Những thay đổi khí hậu cổ đại đã tạo ra những con đường mới và những bước tiến trong quá trình tiến hóa đầu tiên của con người.
Khi nghĩ về quá trình tiến hóa của con người,  chúng ta dễ dàng tập trung vào các cột mốc sinh học—công cụ, lửa và sự xuất hiện của Homo sapiens. Nhưng nếu câu chuyện về hành trình của tổ tiên loài người trên khắp thế giới được viết nên bởi môi trường thì sẽ như thế nào? Một nghiên cứu gần đây, "Sự khô cằn giữa kỷ Pleistocene và sự thay đổi cảnh quan thúc đẩy sự phân tán của loài người khu vực Palearctic" khám phá cách những thay đổi sâu rộng của khí hậu trong suốt giai đoạn giữa Pleistocene (khoảng 1,25–0,7 triệu năm trước) đã định hình nên cảnh quan của khu vực Âu Á và, ngược lại , định hướng cho  những cuộc di cư đầu tiên của con người.
 
Bước ngoặt trong khí hậu Trái đất và lịch sử loài người
Sự chuyển đổi khí hậu giai đoạn giữa Pleistocene  (MPT) đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong các chu kỳ băng hà của Trái đất, chuyển từ mô hình các kỷ băng hà kéo dài 41.000 năm sang các chu kỳ dài hơn nhiều là 100.000 năm. Sự thay đổi này đã mang lại sự làm mát đáng kể, khô cằn rõ rệt hơn và sự biến đổi của các hệ sinh thái. Những khu rừng trước đây bao phủ phần lớn lục địa Á-Âu đã nhường chỗ cho đồng cỏ rộng mở, sa mạc và đồng bằng đất hoàng thổ (bùn lắng do gió thổi).
Tại sao điều này lại quan trọng đối với quá trình tiến hóa của loài người? Những môi trường sống thay đổi này đặt ra cả thách thức và cơ hội cho con người thời kỳ đầu (hominin). Nghiên cứu nhấn mạnh rằng những áp lực môi trường này có thể đã thúc đẩy tổ tiên của chúng ta khám phá những vùng đất mới, thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt hơn và đổi mới theo những cách sẽ định hình sự sống còn của họ.

EASM và EAWM lần lượt biểu diễn gió mùa mùa hè và mùa đông Đông Á. Các ngôi sao màu đỏ chỉ ra vị trí của các dãy hoàng thổ cuối thế Pliocen từ lưu vực Tarim và Tajikistan. KMD và CHM: Karamaidan (nghiên cứu này) và các phần hoàng thổ Chashmanigar từ phía nam Tajikistan. Các vòng tròn đặc màu đỏ biểu diễn sự phân bố không gian của các hồ sơ đồng vị cacbon được tham chiếu trong văn bản. Các vòng tròn đặc màu xanh biểu diễn sự phân bố không gian của các hồ sơ phấn hoa ở Âu Á. LN: Trầm tích hồ Lop Nor ở lưu vực Tarim. SG-1 và SG-3: Các lõi khoan trầm tích hồ từ phía tây lưu vực Qaidam. JY: Các trầm tích hang động Jinyuan từ bán đảo Liêu Đông. CP và NHW: Trầm tích sông-hồ từ đồng bằng Bắc Kinh và lưu vực Nihewan ở Bắc Trung Quốc. TJ: Lõi Thiên Tân-G3 ở đồng bằng Bắc Trung Quốc. DP02: Lõi khoan sa mạc Badain Jaran. CZ: Trầm tích sông-hồ từ cao nguyên hoàng thổ Trung Quốc (CLP). YY và CN: Các phần đất hoàng thổ Yanyu và Chaona trong CLP. ZG: Các trầm tích hồ từ lưu vực Zoige ở Đông Nam Tây Tạng. TP: Tenaghi Philippon, Hy Lạp
 
Theo dõi cổ khí hậu qua các trầm tích hoàng thổ
Một trong những khía cạnh hấp dẫn nhất của nghiên cứu nằm ở dữ liệu : các phân tích đồng vị carbon có độ phân giải cao từ các trầm tích hoàng thổ ở Trung Á và tây bắc Trung Quốc. Hoàng thổ, về cơ bản là các hạt mịn được gió mang đi, giống như một hộp thời gian cho các điều kiện môi trường cổ.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng khi sự chuyển đổi khí hậu giai đoạn giữa Pleitocene tiến triển, mức đồng vị carbon thay đổi đáng kể, phản ánh  lượng mưa thấp hơn và thảm thực vật mỏng đi. Ở một số khu vực, lượng mưa giảm tới 200 mm. Đây không chỉ là hiện tượng cục bộ; mà là sự tái cấu trúc hệ sinh thái trên toàn lục địa, tạo ra các môi trường sống mở rộng lớn có lợi cho việc di cư.
Các tác giả lưu ý rằng "Dữ liệu đồng vị carbon cho thấy sự thay đổi giữa thời kỳ Pleistocene độc ​​đáo như thế nào trong việc định hình lại thảm thực vật và môi trường sống trên khắp khu vực Âu Á".
 
Cảnh quan định hình hành trình
Cùng với biến đổi khí hậu là những biến đổi địa chất. Các con sông tạo ra các kênh đào sâu hơn, tạo thành các ruộng bậc thang vừa là thách thức vừa là đường sống cho con người thời kỳ đầu. Sự mở rộng của cảnh quan sa mạc-hoàng thổ đã tạo ra các rào cản nhưng cũng là các con đường, dẫn dắt người hominin vào các hành lang di cư cụ thể.
Ví dụ, các vùng sa mạc rộng lớn ở Trung Á, như sa mạc Taklimakan, đã trở thành những nơi cố định trong thời kỳ này. Tuy nhiên, các hệ thống sông như sông Hoàng Hà ở tây bắc Trung Quốc cũng mở rộng, cung cấp nước ngọt và tài nguyên, vốn rất quan trọng cho sự sống còn của con người.
 
 
Đổi mới trước sự thay đổi
Những điều kiện khắc nghiệt của thời kỳ giữa Pleistocene không chỉ liên quan đến sự sống còn mà còn là chất xúc tác cho sự đổi mới. Nghiên cứu này liên kết thời kỳ biến động môi trường này với những tiến bộ công nghệ đáng kể, bao gồm các công cụ Acheulean, đặc trưng bởi rìu cầm tay và các dụng cụ cắt khác. Những công cụ đó phổ biến khắp Âu Á trong thời kỳ này, phản ánh khả năng thích nghi và sự khéo léo của các loài người.
Điều thú vị là bằng chứng khảo cổ học cho thấy sự hiện diện của con người ở một số khu vực nhất định, như Trung Á, tăng lên và giảm đi tùy thuộc vào điều kiện khí hậu. "Cánh cửa cơ hội" do các thời kỳ gian băng mang lại cho phép các loài người di chuyển và định cư tạm thời ở các vùng lãnh thổ mới.
 
 
 Nguồn tham khảo: https://www.anthropology.net/p/how-climate-shaped-early-human-journeys
 Người dich: MT
 
- Tác giả: Viện Khảo cổ học
- Nhà xb: Khoa học xã hội - 2024
- Số trang: 1358tr
- Khổ: 19x27cm
Cuốn sách thông báo các phát hiện mới về khảo cổ học trên toàn quốc trong năm 2023, bao gồm 456 bài viết được chia thành các phần: 10 bài về các hoạt động chung của các cơ quan nghiên cứu khảo cổ Trung ương và địa phương, 75 bài khảo cổ học tiền sử, 54 bài khảo cổ học Sơ sở và Nhà nước sớm, 253 bài khảo cổ học lịch sử, 49 bài khảo cổ học Champa-Óc Eo và 15 bài khảo cổ học dưới nước.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
 
Tác giả: Trương Khởi Chi (Chủ biên)
- Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội
- Năm xb: 2021
- Khổ sách: 16 x 24
- Số trang: 661 trang
Sách Mười lăm bài giảng về Lịch sử Trung Quốc ra đời vào tháng 1 năm 2003, do Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh xuất bản, tới nay đã qua 11 năm. Năm 2014, các chuyên gia chấp bút cho sách này đã bắt đầu công tác bổ sung, sửa chữa, tới trung tuần tháng 6 thì kết thúc. 15 bài giảng bao gồm: 1/ Tìm kiếm một cách khoa học khởi nguồn của văn minh Trung Quốc; 2/ Xã hội cổ đại Trung Quốc và sự thay đổi triều đại; 3/ Nhìn xuyên suốt các đời “thịnh thế” ở thời Hán, Đường, Thanh; 4/ Giao thông của Trung Quốc thời cổ đại và sự truyền bá văn hóa; 5/ Quan hệ dân tộc trong lịch sử Trung Quốc; 6/ Chế độ chính trị, tuyển quan và pháp luật của Trung Quốc thời cổ đại; 7/ Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp của Trung Quốc thời cổ đại; 8/ Tư tưởng quân sự và chế độ quân sự của Trung Quốc thời cổ đại; 9/ Đời sống xã hội phong phú, nhiều màu sắc của Trung Quốc thời cổ đại; 10/ Diễn biến tư tưởng của Trung Quốc thời cổ đại; 11/ Kho báu văn học nghệ thuật của Trung Quốc thời cổ đại; 12/ Sự hình thành và phát triển của sử học Trung Quốc thời cổ đại; 13/ Suy nghĩ về khoa học kỹ thuật của Trung Quốc thời cổ đại; 14/ Những vấn đề mới trong lịch sử Trung Quốc thời cận đại; 15/ Tiến trình theo đuổi sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa đầy gập ghềnh của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
 Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Bài viết giới thiệu kết quả khai quật của Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh bình và Viện Khảo cổ học ở 3 địa điểm cánh đồng Nội Trong, cánh đồng Hang Trâu và vườn chùa Nhất Trụ thuộc Thành Ngoại Hoa Lư, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư với tổng diện tích 900m2. Kết quả khai quật xác định chi tiết hơn không gian phân bố các công trình kiến trúc ở Cấm thành và Hoàng thành Hoa Lư. Các dấu tích khảo cổ ở Nội Trong và Hang Trâu ghi nhận mặt bằng tổng thể Cấm thành Hoa Lư gồm 2 khu vực: Khu trung tâm được nhà Đinh - Lê xây dựng khi lựa chọn nơi đây làm kinh đô mở nước, cũng chính là Khu di tích Cố đô Hoa Lư hiện nay. Khu Hậu cung nằm về phía nam khu trung tâm, là nơi vốn có các kiến trúc thuộc trị sở Trường Châu trước thế kỷ X, sau đó được nhà Đinh - Tiền Lê tiếp tục tái sử dụng (từng phần hoặc lấy vật liệu kiến trúc). Giữa hai khu này ngăn cách với nhau bằng một vườn cây ở thời Đinh, nhưng đến thời Lê thì được chuyển đổi chức năng thành một nền sân đất đắp rộng. Các công trình kiến trúc trong Cấm thành có thể có nhiều hướng khác nhau nhưng đều quy tụ về kiến trúc trung tâm hoặc những trục đường dẫn về kiến trúc trung tâm. Kiến trúc trung tâm (Chính điện) nằm ở giữa Đền Đinh và Đền Lê hiện nay.


(Nguyễn Ngọc Quý và nnk, Khảo cổ học số 2/2024: 28-37)
Champa là một vương quốc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Hindu giáo, phần lớn các thời kỳ lịch sử Champa, Hindu giáo là quốc giáo. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á, Champa cũng tồn tại trạng thái đa tôn giáo. Bên cạnh Hindu giáo, Phật giáo và Hồi giáo cũng có mặt ở vương quốc này. Đáng chú ý, Phật giáo từ Ấn Độ đã xâm nhập khá sớm vào Champa, gắn liền với những năm đầu của thời kỳ lập quốc, đồng hành cùng với quá trình tồn tại, phát triển và suy vong của vương quốc này. Thậm chí trong đầu thời Indrapura (cuối thế kỷ IX – đầu thế kỷ X), Phật giáo Đại Thừa phát triển mạnh mẽ ở Champa và trở thành tôn giáo quan trọng nhất. Chính vì thế, từ trước đến nay, Phật giáo Champa luôn là đề tài khá hấp dẫn với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu chủ yếu đề cập đến Phật giáo toàn Champa, hoặc tập trung vào Phật viện Đồng Dương, chứ chưa chú ý nhiều đến Phật giáo Champa ở cấp độ vùng miền, trong đó có khu vực Quảng Bình, Quang Trị, Thừa Thiên Huế/Bắc Champa, để từ đó có cái nhìn cụ thể, chi tiết, tìm ra những điểm riêng/chung trong quá trình phát triển Phật giáo Champa ở các khu vực khác nhau.
Thông qua các tài liệu khảo cổ có được, bài viết đề cập, đi sâu phân tích, đưa ra các nhận xét về các dấu ấn Phật giáo ở khu vực Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, từ đó rút ra các đặc điểm chủ yếu của Phật giáo Champa ở khu vực này.

(Nguyễn Văn Quảng và nnk, Khảo cổ học số 2/2024: 73-86)
Cuộc khai quật địa điểm Vườn Hồng tại 36 Điện Biên Phủ năm 2012- 2014 đã phát hiện được dấu tích kiến trúc có mặt bằng hình tròn rất độc đáo và quan trọng của thời Lý, hiện di tích này được giữ nguyên trạng tại chỗ và được đặt tên là Di tích kiến trúc tâm linh đặc biệt của các Hoàng đế đầu thời Lý.
Từ phát hiện này, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo quốc tế nhằm xác định tính chất và vị trí của di tích trong tổng thể các di tích thời Lý đã phát hiện được tại khu vực khảo cổ 18 Hoàng Diệu. Qua rà soát tư liệu, có thể đã tồn tại một di tích tương tự tại địa điểm Nhà Quốc hội hiện nay. Tuy nhiên, 2 di tích này có nhiều điểm khác biệt: quy mô, vật liệu xây dựng và nhất là vị trí của di tích trong tổng thể quy hoạch Cấm thành Thăng Long thời Lý.
Thông qua việc nghiên cứu so sánh, phân tích về lịch sử hình thành, cấu trúc di tích tại một số nước khu vực Đông Á: Nhật Bản, Trung Quốc đã đưa đến nhận định, sự có mặt của di tích này là quá trình du nhập kỹ thuật xây dựng kiến trúc "chuyển luân kinh tàng" của Phật giáo với đặc trưng là kết cấu một cột và trục xoay, sau đó phát triển nên các biến thể riêng của Việt Nam như Liên hoa đài, lầu chuông, sân khấu quay.
Giả thuyết các kiến trúc phát hiện tại cụm di tích Khu G là các đăng đài thuộc lễ hội Quảng Chiếu theo ghi chép trên bia Sùng Thiện Diên Ninh đang càng ngày càng được ủng hộ. Tuy nhiên cần có thêm các bằng chứng mới về khảo cổ học trong thời gian tới.

(Phạm Văn Triệu, Phạm Lê Huy, Khảo cổ học số 2/2024: 52-72)
Vương triều Lý (1009-1225) là một thời kỳ quan trọng của Đại Việt trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lý có nhiều sáng tạo văn hóa đặc sắc dựa trên quá trình khởi đầu cho sự phục hưng giá trị văn hóa truyền thống Lạc Việt sau hơn ngàn năm Bắc thuộc và sự tiếp biến các yếu tố văn minh trong khu vực. Triều Lý rất quan tâm phát triển Phật giáo. Ngoài hoạt động sao chép và phổ biến kinh sách, nhà Lý đặc biệt chú trọng việc xây dựng các công trình chùa tháp quy mô lớn. Chùa tháp thời Lý đều không còn kiến trúc trên mặt đất, chỉ còn nền móng dưới lòng đất, nhưng phần lớn là di sản quý của dân tộc như Tường Long, Phật Tích, Cảnh Long Đồng Khánh, Bảo Ninh Sùng Phúc, Vạn Phong Thành Thiện, Sùng Phúc, Sùng Nghiêm Diên Thánh, Sùng Thiện Diên Linh, Linh Xứng…
Di tích chùa tháp thời Lý là một loại hình di sản hỗn hợp, bao gồm cả vật thể và phi vật thể, có cả giá trị lịch sử nghệ thuật kiến trúc và giá trị văn hóa tôn giáo tín ngưỡng. Chúng không chỉ thể hiện đặc trưng văn hóa tiêu biểu của vương triều Lý, mà còn cho thấy sức sống trường tồn qua lịch sử cũng như trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng hiện nay. Nhiều di sản chùa tháp thời Lý đang phát huy giá trị trong đời sống văn hóa, chính trị, xã hội và kinh tế ở nhiều địa phương thuộc miền Bắc Việt Nam. Cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hóa và kinh tế du lịch văn hóa Phật giáo ba thập kỷ trở lại đây, di sản chùa tháp thời Lý đang chịu tác động đa chiều. Hiện trạng đó đặt ra một số vấn đề về giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản quý báu này của dân tộc. Bài viết này xuất phát từ hai vấn đề trữ lượng di tích và hiện trạng di sản chùa tháp thời Lý để đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy cho giai đoạn hiện nay.

Đề xuất quy trình chuyên môn bảo tồn và phục hồi di tích
(Nguồn: Đặng Hồng Sơn)

(Đặng Hồng Sơn, Hoàng Văn Khoán, Nguyễn Văn Anh, Khảo cổ học số 1/2024: 42-63).
Chùa Hồ Bấc tên chữ Phúc Chủ tự, nằm trên dãy Huyền Đinh – Yên Tử, thuộc xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Tọa lạc tại trên đỉnh núi cao, xung quanh địa điểm chùa Hồ Bấc có nhiều núi cao và vực sâu bao quanh. Chính những yếu tố đó đã tạo cho địa điểm chùa Hồ Bấc không gian tĩnh mịch.
Kết quả khai quật bước đầu đã xác định chùa Hồ Bấc được khởi dựng từ thời Trần, được trùng tu tôn tạo mở rộng vào thời Lê trung hưng và tiếp tục tồn tại đến thời Nguyễn. Kết quả khai quật đã đóng góp mới cho nhận thức về khu vực Tây Yên Tử trong lịch sử. Cung cấp những tư liệu chân xác bù đắp những thiếu hụt về tư liệu giúp làm rõ diễn biến hình thành và tồn tại của địa điểm chùa Hồ Bấc. Chùa Hồ Bấc có một vị trí rất quan trọng trên hệ thống các chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử trên dãy Huyền Đinh – Yên Tử, đây được coi là điểm trung chuyển của 2 tuyến đường hành hương lên đỉnh Yên Tử: Tuyến đường phía Tây đi từ chùa Vĩnh Nghiêm và tuyến đường phía Đông đi từ chùa Thanh mai. Cả 2 tuyến này đều gặp nhau ở chùa Hồ Bấc, điều đó cho thấy, trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là thời Trần, chùa Hồ Bấc đảm đương vị trí quan trọng bậc nhất trong tổng thể hệ thống các chùa thời Trần trên dãy Yên Tử.

Di vật tại chùa Hồ Bấc (Nguồn: Thân Văn Tiệp)

(Thân Văn Tiệp, Khảo cổ học số 1/2024: 64-77).
Quảng Ngãi là một khu vực có vị trí khá quan trọng trên con đường thương mại qua biển Đông từ Trung Quốc, Nhật Bản tới các quốc gia Đông Nam Á, từ đó đi xa hơn tới Ấn Độ, Tây Á. Tại đây, cho đến nay, đã phát hiện được thuyền Châu Tân có niên đại thế kỷ VIII-IX, thuyền Bình Châu niên đại thế kỷ XIII-XIV. Bên cạnh đó, khu vực này cũng phát hiện được hai neo thuyền mang phong cách Ả Rập niên đại thế kỷ thứ VII-VIII, 1 neo thuyền mang phong cách Đông Nam Á niên đại thế kỷ XVIII-XIX và nhiều đồ gốm sứ có niên đại thời Đường, Minh, Thanh. Đây là nguồn tư liệu quý góp phần nghiên cứu lịch sử hàng hải, lịch sử gốm sứ, mối quan hệ ngoại thương, vai trò của miền Trung Việt Nam trong tuyến thương mại qua Biển Đông thời cổ... Một địa điểm được xem có tính chất cảng thị cần thỏa mãn nhiều yếu tố. Với nguồn tư liệu hiện nay, có lẽ còn chưa đủ cơ sở chắc chắn, rõ ràng để khẳng định vụng biển Bình Châu, Quảng Ngãi đã phát triển thành một thương cảng hay đơn thuần chỉ là một bến đỗ. Quan điểm xem vụng biển này là một cảng cổ nên được xem như giả thuyết nghiên cứu cần được kiểm chứng.

Di vật thuyền Tân Châu (Nguồn: Bùi Văn Hiếu)

(Bùi Văn Hiếu, Khảo cổ học số 1/2024: 78-91)

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9903039
Số người đang online: 9