngói, sự xuất hiện của gạch vuông lát nền và gạch trang trí hoa văn (dù chưa nhiều) cho thấy trong thành có thể tồn tại các kiến trúc lớn, mái lợp ngói đất nung, nền có thể được lát gạch vuông, thậm chí được trang trí bằng gạch có hoa văn.
Sự xuất hiện của số lượng lớn đạn đá và súng thần công với nhiều kích cỡ khác nhau tại di tích cho thấy chức năng quân sự tương đối rõ ràng của tòa thành này.
Các loại hình đồ dùng sinh hoạt phát hiện được gồm gốm sứ, sành, có niên đại trải dài từ thế kỷ XVI đến XVII, phản ánh quá trình cư trú lâu dài, ổn định và liên tục của lực lượng trấn giữ và có thể cả dân cư trong thành thành
Mặc dù kết quả nghiên cứu về thành nhà Bầu (Tuyên Quang) đã đạt được những thành tựu quan trọng nhất định, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề khoa học cần tiếp tục làm sáng tỏ, như: chưa phát hiện được dấu tích kiến trúc nhà ở; hệ thống giao thông nội và ngoại thành; chưa có bằng chứng chắc chắn về vị trí và cấu trúc các cửa thành, hào thành, thành ngoại; chưa xác định được nơi khai thác, chế tác vật liệu đá; chưa rõ về các khu sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, ngói) và đồ dùng sinh hoạt; liệu có sự hiện diện của bến thuyền trong khu vực thành hay không. Đây là những câu hỏi gợi mở quan trọng cho các đợt nghiên cứu tiếp theo về thành nhà Bầu (Tuyên Quang).
Mặc dù mỗi khu vực có đặc điểm riêng, tất cả đều duy trì hình thức mai táng co bó gối và kỹ thuật ghè đẽo công cụ đá. Cái Bèo và Đa Bút có trình độ phát triển cao hơn, chế tác công cụ mài và gốm sớm hơn; Quỳnh Văn và Bàu Dũ chủ yếu dùng cuội và đá phiến, Quỳnh Văn cũng đã có gốm sơ khai. Bàu Dũ còn đóng vai trò cầu nối tới giai đoạn văn hóa Xóm Cồn và Sa Huỳnh, đặc biệt liên hệ với cư dân Văn Tứ Đông ở Khánh Hòa. Qua những đặc điểm di vật và địa tầng cho chúng ta thấy được sự ảnh hưởng của văn hóa Hòa Bình với các cư dân sau này ở dọc ven biển nước ta. Đặc biệt vị trí của di chỉ Bàu Dũ đối với các di tích hậu Hòa Bình ven biển khác, cùng với đó là sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các cộng đồng cư dân cổ được diễn ra như thế nào.
Tổng thể, hệ thống các di chỉ này phản ánh sự kế thừa và phát triển từ văn hóa Hòa Bình, hình thành bình tuyến văn hóa ven biển từ Bắc vào Nam (Cái Bèo – Đa Bút – Quỳnh Văn – Bàu Dũ), với đặc trưng là khai thác nhuyễn thể, tạo nên các “đống rác bếp” tiêu biểu trong khảo cổ học Việt Nam, trong đó Bàu Dũ là một di chỉ điển hình về sự thích ứng với môi trường biển trong thời đại đồ đá mới nước ta.
Dựa trên vị trí đặt con kê, bài viết tập trung phân tích chi tiết hai loại tiêu biểu: loại 1 (con kê đặt trong lòng chân đế) và loại 2 (con kê đặt dưới vành chân đế), với các tiêu chí phân tích bao gồm màu men, diện phủ men, kỹ thuật cắt mép chân đế, loại hình, hoa văn và kích thước. Kết quả cho thấy loại 1 phổ biến hơn ở giai đoạn đầu thời Lý, với kỹ thuật chân đế cắt phẳng và dòng men ngọc là chủ đạo. Loại 2 có sự đa dạng hơn về kiểu cắt chân đế, loại hình trang trí và niên đại muộn hơn, phổ biến trong thời Trần.
Nghiên cứu không chỉ làm rõ đặc điểm kỹ thuật của từng loại hình sản phẩm mà còn cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa kỹ thuật chồng nung, cách tạo chân đế và trang trí hoa văn, góp phần làm rõ tiến trình phát triển và thay đổi kỹ thuật sản xuất gốm men trong giai đoạn Lý - Trần.
