Khu vực nghiên cứu là vùng cao núi đất phía tây gồm hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Đây là khu vực thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp, là một phần của cao nguyên Bắc Hà (cao nguyên nằm trên địa bàn hai tỉnh Lào Cai và Hà Giang, trải rộng trên phần lớn diện tích các huyện Bắc Hà, Si Ma Cai, Xín Mần, Hoàng Su Phì), thường được gọi là Vòm nâng sông Chảy, có độ cao từ 1.000m đến trên 2.000m. Địa hình nơi đây phổ biến dạng vòm hoặc nửa vòm, quả lê, yên ngựa xen kẽ các dạng địa hình dốc, đôi khi sắc nhọn hoặc lởm chởm dốc đứng, bị phân cắt mạnh, nhiều nếp gấp. Khu vực này là đất cổ nhất miền Bắc Việt Nam trên nền đá Gơ Nai và đá phiến mi ca thái CO Granit. Đất ở đây phần lớn là đất kết tinh, có độ dốc cao (lớn hơn 30%, lớn hơn 250). Sông suối đều ở dạng hẻm, có độ dốc lớn, chảy xiết, do sườn núi quá dốc dẫn đến quá trình xói mòn rửa trôi mạnh, lại không có bồi tụ, nên tầng đất mỏng, bị phân cắt mạnh. Khu vực này có các đỉnh núi cao như Tây Côn Lĩnh (2.419m) và Kiều Liêu Ti (2.402m).
Vùng núi đất phía tây có đặc trưng là một hệ sinh thái rừng khá phong phú, xen kẹp với các hệ sinh thái nông nghiệp. Trên các sườn của hệ thống núi đất có những thửa ruộng bậc thang nối tiếp nhau trên một diện tích khu vực rộng lớn đã tạo nên những cảnh quan tự nhiên tuyệt đẹp rất đặc thù của hệ sinh thái vùng núi đất ở Hà Giang. Vùng địa lý tự nhiên này được chia thành hai tiểu vùng là Hoàng Su Phì và Xín Mần. Trong đó, tiểu vùng Xín Mần có nền đá chắc chắn, không bị rửa trôi và sạt lở như Hoàng Su Phì.
Trong khu vực nghiên cứu, có thể kể đến ba con sông chính. Sông Chảy là phụ lưu lớn thứ hai sau sông Gâm của hệ thống sông Lô, bắt nguồn từ sườn tây nam đỉnh Tây Côn Lĩnh và sườn đông bắc đỉnh Chiêu Lầu Thi, chảy qua hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần, vượt qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái rồi chảy vào sông Lô ở Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Sông Chảy là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho khu vực phía tây của Hà Giang. Sông Con bắt nguồn từ núi Nà Chì thuộc huyện Xín Mần, chảy qua huyện Quang Bỉnh, đổ vào sông Lô ở huyện Bắc Quang. Chiều dài sông khoảng 65km. Sông Bạc là sông nhánh lớn của sông Con, bắt nguồn từ núi Nguyên Sơn, thuộc huyện Hoàng Su Phì, đổ vào sông Con, chiều dài sông khoảng 23km. Ngoài ra, các con sông này đều được tiếp nước của vô số các con suối nhỏ từ núi cao chảy xuống (Địa chí Hà Giang 2020).
(Nguyễn Trường Đông, Khảo cổ học, số 2/2024: 3-16)
Trước hết, Ban biên tập Tạp chí Khảo cổ học xin chân thành cảm ơn những đóng góp quý báu của các nhà khoa học, bạn đọc gần xa và đặc biệt là đội ngũ các cộng tác viên của Tạp chí trong thời gian qua đã có những bài viết, những ý kiến tâm huyết cho sự phát triển của Tạp chí chúng ta. Để không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng các bài viết trên Tạp chí Khảo cổ học cả về mặt nội dung và hình thức, Ban biên tập xin lưu ý các cộng tác viên khi gửi bài một số điểm sau:
1. Bài gửi đăng trên Tạp chí Khảo cổ hoc phải là bài chưa gửi đăng trên các sách, báo và các loại tạp chí khác.
2. Bài gửi đăng được soạn trên máy vi tính, in một mặt giấy khổ A4. Mỗi bài gửi cho tòa soạn 01 bản chính, kèm theo 01 đĩa CD ghi nội dung bài viết và 01 bản tóm tắt nội dung (khoảng 1/2 trang A4). Dùng font chữ Times New Roman , 10.5pt, exactly 15pt, cách trên 6pt, cách dưới 0pt. Tác giả có thể liên hệ trước với tòa soạn nếu gửi bài qua email của Tạp chí.
Đối với các minh họa (bản ảnh, vẽ, sơ đồ, biểu đồ, bảng thống kê…) cần ghi chú thích cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn, và nhất thiết phải trích rõ nguồn của các minh họa đó (nếu là ảnh thì đề nghị gửi kèm file ảnh gốc).
3. Bài viết cần trình bày theo tiểu mục được đánh số thứ tự: 1, 2, 3,…; 1.1, 1.2,…; 1.1.1, 1.1.2,…, sau đó là a, b,…; a1, a2,…; b1, b2,... và cuối cùng là dấu “-”, “+”, “.”). Tên tiểu mục cần ngắn gọn, không có chấm câu.
4. Tên riêng người, địa phương, thuật ngữ tiếng nước ngoài bằng chữ La Tinh để nguyên văn; bằng chữ Nga, chữ tượng hình, chữ Phạn thì phiên âm theo hệ thống La Tinh.
5. Các đoạn trích dẫn trong bài để trong dấu ngoặc kép, không in nghiêng. Các đoạn trích dẫn nguyên văn để trong dấu ngoặc kép (“…”), không in nghiêng. Trường hợp tác giả cần nhấn mạnh một số đoạn trong phần trích dẫn cần in nghiêng phần nhấn mạnh, sau đó ghi viết tắt tên tác giả nhấn mạnh trong ngoặc đơn, ví dụ: (NGĐ nhấn mạnh). Trường hợp trong đoạn trích dẫn có chỗ sai không phải do người trích, thì người trích có thể ghi thêm hai chữ (nguyên văn) đặt trong ngoặc đơn.
6. Các chú thích để ở cuối bài, trước mục tài liệu dẫn, đánh theo số thứ tự 1, 2, 3… Tác giả trích dẫn trong bài để trong dấu ngoặc đơn và viết theo thứ tự:
a. Đối với tài liệu tiếng Việt: (Tên đầy đủ của tác giả, năm xuất bản, số trang)
Thí dụ: (Nguyễn Văn A 2000: 10-20)
b. Đối với tài liệu tiếng nước ngoài: (Tên họ tác giả, năm xuất bản, số trang)
Thí dụ: (Parmentier 1963: 178)
7. Bài nghiên cứu cần có tài liệu dẫn. Danh sách tài liệu dẫn đặt ở cuối bài và được sắp xếp theo thứ tự: Họ tên tác giả, Năm xuất bản, Tên tài liệu (chữ nghiêng), Tên một bài trong sách hay tạp chí (không nghiêng), Nhà xuất bản, Địa điểm xuất bản. Thí dụ: (Parmentier, H. 1963: 178)
8. Cuối bài cần ghi rõ họ tên, chức danh khoa học, tên cơ quan và địa chỉ, điện thoại, email để Tòa soạn tiện liên hệ với tác giả.
9. Các bài gửi đăng sẽ được Ban biên tập biên tập, khi cần sẽ trao đổi với tác giả để hoàn thiện bản thảo. Bài không sử dụng, Tòa soạn xin phép không trả lại bản thảo.
10. Để bài gửi đến có hình thức hoàn hảo theo quy định, xin quan sát kỹ các bài viết đã in trong số tạp chí gần đây.
- TÒA SOẠN TẠP CHÍ KHẢO CỔ HỌC -
quy_dinh_gui_bai_cho_tap_chi_khao_co_hoc.pdf
Kết quả khai quật mới nhất tại Di chỉ Vườn Chuối đã cung cấp thêm nhiều tư liệu mới trong nghiên cứu thời đại Kim khí ở miền Bắc Việt Nam, mặt bằng khu cư trú thời tiền Đông Sơn nằm ở vị trí cao nhất của gò Vườn Chuối, cấu trúc hình lòng chảo với rìa ngoài cao hơn bên trong khoảng 0,5m, bên ngoài khu cư trú có một vòng hào bảo vệ rộng khoảng 10m và sâu khoảng 2,5 - 3m bao quanh.
Kết quả khảo cổ cũng cho thấy, khoảng 3.500 năm trước, đã có lớp cư dân đầu tiên cư trú ở khu vực này. Sự hiện diện một điểm quần cư quy mô lớn và có niên đại kéo dài như ở Vườn Chuối là rất hiếm, cho thấy những hiểu biết rõ hơn về cách thức xử lý các không gian cư trú, phần nào phản ánh về một xã hội có tổ chức và có phân công lao động. Cuộc khai quật đã phát hiện một khu mộ táng từ thời tiền Đông Sơn rất tập trung, có niên đại dài tới hơn 2.000 năm, trong đó phát hiện 70 mộ táng tiền Đông Sơn và 40 mộ táng Đông Sơn. Cũng tại đây đã tìm thấy những dấu tích vật chất của công trình kiến trúc liên quan đến nhà ở của người Đông Sơn.
Tại di tích Gò Đất Nại (Bà Rịa - Vũng Tàu) cũng đã phát hiện 6 di tích mộ táng, trong đó có 5 mộ huyệt đất và 1 mộ vò cùng nhiều đồ tùy táng, với loại hình phổ biến nhất là đồ gốm và một số hiện vật bằng đá, kim loại thuộc 2 giai đoạn có niên đại kéo dài từ 2.500 năm cách ngày nay đến thế kỷ I - II sau Công nguyên.
Còn cuộc khai quật công xưởng chế tác vòng đá Thọ Sơn (Bình Phước), di vật phát hiện được chủ yếu là các loại hình liên quan đến hoạt động chế tác vòng đá. Niên đại tương đối của di tích khoảng 2.700 năm cách ngày nay.
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, những kết quả của khảo cổ học giúp chúng ta hình dung được đời sống tinh thần, vật chất của những thế hệ trước. Một cuộc khai quật không chỉ ra những cuốn sách mà còn là sự tổng hợp của tất cả những tri thức khác để có thể từ hiện vật vô tri vô giác đưa ra những thông điệp về lịch sử.
Cần được quan tâm đúng mức
Một số chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ và lịch sử cho rằng, nguyên nhân dẫn đến việc nhiều khảo cổ học có giá trị nhưng sau khi được phát hiện chưa có sự bảo vệ tốt và chưa phát huy được giá trị trong đời sống là do chưa được quan tâm, chú ý đúng mức. Khai quật xong thì vấn đề tuyên truyền, bảo vệ như nào là vấn đề rất lớn. Muốn làm được điều đó cần phải có cả sự chung tay của Nhà nước, chính quyền địa phương và người dân sở tại ở khu vực di tích.
Điển hình như câu chuyện Di chỉ Vườn Chuối. Đây là khu khảo cổ di chỉ đã được phát hiện từ những năm 1969. Trải qua nhiều đợt khai quật đã phát hiện nhiều dấu tích hết sức có giá trị. Tuy nhiên sau bao nhiêu năm, vấn đề bảo vệ để phát huy giá trị của khu di chỉ này trong đời sống vẫn còn “lùng nhùng”, chưa có phương án chính thức. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, đây là di chỉ đã được phát hiện từ lâu, trải qua nhiều cuộc khai quật, bất kỳ cuộc khai quật nào cũng thấy được những kết quả rất giá trị cho thấy đây là vùng cư trú dân cư từ rất cổ xưa, ít nhất là 4.000 năm.
“Di chỉ Vườn Chuối nên trở thành một công viên văn hóa. Vì gần khu Di chỉ Vườn Chuối có cả Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá. Cùng với Di chỉ Vườn Chuối, đó sẽ trở thành cụm văn hóa thu hút đông đảo người dân, du khách đến tham quan. Tất cả sẽ mang lại lợi ích chung cho cộng đồng” - nhà sử học Dương Trung Quốc nói.
383 thông báo khoa học tại Hội thảo Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2024 cho thấy hoạt động khảo cổ học Việt Nam mùa điền dã 2023 - 2024 diễn ra rất sôi nổi, đều khắp trên toàn quốc và đạt hiệu quả cao. Theo đánh giá của TS Hà Văn Cẩn - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khảo cổ học, kế thừa và phát huy thành tựu của các giai đoạn trước, trong 1 năm qua ngành khảo cổ học đã thu được những thành quả đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào việc nhận thức diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam. Khẳng định giá trị các nền văn hóa, văn minh, văn hiến của các cộng đồng cư dân cổ trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Qua đó góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc trong phát triển kinh tế, xây dựng con người, văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Hoạt động khảo cổ học diễn ra sôi động ở các địa phương trong cả nước với nhiều phát hiện có giá trị. Song vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị đó như thế nào trong đời sống hiện nay lại đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận và các nhà khoa học. Bởi, có những phát hiện về khảo cổ có giá trị rất lớn đã được phát hiện, nhưng đến nay vẫn chưa có phương án bảo vệ.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Phó viện trưởng Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam khẳng định, Hội thảo khảo cổ học là hoạt động khoa học quan trọng hằng năm của ngành khảo cổ học, là diễn đàn để giới nghiên cứu khảo cổ học và nhiều ngành khoa học có liên quan gặp gỡ, trao đổi thông tin về những phát hiện mới, tranh luận học thuật, mở ra các cơ hội hợp tác nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn tin tưởng, đánh giá cao nỗ lực của Viện Khảo cổ học cùng các cơ quan hữu quan trong gần 60 năm qua đã tổ chức thành công các hội thảo hằng năm cũng như thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ chuyên môn quan trọng.
![]() |
PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu khai mạc hội thảo. |
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, PGS, TS Hà Văn Cẩn, Phó viện trưởng phụ trách Viện Khảo cổ học cho biết, một năm qua, ngành khảo cổ học đã thu được những thành quả đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào việc nhận thức diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam, khẳng định giá trị các nền văn hóa, văn minh, văn hiến của các cộng đồng dân cư cổ trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường dân tộc trong phát triển kinh tế, xây dựng con người, văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
![]() |
Đông đảo các nhà khoa học tham dự hội thảo |
Trình bày “Hoạt động khảo cổ học Việt Nam 2 năm 2023-2024”, PGS, TS Bùi Văn Liêm, Nghiên cứu viên cao cấp, Tổng biên tập Tạp chí Khảo cổ học nhấn mạnh: “Hội thảo đã nhận được 383 bài, trong đó có 7 bài về các hoạt động chung, 36 bài về khảo cổ học Tiền sử, 63 bài khảo cổ học Sơ sử và Nhà nước sớm, 221 bài khảo cổ học về Lịch sử, 50 bài khảo cổ học Champa-Óc Eo và 6 bài khảo cổ học Dưới nước. 383 thông báo tại Hội thảo cho thấy hoạt động khảo cổ học Việt Nam mùa điền dã 2023-2024 diễn ra rất sôi nổi, đều khắp trên toàn quốc và đạt hiệu quả cao. Nhiều báo cáo được thực hiện công phu, nghiêm túc có nội dung phong phú. Đó chính là những thông tin khoa học mới bổ sung cứ liệu giúp nhà khoa học đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của khảo cổ học Việt Nam, góp phần nhận thức rõ hơn lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển con người Việt Nam”.
Tại Hội thảo, các Tiểu ban thảo luận sâu về nội dung, loại hình tính chất, niên đại, chủ nhân, các mối liên hệ của di tích, di vật; thực trạng của di tích, phương hướng trong mục tiêu bảo vệ, bảo tồn, nghiên cứu, phát huy các giá trị lịch sử-văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hội thảo tổng kết và bế mạc ngày 15-11.
Tổng hợp tin tức: Nguyễn Thơ Đình
Cho đến nghiên cứu mới này, các công cụ bằng đá chưa được tìm thấy có liên quan trực tiếp đến các thành viên nhánh người đầu tiên thuộc chi Australopithecus, ngoại trừ các thành viên của chi Homo, (H. habilis), tiến hóa từ Australopithecus. Do đó, mặc dù người ta cho rằng việc chế tạo và sử dụng công cụ có nguồn gốc sớm hơn, nhưng vẫn thiếu bằng chứng cụ thể. Có khả năng các công cụ và hiện vật khác làm từ vật liệu hữu cơ (ví dụ: gỗ, da động vật) đã được đưa vào công nghệ hominin sớm nhất. Tuy nhiên, vì những vật liệu như vậy bị phân hủy theo thời gian nên chúng hiếm khi, nếu có, được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ học sớm.
Eberhard Karls và các đồng nghiệp tại Đại học Tubingen, Đức đã sử dụng một phương pháp gián tiếp để xác định bằng chứng về việc chế tạo và sử dụng công sơ khai. Họ bắt đầu bằng việc quan sát rằng việc chế tạo công cụ đòi hỏi rất nhiều sự khéo léo của bàn tay và mặc dù cả vượn và người đều có bàn tay, và vượn sử dụng một số công cụ rất đơn giản (gậy và đá với ít hoặc không có sự tu chỉnh), chúng không thể hiện sự tinh vi trong chế tạo công cụ như con người. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng có thể có sự khác biệt về mặt vật lý trong giải phẫu của bàn tay tương ứng của chúng phản ánh sự thích nghi tiến hóa với việc chế tạo công cụ mà giống người đã trải qua.

So sánh các xương ngón tay được chọn – người hiện đại (đổ bóng tối) và tinh tinh (đổ bóng sáng hơn).
Các mảng màu là vị trí bám cơ, lớn hơn và nổi bật hơn ở người. [Ảnh của Jana Kunze, Katerina Harvati, Gerhard Hotz, Fotios Alexandros Karakostis / CC BY 4.0]
Nhóm các nhà khoa học đã tiến hành kiểm tra chi tiết các dấu vết của các điểm bám cơ trên hóa thạch xương bàn tay (xương ngón tay), được chỉ ra bởi sự khác biệt về độ cao bề mặt, màu sắc và kết cấu bề mặt, từ ba loài người sớm: Australopithecus sediba (A. sediba) niên đại 1.98 triệu năm và A. afarensis (3.9-2.9 mya) và A. africanus (3.3-2.1 mya), và so sánh chúng với loài vượn và người hiện đại.
Sử dụng dữ liệu này, các nhà nghiên cứu đã xây dựng mô hình 3D bàn tay của từng loài. Nghiên cứu tập trung vào các bằng chứng khác nhau về việc sử dụng được phản ánh trong các điểm bám cơ trên các xương này vì chúng sẽ cung cấp dấu hiệu về mức độ khéo léo được chỉ ra bởi mức độ sử dụng bàn tay của các loài khác nhau.
Các mẫu của hai loài Australopithecus là A. sediba, có niên đại khoảng 1,98 triệu năm trước (mya) và A. afarensis (3,9-2,9 mya) được phát hiện có các kiểu sử dụng phản ánh ở các điểm bám cơ tương tự nhưng không giống hệt với các điểm bám cơ của người hiện đại. Loài còn lại—A. africanus (3,3-2,1 mya)—thể hiện sự kết hợp các đặc điểm bao gồm cả kiểu vượn và kiểu người hiện đại. Các khoảng thời gian theo niên đại khác nhau cho thấy mức độ thích nghi khác nhau đối với sự phụ thuộc vào công nghệ giữa các loài. Điều này cho thấy các loài hominin ban đầu khác nhau thể hiện mức độ sử dụng công nghệ khác nhau, có lẽ là do sự thích nghi sinh thái khác nhau.
Kết quả cho thấy:
1) điểm tương đồng giữa mẫu vật của Australopithecus và con người hiện đại, trái ngược với loài vượn, ủng hộ cho cách giải thích rằng những người sớm đầu tiên này rõ ràng có khả năng thao tác tinh vi cần thiết để sản xuất và sử dụng các công cụ bằng đá và
2) có sự khác biệt về mặt này giữa các loài người sớm đầu tiên khác nhau, cho thấy bằng chứng về sự thích nghi tiến hóa đa dạng.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng “Việc kích hoạt thường xuyên các cơ cần thiết để thực hiện các thao tác cầm nắm và điều khiển giống người đặc trưng ở những loài người đầu tiên này ủng hộ cho quan niệm rằng việc sử dụng bàn tay giống người đã xuất hiện trước và có thể ảnh hưởng đến các quá trình thích nghi tiến hóa để có sự khéo léo bằng tay cao hơn ở các loài người sau này”.
Ý nghĩa của những phát hiện này là sự phát triển của công nghệ công cụ bằng đá mà tổ tiên loài người ngày càng phụ thuộc vào đã bắt đầu sớm hơn nhiều so với những gì đã biết trước đây. Hơn nữa, sự phát triển của khả năng này là chìa khóa cho sự tiến hóa của nhánh người ngay từ khi mới xuất hiện, khác biệt với các loài vượn.
Các mẫu công cụ bằng đá thực tế sớm nhất mà các nhà khảo cổ học biết đến có niên đại khoảng 3,3 triệu năm trước nhưng không có hóa thạch người liên quan, vì vậy người chế tạo chúng không được biết đến. Bằng chứng gián tiếp về việc sử dụng công cụ bằng đá dưới dạng vết cắt trên xương có từ sớm hơn một chút—khoảng 3,4 triệu năm trước. Nghiên cứu mới này ủng hộ mạnh mẽ cách giải thích rằng các loài Australopithecus có khả năng chế tạo những công cụ bằng đá sớm nhất này, trước khi xuất hiện chi Homo, vào khoảng 2,4 triệu năm trước.
Ý nghĩa rộng hơn của nghiên cứu này là sự tiến hóa về công nghệ giữa các tổ tiên loài người đã bắt đầu từ rất lâu trước khi bằng chứng vật lý về công cụ bằng đá được phát hiện cho đến nay. Hơn nữa, sự phát triển và sử dụng các công nghệ ngày càng tinh vi không chỉ đòi hỏi sự thích nghi về kỹ năng vận động mà còn cả về nhận thức.
Sự tiến hóa của công nghệ công cụ bằng đá và ngôn ngữ có thể đã được liên kết theo phương pháp biện chứng. Do đó, tính trung tâm của công nghệ đối với quá trình tiến hóa của con người được củng cố. Đây không phải là một ý tưởng mới. Hơn một trăm năm trước, Frederick Engels đã viết điều này trong “Vai trò của lao động trong quá trình chuyển đổi từ vượn sang người”:
“Nhưng chính ở đây, người ta mới thấy được khoảng cách lớn đến thế nào giữa bàn tay chưa phát triển của ngay cả loài vượn giống người nhất và bàn tay con người đã được hoàn thiện cao độ nhờ lao động trong hàng trăm nghìn năm. Số lượng và sự sắp xếp chung của xương và cơ ở cả hai đều giống nhau; nhưng bàn tay của người có thể thực hiện hàng trăm thao tác mà không bàn tay khỉ nào có thể bắt chước được. Không có bàn tay vượn nào có thể tạo ra được con dao đá thô sơ nhất.”
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo:
https://www.wsws.org/en/articles/2024/10/21/bhlz-o21.html?fbclid=IwY2xjawGarwlleHRuA2FlbQIxMQABHVi1CGQhd2YRTq1rR8J7vCwrnwPm0ItSoPT0ugUiAOJXeipJTjXLPlIuqw_aem_hBcnu2yB5qjHVS3p17AnHg

Nhà khảo cổ Philippin Vito Hernandez (thứ 2 bên phải, với camera) cũng với các nghiên cứu đồng nghiệp ở hang Tam Pà Ling phía bắc Lào ( ảnh: Macquarie University / Kira Westaway)
Các phân tích hóa thạch và trầm tích từ hang Tam Pà Ling ( Hang Khỉ ở Lào) bởi nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế trong đó một nhà nghiên cứu Philippine trước đây đã từng giảng dạy tại đại học Philippines và hiện tại đang làm việc Phòng thí nghiệm vi khảo cổ, đại học Flinders ở Nam Úc, đã đẩy lùi khung niên đại khi chúng ta biết về loài người Homo sapiens, có mặt ở khu vực Đông Nam Á lục địa.
Các hóa thạch mới phát hiện này cung cấp bằng chứng chắc chắn về sự có mặt của người hiện đại ở bắc Lào từ 86,000 năm cách đây . Điều này gần như cổ hơn 20,000 năm so với hầu hết các bằng chứng từ các di chỉ cho đến nay được nghiên cứu ở Đông Nam Á và đã bổ sung thêm xác nhận cho sự di cư trước 60,0000 năm của người hiện đại vào khu vực Đông Á.
Vito Hernandez, nhà địa khảo cổ Philippines – thành viên của đoàn nghiên cứu đã công bố những phát hiện gần đây ở hang Tam Pà Ling cho biết:
“ Phát hiện này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về sự phân bố của các tổ tiên trực tiếp của chúng ta tại thời điểm mà chúng ta biết về các quần thể người khác, đã tồn tại và tuyệt chủng hiện nay”.
Nghiên cứu này ở bắc Lào, trong đó một nghiên cứu trước đó về các loài người tuyệt chủng hiện nay được biết là người Denisovan 164000 -131000 cách ngày nay ở hang Tam Ngu Hao 2 (Hang Cobra) thuộc cùng dãy núi với hang Tam Pà Ling, điều đó cho gợi ý sâu sắc rằng khu vực này của Đông Nam Á là một con đường di cư người sớm. Vito Hernandez giải thích “ Điều này cũng chứng minh rằng tổ tiên loài người chúng ta đã đi dọc các khu rừng và các thung lũng ven sông, ngoài việc men theo các đảo và các bờ biển khi họ di chuyển về hướng đông đến Australia, nơi mà còn nhiều tranh luận khi cho rằng họ đã di cư từ 65,000 năm trước.”
Ông cho biết thêm: “Các phân tích về hóa thạch ở Tam Pà Ling cho thấy những người hiện đại sơ khai này là một phần của quần thể người nhập cư, nhưng liệu dòng gen của họ có tồn tại thành công trong quần thể hiện tại hay không vẫn chưa được xác định”.
Ban đầu, các hóa thạch từ Tam Pà Ling rất khó xác định niên đại, dẫn đến sự hoài nghi về các bằng chứng của hang này được đưa ra trước đó. Điều này khiến các chuyên gia địa chất và khảo cổ học của nhóm áp dụng một cách chiến lược các kỹ thuật của họ để xác định xem các trầm tích có niên đại liên quan đến hóa thạch như thế nào và xác định tuổi chính xác cho cả hai.
Vito Hernandez giải thích chi tiết:
“Việc xác định niên đại và chất lượng bảo quản hóa thạch rất quan trọng như chúng ta đã thấy từ nghiên cứu đứng đầu bởi các nhà khoa học như Giáo sư Armand Mijares tại Trường Khảo cổ học, đại học Philippin, nhưng như chúng ta cũng thấy từ nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu tiến hóa khác của con người như ở hang Denisova, Nga, rất cần thiết sự hợp tác chặt chẽ giữa khoa học Trái đất và con người, nếu chúng ta muốn đạt được một bức tranh hoàn chỉnh hơn về sự tiến hóa và định cư của con người như thế nào ở các khu vực khác nhau trên thế giới,” .
Hernandez trước đây là giảng viên của Trường Khảo cổ học, Đại học Philippin, và từng tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học ở đây. Ông cũng quản lý các lớp Khoa học, Công nghệ và Xã hội, của trường Cao đẳng Khoa học UP Diliman (UPD-CS). Ông khẳng định rằng “Tôi hy vọng sẽ trở lại sau công việc nghiên cứu của mình ở Úc và góp phần đưa nền khoa học của chúng ta phục vụ xã hội Philippines,” .
Người dịch: MT
Nguồn tham khảo
Pinoy archaeologist helps rewrite human history in Southeast Asia (upd.edu.ph)
Freidline, S. E., Westaway, K. E., Joannes-Boyau, R., Duringer, P., Ponche, J.-L., Morley, M. W., Hernandez, V. C., McAllister-Hayward, M. S., McColl, H., Zanolli, C., Gunz, P., Bergmann, I., Sichanthongtip, P., Sihanam, D., Boualaphane, S., Luangkhoth, T., Souksavatdy, V., Dosseto, A., Boesch, Q., … Demeter, F. (2023). Early presence of Homo sapiens in Southeast Asia by 86–68 kyr at Tam Pà Ling, Northern Laos. Nature Communications, 14(1). https://doi.org/10.1038/s41467-023-38715-y