- Tác giả: Đông A
- Nxb: Đại học sư phạm-
- Số trang: 660tr
- Khổ sách: 25x30cm
- Hình thức bìa: cứng
Lịch sử Việt Nam bằng hình phác họa bức chân dung toàn cảnh về quá trình dựng nước và giữ nước, xuyên suốt từ thời xuất hiện các cư dân cổ xưa đầu tiên trên lãnh thổ cho đến khi hình thành một quốc gia hiện đại như ngày nay. Cuốn sách cũng trình hiện các lớp văn hóa của Việt Nam, được khơi nguồn từ buổi sơ khai đồ đá, đồ kim khí đến lúc định hình bản sắc riêng rực rỡ vào thời Lý - Trần, và không ngừng được bồi đắp, sản sinh vào những giai đoạn tiếp theo. Những trận đánh vang danh, những danh nhân nổi tiếng cũng được giới thiệu trong sách, qua đó lý giải nhiều bước ngoặt quan trọng của dòng chảy lịch sử nước nhà.
Bên cạnh lịch sử Việt Nam, cuối mỗi phần có thêm bài khái quát vắn tắt tình hình Trung Quốc và phương Tây ứng với từng giai đoạn lịch sử trong nước. Dựa vào đó, bạn đọc có thể nhìn rộng ra khung cảnh thế giới đương thời và hiểu biết thấu đáo hơn về lịch sử nước nhà.
Cuốn sách được bố cục thành 14 phần chính:
Phần 1: Tiền sử và truyền thuyết 
Phần 2: Chống Bắc thuộc
Phần 3: Nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê 
Phần 4: Nhà Lý
Phần 5: Nhà Trần
Phần 6: Nhà Hồ và thời thuộc Minh 
Phần 7: Nhà Hậu Lê (thời Lê sơ) 
Phần 8: Nhà Mạc
Phần 9: Thời Lê Trung hưng và chính quyền chúa Nguyễn
Phần 10: Nhà Tây Sơn 
Phần 11: Nhà Nguyễn (Sơ kỳ)
Phần 12: Chống Pháp và Pháp thuộc
Phần 13: Độc lập, thống nhất và phát triển
Phần 14: Nghìn năm văn hiến
Các di tích, chùa, đền, tượng đài gắn liền với tên tuổi các danh nhân lịch sử cũng hiện diện trong cuốn sách này dưới dạng ảnh chụp để minh họa cho ngôn từ thêm phần sinh động. Toàn bộ cuốn sách có gần 2.000 tranh ảnh và bản đồ. 
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Tác giả: Trung tâm Bảo tồ di tích cố đô Huế - Bảo tàng cổ vật cùng đình Huế
- Nxb: Thế giới -2023
- Số trang: 265tr
- Khổ sách: 22,5x30cm
- Hình thức bìa: cứng
 

Giới thiệu đến công chúng 100 hiện vật, cổ vật thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng cổ vật cung đình Huế. Các hiện vật này là những hiện vật tiêu biểu thời Khải Định - vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn. Các hiện vật sự phong phú về chất liệu (vàng, bạc, ngọc, ngà voi, gốm sứ, vải, giấy); đa dạng về loại hình và chức năng từ những báu vật biểu trưng cho quyền lực của nhà vua (ấn, kiếm, ngai, kim sách) đến đồ thờ tự (đài thờ, sắc phong) hay đồ trang trí nội thất, đồ dùng hàng ngày, cả những hiện vật liên quan đến nghi thức khen thưởng trang trọng của vương triều…

Tiêu biểu trong số này là các kim bảo, ngọc tỷ. Trong thời gian 10 năm trị vì (1916 - 1925), vua Khải Định có 12 kim bảo và ngọc tỷ. Biểu trưng cho vương quyền, bảo vật của hoàng đế Khải Định còn có thanh bảo kiếm, mang tên “An dân bảo kiếm” được chế tác từ nhiều chất liệu: vàng, đồi mồi, thủy tinh…

Những hiện vật này phần lớn do ngự xưởng sản xuất, chế tác để phục vụ cho vua, hoàng gia và cung đình; một số khác, được đặt hàng từ nước ngoài, chủ yếu là ở Trung Hoa và Pháp, Anh với các dòng hiệu đề và lạc khoản.
Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

- Tác giả: Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược
- Nxb: Mỹ Thuật - 2022
- Số trang: 255tr
- Khổ sách: 25x30cm
- Hình thức bìa: cứng
Cuốn sách Đồ họa cổ Việt Nam được nhóm tác giả khởi dựng từ những năm 1995/1996 cùng nhau thực hiện vào năm 1998 và được NXB in vào năm 1999, có thể nói không có họa sỹ Trương Hạnh thì cuốn sách khó có thể ra đời vì ông dành nhiều chi phí của NXB và công sức để in cuốn sách này, năm 2003 nhân có triển lãm văn hóa Việt Nam tại bảo tàng New York, quỹ Ford đã tài trợ cho nhóm tác giả tiền dịch cuốn sách đó ra tiếng Anh, người dịch là tiến sỹ ngôn ngữ Thế Hùng, kho đó ông đã gần 80 tuổi Ban đầu nhóm tác giả chỉ có ý định làm cuốn sách về đồ họa Phật giáo, một kho tàng văn hóa cổ Việt Nam vốn chưa được khai thác, những sách này bao gồm các bản in và các mộc bản lưu trữ tại các chùa Việt Namvà chúng tôi chỉ định khai thác đồ họa tranh, nhưng lúc đó họa sỹ Trương Hạnh e ngại một cuốn sách Phật Giáo thuần túy và cần phải xin phép của ban tôn giáo chính phủ, nên ông đề nghị làm cuốn Đồ họa cổ Việt Nam. Như vậy nhóm tác giả phải thêm các phần tranh dân gian vào sách và phần đồ họa Phật Giáo vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong sách (70%). Đồ họa kinh sách phật giáo có cả ngàn năm lịch sử ít nhất từ thời Lý đến thời Nguyễn, nhưng do chiến tranh, thời gian đã không cho phép chúng ta có thể lưu trữ các ấn phẩm từ thời Lý, cổ nhất có thể tìm thấy bản in kinh chùa Vạn Đức, Hội An vào thế kỷ thứ 16, các bản in thế kỷ 17 cũng ko còn nhiều mà chủ yếu là vào thế kỷ 18,19 ở các chùa đồng bằng Bắc Bộ. Chưa kể một số lượng sách Nho giáo, Đạo Giáo, sách thuốc và các sách xã hội khác được ấn loát trong thời phong kiến đủ là một kho tàng đồ họa cổ Việt Nam đồ sộ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Bộ xây dựng
- Nxb: Xây Dựng - 2021
- Số trang: 275tr
- Khổ sách: 19x27cm
- Hình thức bìa: mềm
Giáo Trình Cấu Tạo Kiến Trúc  được viết theo đề cương môn học Cấu tạo kiến trúc, cuốn sách là sự kết hợp khá đầy đủ của những chi tiết cấu tạo kiến trúc của một công trình xây dựng dân dụng. Có kết cấu nội dung gồm 3 phần trình bày về những vấn đề chung, cấu tạo nhà dân dụng, cấu tạo nhà công nghiệp sẽ giúp các bạn hiểu thêm hơn về Cấu tạo kiến trúc.
Phần I: Những vấn đề chung
Phần II: Cấu tạo nhà dân dụng
  • 1. Nền móng
  • 2. Móng, nền nhà và hè rảnh
  • 3. Tường, cột, khung
  • 4. Cửa sổ và cửa đi
  • 5. Sàn bê tông cốt thép
  • 6. Cầu thang
  • 7. Mái nhà
  • 8. Các bộ phận khác
Phần III: Cấu tạo nhà công nghiệp
  • 9. Khái niệm chung
  • 10. Khung nhà công nghiệp một tầng
  • 11. Khung nhà công nghiệp nhiều tầng
  • 12. Kết cấu bao che và kết cấu phụ
Xin trân trọng giới thiệu
Ngô Thị Nhung
 
 
- Tác giả: Nguyễn Đình Tư
- Nxb: Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh-2023
- Số trang: 887tr
- Khổ sách: 20,5x29cm
- Hình thức bìa: cứng

Bộ sách ra mắt nhân kỷ niệm 325 năm hình thành Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định-Thành phố Hồ Chí Minh (1698-2023) và kỷ niệm 48 năm Ngày Giải phóng miền nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2023).
“Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử (1698-2020)” được xem là công trình dày công nghiên cứu trên 20 năm của Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư. Với niềm đam mê sử học, ông đã tập trung thời gian, sức lực đi khắp các thư viện, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II ở Thành phố Hồ Chí Minh để tập hợp tài liệu, hoàn thành đề tài “Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh” với mong muốn cung cấp bao quát thông tin đến công chúng về lịch sử từ thời đại tiền sử cho đến Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
Tác phẩm “Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh: Dặm dài lịch sử (1698-2020)” gồm 6 phần chính. Được chia ra 2 tập với mốc thời gian tập I từ 1698-1945 và tập II từ 1945-2020. “Với tác phẩm này, tôi muốn cung cấp cho độc giả cái nhìn bao quát, toàn diện, cụ thể các giai đoạn lịch sử, từ năm 1698 đến năm 2020, các chế độ chính trị, các lĩnh vực hoạt động về hành chính, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giáo tín ngưỡng, thể dục thể thao,… của từng thời kỳ.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Bảng tỉ lệ thành phần các hạt trong gốm cho thấy Cồn Đất có 15 trong số 19 loại hạt khoáng vật được thống kê, Thạch Lạc có 13 loại hạt, Cồn Chợ Mới chỉ có 7 loại trong khi cả 3 địa điểm đều có chung môi trường khử vũng vịnh, trong không gian địa chất khối Mường Lát và Trường Sơn. Điều này cho thấy có ba thói quen làm gốm khác nhau ở, có thể của những nhóm người khác nhau trong cùng một văn hóa. Họ cùng chia sẻ kỹ thuật làm gốm song mỗi nhóm, mỗi gia đình có bí quyết riêng để giữ gốm bền khi sử dụng và an toàn khi nung. Xem xét mẫu đất sét tìm thấy trong di tích Cồn Đất cho thấy chỉ có 3 loại hạt khoáng cơ bản: thạch anh, fenspat và quazite với tỉ lệ thạch anh nhiều bất thường (28-30%), độ chọn lọc hạt tốt, kích thước hạt không quá 1mm. Nhiều khả năng đây là đất chọn lọc làm phôi ban đầu, khi làm gốm người thợ sẽ cho thêm các hạt khoáng khác (chất gầy) giúp gốm cứng chắc, bền hơn. Gốm được kiểm soát tốt tỷ lệ, thành phần, loại chất phụ gia, đồng thời xương gốm mỏng đều, ít vết cạo sửa cho thấy người thợ gốm đã nắm chắc chắn và thành thục kỹ thuật sản xuất, đồ gốm không phải sản phẩm của những thử nghiệm ban đầu.
Một số thành phần khoáng vật như khoáng có nguồn gốc magma, quặng hay quarzite có nguồn gốc địa chất trong khu vực, cho thấy nguồn sét và khoáng vật được khai tác tại chỗ. Một số loại khoáng khác như zircon, zoisit, gabbro, epidot cần được khảo chứng thêm về nguồn, nếu chúng có mặt tại chỗ chứng tỏ cư dân Quỳnh Văn hoàn toàn tự túc trong sản xuất gốm, nếu từ nơi khác cho thấy cư dân làm gốm có những mối liên hệ xa hơn.
 Với những chứng cớ trên, chúng tôi cho rằng kỹ thuật làm gốm và gốm đáy nhọn không phải sản phẩm được cư dân Quỳnh Văn sáng tạo ra mà là kết quả sự tiếp thu kỹ thuật/ con người từ cộng đồng cư dân khác.
Kết quả khảo sát và khai quật cho thấy thành được xây dựng dựa theo địa hình tự nhiên của hai quả đồi Bông Thượng và Bông Hạ. Việc xây dựng đã tận dụng triệt để yếu tố địa hình để kiến tạo một hệ thống phòng thủ khép kín và kiến cố.
Kết quả thám sát, khai quật cho thấy kết cấu chân tường thành không hoàn toàn đồng nhất: có vị trí chỉ kè phía bên ngoài, có vị trí kè cả bên trong và bên ngoài. Tại những vị trí có hai hàng đá, mép ngoài các hàng đá cách nhau từ 3,4-3,6m. Rất có thể tại những khu vực địa hình phức tạp, địa chất không ổn định hoặc có vị trí quân sự trọng yếu thành sẽ được kè cả hai mặt trong, ngoài. Ngược lại các vị trí khác chỉ được kè phần chân tường bên ngoài.
Đá kè chân tường thành được chế tác tương đối cẩn thận: Phần mặt trên và cạnh ngoài phẳng nhẵn. Đá được đặt ngay ngắn, đặc biệt là mép ngoài được căn chỉnh thẳng hàng. Điều này không chỉ phản ánh kỹ thuật xây dựng chính xác và quy chuẩn, nó còn có tác dụng lớn trong việc giữ ổn định kết cấu phần tường bên trên, tránh sụp đổ hoặc nứt vỡ.
Việc xây dựng không sử dụng chất kết dính. Phần tường thành đất được đầm chặt tạo độ kết dính tự nhiên, trong đất lẫn rất nhiều cuội, sỏi làm tăng độ vững chắc.
Ở những vị trí xuất lộ lớp lát nền, gạch dù sử dụng cả gạch lành và gạch vỡ nhưng luôn được xếp ngay ngắn. Hơn nữa, bên dưới lớp gạch lát, đất được trộn gạch vỡ đầm lèn rất chặt tạo mặt bằng. Điều đó làm cho lớp lát nền rất ổn định. Việc lát nền bằng gạch vồ, trùm cả lên phần đá kè là ấn số mà chúng tôi chưa giải thích được một cách thấu đáo. Phải chăng đây là vị trí các cửa thành hoặc cũng có thể đây là dấu tích đường đi trong thành. Bởi lẽ, phần chân tường thành thì chắc chắn không cần phải làm cầu kỳ đến như vậy.
Ở một số vị trí (hố 1 năm 2025 và hố 5 năm 2024) xuất hiện lớp ngói tương đối dày. Quá trình chỉnh lý, phân loại cho thấy có 2 loại ngói: ngói phẳng và ngói cong. Ngói phẳng hoàn toàn là ngói mũi nhọn, móc cài được tạo bởi kỹ thuật ấn vuốt bằng hai ngón tay. Cùng với số lượng lớn mảnh ngói, sự xuất hiện của gạch vuông lát nền và gạch trang trí hoa văn (dù chưa nhiều) cho thấy trong thành có thể tồn tại các kiến trúc lớn, mái lợp ngói đất nung, nền có thể được lát gạch vuông, thậm chí được trang trí bằng gạch có hoa văn.
Sự xuất hiện của số lượng lớn đạn đá và súng thần công với nhiều kích cỡ khác nhau tại di tích cho thấy chức năng quân sự tương đối rõ ràng của tòa thành này.
Các loại hình đồ dùng sinh hoạt phát hiện được gồm gốm sứ, sành, có niên đại trải dài từ thế kỷ XVI đến XVII, phản ánh quá trình cư trú lâu dài, ổn định và liên tục của lực lượng trấn giữ và có thể cả dân cư trong thành thành
Mặc dù kết quả nghiên cứu về thành nhà Bầu (Tuyên Quang) đã đạt được những thành tựu quan trọng nhất định, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề khoa học cần tiếp tục làm sáng tỏ, như: chưa phát hiện được dấu tích kiến trúc nhà ở; hệ thống giao thông nội và ngoại thành; chưa có bằng chứng chắc chắn về vị trí và cấu trúc các cửa thành, hào thành, thành ngoại; chưa xác định được nơi khai thác, chế tác vật liệu đá; chưa rõ về các khu sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, ngói) và đồ dùng sinh hoạt; liệu có sự hiện diện của bến thuyền trong khu vực thành hay không. Đây là những câu hỏi gợi mở quan trọng cho các đợt nghiên cứu tiếp theo về thành nhà Bầu (Tuyên Quang).

 
Trên cơ sở nghiên cứu các di tích văn hóa Đông Sơn phát hiện ở Hòa Bình từ 1887 đến năm 2024, bài viết đưa ra đặc điểm phân bố di tích, đặc điểm loại hình di tích và đặc điểm di vật. Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn Hòa Bình mang những đặc điểm chung của các di tích văn hóa Đông sơn thuộc loại hình miền núi phía Bắc: di tích phát hiện lẻ tẻ chủ yếu phát hiện bên các dòng suối, dòng sông, hiện vật chủ yếu là đồ đồng, trong đó nhóm công cụ sản xuất, vũ khí và nhạc cụ là chiếm số lượng nhiều. Tuy nhiên, giai đoạn này Hòa Bình có những đặc điểm riêng, sự xuất hiện các loại hình hiện vật ở đây: Loại hình sông Hồng, loại hình sông Mã và loại hình miền núi phía Bắc. Sự xuất hiện trống đồng Đông Sơn hay còn gọi trống đồng Heger I với 11 chiếc vơí đủ các nhóm trừ nhóm D (từ trống có niên đại sớm nhất đến trống có niên đại muộn nhất). Nếu so số lượng trống với các tỉnh miền núi phía Bắc thì trống đồng phát hiện ở Hòa Bình đáng chú ý từ số lượng đến nhóm, kiểu. Hơn thế nữa, sự xuất hiện nhóm rìu chiến có trang trí hoa văn những con hưu có đồi sừng dài hay hoa văn hình người hóa trang, cá sấu giao nhau, những hoa văn này thường thấy trang trí trên trống đồng Đông Sơn ở khu vực này cũng là một vấn đề đáng để suy ngẫm. Những dấu hiệu này cho thấy đây là một hiện tượng cất giấu đồ vật quý hiếm, trong các trường hợp xã hội có sự bất ổn.
Các nghiên cứu về di chỉ Bàu Dũ và các di tích hậu Hòa Bình ven biển Việt Nam cho thấy diện mạo văn hóa cư dân tiền sử thời đá mới khá đa dạng theo từng vùng, nhưng đều có điểm chung là khai thác biển từ rất sớm. Ở ven biển phía Bắc, cư dân Cái Bèo nổi bật với hoạt động đánh bắt cá biển xa bờ và chế tác gốm sớm nhất. Ven biển Bắc Trung Bộ có cư dân Đa Bút và Quỳnh Văn, trong đó Đa Bút ban đầu khai thác nhuyễn thể sông, Quỳnh Văn khai thác nhuyễn thể biển. Ở Nam Trung Bộ, cư dân Bàu Dũ là nhóm sớm nhất khai thác sò, điệp, hàu…
Mặc dù mỗi khu vực có đặc điểm riêng, tất cả đều duy trì hình thức mai táng co bó gối và kỹ thuật ghè đẽo công cụ đá. Cái Bèo và Đa Bút có trình độ phát triển cao hơn, chế tác công cụ mài và gốm sớm hơn; Quỳnh Văn và Bàu Dũ chủ yếu dùng cuội và đá phiến, Quỳnh Văn cũng đã có gốm sơ khai. Bàu Dũ còn đóng vai trò cầu nối tới giai đoạn văn hóa Xóm Cồn và Sa Huỳnh, đặc biệt liên hệ với cư dân Văn Tứ Đông ở Khánh Hòa. Qua những đặc điểm di vật và địa tầng cho chúng ta thấy được sự ảnh hưởng của văn hóa Hòa Bình với các cư dân sau này ở dọc ven biển nước ta. Đặc biệt vị trí của di chỉ Bàu Dũ đối với các di tích hậu Hòa Bình ven biển khác, cùng với đó là sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các cộng đồng cư dân cổ được diễn ra như thế nào.
Tổng thể, hệ thống các di chỉ này phản ánh sự kế thừa và phát triển từ văn hóa Hòa Bình, hình thành bình tuyến văn hóa ven biển từ Bắc vào Nam (Cái Bèo – Đa Bút – Quỳnh Văn – Bàu Dũ), với đặc trưng là khai thác nhuyễn thể, tạo nên các “đống rác bếp” tiêu biểu trong khảo cổ học Việt Nam, trong đó Bàu Dũ là một di chỉ điển hình về sự thích ứng với môi trường biển trong thời đại đồ đá mới nước ta.
Kỹ thuật chồng nung bằng con kê vành khăn có mấu là một trong những phương pháp nung gốm men phổ biến trong giai đoạn Lý - Trần, để lại dấu vết rõ nét trên nhiều hiện vật khảo cổ. Dựa trên tư liệu từ cuộc khai quật tại địa điểm Vườn Hồng (36 Điện Biên Phủ, Hà Nội), bài viết này tập trung nghiên cứu loại hình sản phẩm sử dụng kỹ thuật chồng nung bằng con kê vành khăn có mấu, qua đó góp phần bổ sung tư liệu cho quá trình nhận diện và định niên đại đồ gốm men thời kỳ này.
Dựa trên vị trí đặt con kê, bài viết tập trung phân tích chi tiết hai loại tiêu biểu: loại 1 (con kê đặt trong lòng chân đế) và loại 2 (con kê đặt dưới vành chân đế), với các tiêu chí phân tích bao gồm màu men, diện phủ men, kỹ thuật cắt mép chân đế, loại hình, hoa văn và kích thước. Kết quả cho thấy loại 1 phổ biến hơn ở giai đoạn đầu thời Lý, với kỹ thuật chân đế cắt phẳng và dòng men ngọc là chủ đạo. Loại 2 có sự đa dạng hơn về kiểu cắt chân đế, loại hình trang trí và niên đại muộn hơn, phổ biến trong thời Trần.
Nghiên cứu không chỉ làm rõ đặc điểm kỹ thuật của từng loại hình sản phẩm mà còn cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa kỹ thuật chồng nung, cách tạo chân đế và trang trí hoa văn, góp phần làm rõ tiến trình phát triển và thay đổi kỹ thuật sản xuất gốm men trong giai đoạn Lý - Trần.

Trang


61 Phan Chu Trinh, P. Cửa Nam, TP. Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 10400973
Số người đang online: 22