Một nhóm nghiên cứu từ Khoa Tiền sử, Khảo cổ học và Lịch sử Cổ đại của Đại học Valencia lần đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích các nguyên tố đất hiếm để tìm ra hoạt động của con người trong một hang động thời tiền sử. Thông qua việc phân tích các địa tầng khảo cổ, bằng các phương pháp hóa học, người ta có thể giải thích được sự chiếm cư và sử dụng Hang Cocina (Dos Aguas). Trước đây, nhóm Hoá Khảo cổ đã thử nghiệm phương pháp này trong các trầm tích ở Ethiopia hoặc Tanzania.
Nguồn (Đại học Valencia, Tây Ban Nha)
Các nguyên tố đất hiếm là các nguyên tố hóa học phổ biến trong vỏ trái đất có tầm quan trọng như một nguồn tài nguyên chiến lược ngày càng tăng trong những năm gần đây, vì chúng rất cần thiết cho sự phát triển của công nghệ mới. Gianni Gallello, chủ nhiệm công trình, chuyên về phân tích việc sử dụng các loại đất hiếm như một chỉ số cho hoạt động của con người.
Một nhóm nghiên cứu đa ngành do Gallello dẫn đầu, bao gồm các nhà nghiên cứu từ Khoa Tiền sử, Khảo cổ học và Lịch sử Cổ đại, Khoa Hóa Khảo cổ (ArchaeChemis), cùng với các chuyên gia từ Cơ quan Khảo sát Địa chất Anh và Đại học California (Santa Barbara), lần đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích các nguyên tố này để nghiên cứu hoạt động của con người ở một địa điểm thời tiền sử.
Gallello giải thích: “Để xác định những nguyên tố này, quang phổ khối được sử dụng từ các mẫu trầm tích khảo cổ, được phân huỷ bằng dung dịch axit, sau đó có thể nghiên cứu tỷ lệ và nồng độ của chúng”. Phân tích này trên các trầm tích khảo cổ đã được phát triển trong khuôn khổ của đơn vị đa ngành Hoá Khảo cổ trong suốt 10 năm qua và đã được thử nghiệm ở Ethiopia, Tanzania hoặc Vall del Serpis (Alicante).
Nghiên cứu trên được xuất bản trên Boreas, một trong những tạp chí khoa học quốc tế quan trọng nhất trong nghiên cứu Đệ tứ, đề cập đến thông tin về một địa điểm thời tiền sử, Hang Cocina (Dos Aguas), được khai quật gần đây bởi Đại học Valencia và SIP (Bảo tàng Tiền sử của Valencia) dưới sự chỉ đạo của Oreto Garcia Puchol, Sarah McClure và Joaquim Juan Cabanilles. Sự có mặt trong một thời gian dài của con người (8.500 - 4.000 năm trước Công nguyên) chủ yếu bao gồm bằng chứng về các hoạt động liên quan đến săn bắn, hái lượm và chăn nuôi gia súc.
Gianni Gallello, Đại học York cho biết:
“Trong nghiên cứu này, các yếu tố đất hiếm và thông tin địa tầng đã được sử dụng cùng với các mốc đánh dấu khảo cổ khác. Do đó, nồng độ và tỷ lệ của các nguyên tố này rất phù hợp với cách giải thích của khảo cổ học. Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các vùng đất có thể rất hữu ích trong việc xác định xem liệu sự hình thành của đất hoặc các địa tầng khảo cổ có liên quan đến các quá trình tự nhiên hay các hoạt động của con người hay không ”.
Nguồn tham khảo:
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/05/chemical-analysis-of-rare-soils-used-to.html
Người dịch: Minh Trần
Nguồn (Đại học Valencia, Tây Ban Nha)
Các nguyên tố đất hiếm là các nguyên tố hóa học phổ biến trong vỏ trái đất có tầm quan trọng như một nguồn tài nguyên chiến lược ngày càng tăng trong những năm gần đây, vì chúng rất cần thiết cho sự phát triển của công nghệ mới. Gianni Gallello, chủ nhiệm công trình, chuyên về phân tích việc sử dụng các loại đất hiếm như một chỉ số cho hoạt động của con người.
Một nhóm nghiên cứu đa ngành do Gallello dẫn đầu, bao gồm các nhà nghiên cứu từ Khoa Tiền sử, Khảo cổ học và Lịch sử Cổ đại, Khoa Hóa Khảo cổ (ArchaeChemis), cùng với các chuyên gia từ Cơ quan Khảo sát Địa chất Anh và Đại học California (Santa Barbara), lần đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích các nguyên tố này để nghiên cứu hoạt động của con người ở một địa điểm thời tiền sử.
Gallello giải thích: “Để xác định những nguyên tố này, quang phổ khối được sử dụng từ các mẫu trầm tích khảo cổ, được phân huỷ bằng dung dịch axit, sau đó có thể nghiên cứu tỷ lệ và nồng độ của chúng”. Phân tích này trên các trầm tích khảo cổ đã được phát triển trong khuôn khổ của đơn vị đa ngành Hoá Khảo cổ trong suốt 10 năm qua và đã được thử nghiệm ở Ethiopia, Tanzania hoặc Vall del Serpis (Alicante).
Nghiên cứu trên được xuất bản trên Boreas, một trong những tạp chí khoa học quốc tế quan trọng nhất trong nghiên cứu Đệ tứ, đề cập đến thông tin về một địa điểm thời tiền sử, Hang Cocina (Dos Aguas), được khai quật gần đây bởi Đại học Valencia và SIP (Bảo tàng Tiền sử của Valencia) dưới sự chỉ đạo của Oreto Garcia Puchol, Sarah McClure và Joaquim Juan Cabanilles. Sự có mặt trong một thời gian dài của con người (8.500 - 4.000 năm trước Công nguyên) chủ yếu bao gồm bằng chứng về các hoạt động liên quan đến săn bắn, hái lượm và chăn nuôi gia súc.
Gianni Gallello, Đại học York cho biết:
“Trong nghiên cứu này, các yếu tố đất hiếm và thông tin địa tầng đã được sử dụng cùng với các mốc đánh dấu khảo cổ khác. Do đó, nồng độ và tỷ lệ của các nguyên tố này rất phù hợp với cách giải thích của khảo cổ học. Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các vùng đất có thể rất hữu ích trong việc xác định xem liệu sự hình thành của đất hoặc các địa tầng khảo cổ có liên quan đến các quá trình tự nhiên hay các hoạt động của con người hay không ”.
Nguồn tham khảo:
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/05/chemical-analysis-of-rare-soils-used-to.html
Người dịch: Minh Trần
Địa điểm khai quật Grotta La Sassa - Angelica Ferracci. (Nguồn: Đại học Tartu).
Một nghiên cứu mới trên tạp chí Current Biology từ Viện Di truyền của Đại học Tartu, Estonia đã làm sáng tỏ về tiền sử di truyền của các quần thể dân số hiện đại ở Ý thông qua việc phân tích các di cốt người cổ trong quá trình chuyển tiếp từ thời kì đồ Đá sang đồ Đồng khoảng 4.000 năm trước. Việc phân tích bộ gen của các mẫu cổ đã cho phép các nhà nghiên cứu Estonia, Ý và Anh xác định được sự xuất hiện của thành phần tổ tiên có liên quan đến Thảo nguyên cách đây 3.600 năm ở miền Trung Ý, đồng thời phát hiện ra những thay đổi trong tục mai táng và cấu trúc họ hàng trong quá trình chuyển tiếp này.
Trong những năm gần đây, lịch sử di truyền của người cổ đã được nghiên cứu rộng rãi, tập trung vào các cuộc di cư và định cư của con người xung quanh khu vực Âu-Á. Tuy nhiên, lịch sử di truyền của các cư dân cổ từ Bán đảo Ý trong quá trình chuyển tiếp từ thời kỳ đồ Đá sang đồ Đồng vào khoảng 4.000 năm trước vẫn chưa được làm rõ. Các nhà nghiên cứu từ Viện Di truyền của Đại học Tartu phối hợp với các trường đại học ở Ý và Anh đã thu thập các di cốt người từ Bán đảo Ý và tạo ra các bộ gen cổ trong phòng thí nghiệm ADN cổ tại Đại học Tartu, Estonia.
Tina Saupe từ Viện Genomics, tác giả chính của nghiên cứu cho biết:
"Đối với nghiên cứu, chúng tôi đã trích xuất ADN cổ của 50 cá thể thuộc 4 địa điểm khảo cổ nằm ở khu vực Đông Bắc và Trung Ý có niên đại thuộc thời kỳ đồ hậu kì Đá mới , sơ kỳ đồ đồng và thời đại đồ đồng. Chúng tôi có thể tạo ra số liệu gen súng bắn gen toàn bộ hệ gen đầu tiên của người Ý cổ giai đoạn đồ Đồng và nghiên cứu sự xuất hiện của thành phần tổ tiên có liên quan đến Thảo nguyên ở Bán đảo Ý.
Thành phần di truyền này, cuối cùng tìm ra nguồn gốc của nó ở Thảo nguyên Pontic-Caspian, một vùng đất nằm giữa Biển Đen và Biển Caspi, và rất phổ biến ở Trung và Bắc Âu. Nó cũng xuất hiện ở những cư dân Ý thời kỳ đồ Đồng mà chúng tôi đã xem xét kỹ lưỡng và cho rằng các quần thể ở phía nam của dãy Alps đã trải qua một quá trình tiến hóa tương tự ".
Để phân tích di truyền, chúng tôi đã sử dụng một tập dữ liệu tham khảo bao gồm các cá thể từ Bán đảo Ý, Sicily và Sardinia có niên đại từ thời kỳ đồ Đá mới đến thời kỳ đồ Sắt. Chúng tôi quyết định nghiên cứu toàn bộ bộ gen mới với dữ liệu có sẵn để có cái nhìn sâu sắc hơn về những thay đổi di truyền và dân số học của quá trình chuyển tiếp quan trọng này, nhưng cũng để hiểu tác động của nó trong những thế kỷ tiếp theo ", đồng tác giả Francesco Montinaro từ cùng một tổ chức và từ Đại học Bari, Ý. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các mẫu có niên đại thuộc thời kỳ đồ Đá mới và thời kỳ đồ chuyển tiếp từ Đá sang Đồng, ở Bán đảo Ý giống với nông dân sơ kì đồ Đá mới ở Đông Âu và Anatoli hơn là với nông dân Tây Âu, điều này mở ra khả năng những lịch sử khác nhau cho hai nhóm người thời kì Đá mới ở Châu Âu.
Bản đồ - Eugenio Israel Chávez Barreto. Nguồn: (Eugenio Israel Chávez Barreto)
Luca Pagani, Phó giáo sư Viện Di truyền và Đại học Padova- đồng tác giả cao cấp của công trình này chỉ ra:
“Do sự phân bố địa lý của các địa điểm khảo cổ của các bộ gen mới được mới được tạo ra và được công bố, chúng tôi có thể xác định niên đại của sự xuất hiện của thành phần tổ tiên liên quan đến Thảo nguyên ít nhất ~ 4.000 năm trước ở Bắc Ý và ~ 3.600 năm trước ở Trung Ý. Chúng tôi không tìm thấy thành phần trong các cá thể có niên đại từ thời kỳ đồ đá mới và đồ đá cũ, nhưng ở các cá thể có từ thời kỳ Đồ Đồng sớm và tăng dần theo thời gian ở các cá thể có từ thời đại Đồ Đồng."
Christiana L. Scheib, trưởng nhóm nghiên cứu ADN cổ tại Viện Di truyền và là tác giả chính cho biết: “Ngoài ra, chúng tôi có thể tìm thấy thay đổi trong phương thức mai táng tương quan với sự thay đổi mối quan hệ giữa các cá thể ở hai trong các địa điểm này, nhưng chúng tôi không tìm thấy bất kỳ thay đổi nào về kiểu hình của người Ý cổ trong quá trình chuyển tiếp này".
Cristian Capelli (Đại học Parma), đồng tác giả của nghiên cứu này cho biết:
“Thật đáng chú ý khi thấy dự án này phát triển theo thời gian và cách giải thích kết quả thay đổi như thế nào khi các mẫu từ miền Trung nước Ý được thêm vào nhờ sự hợp tác với các trường đại học Oxford, Durham, Groningen và Rome Tor Vergata”.
Scheib nói:
“Những kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra rằng cấu trúc di truyền của các cư dân cổ từ Bán đảo Ý đã thay đổi theo sự di chuyển và định cư của con người kể từ thời Đá mới. Kiến thức này khai sáng về nguồn gốc di truyền của loài người và cho phép lập kế hoạch cho các nghiên cứu sâu hơn bao gồm việc lấy mẫu nhiều hơn về các cá thể từ thời kỳ đồ Sắt và đế chế La Mã, "
group and le N của chúng tôi và cho phép lập kế hoạch cho các nghiên cứu sâu hơn bao gồm việc lấy mẫu dày đặc hơn các cá thể có từ thời kỳ đồ sắt và đế chế La Mã, "Scheib nói. hững kết quả của nghiên cứu này đã chỉ ra rằng cấu trúc di truyền của các cá thể cổ đại từ Bán đảo Ý đã thay đổi theo sự di chuyển và định cư của con người kể từ thời đồ đá mới. Kiến thức này khai sáng cho chúng tôi về nguồn gốc di truyền của chúng tôi và cho phép lập kế hoạch cho các nghiên cứu sâu hơn bao gồm việc lấy mẫu dày đặc hơn các cá thể có từ thời kỳ đồ sắt và đế chế La Mã, "Scheib nói. ading Những kết quả của nghiên cứu này đã chỉ ra rằng cấu trúc di truyền của các cá thể cổ đại từ Bán đảo Ý
Người dịch: Minh Tran
Nguồn tham khảo:
https://phys.org/news/2021-05-bronze-age-migrations-societal-genomic.html
Làm thế nào những người sống trong thời kỳ Đồ Đồng quản lý tài chính của họ trước khi tiền trở nên phổ biến? Các nhà nghiên cứu từ Đại học Gottingen và Rome đã phát hiện rằng các phế liệu đồng được tìm thấy trong các kho chứa ở châu Âu được lưu hành như một loại tiền tệ. Những mảnh phế liệu này - bao gồm kiếm, rìu và đồ trang sức bị vỡ thành nhiều mảnh - được sử dụng làm tiền mặt vào cuối thời kỳ Đồ Đồng (1350-800 trước Công nguyên) và trên thực tế tuân theo một hệ thống trọng lượng được sử dụng trên khắp châu Âu. Nghiên cứu này cho thấy điều này rất giống với 'thị trường toàn cầu' của chúng ta đã phát triển trên khắp khu vực Tây Âu – Á từ việc người dân thường sử dụng phế liệu hàng ngày để thay tiền mặt khoảng 1000 năm trước khi bắt đầu các nền văn minh cổ điển. Kết quả đã được công bố trên Tạp chí Khoa học Khảo cổ học.
Tiền thời kỳ Đồ Đồng trên khắp châu Âu: Những mảnh vụn kim loại từ 'túi lính' của
Chiến trường cuối thời đại Đồ Đồng ở Thung lũng Tollensee, Mecklenburg-Vorpommern
[Nguồn: Volker Minkus, bản quyền Thomas Terberger]
Nghiên cứu này đã phân tích khoảng 2.500 hiện vật và mảnh vỡ bằng kim loại trong số hàng nghìn kho chứa mảnh vỡ từ cuối thời kỳ Đồ Đồng, theo thời gian, đã được khai quật ở Trung Âu và Ý. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một kỹ thuật thống kê có thể xác định xem một mẫu phép đo có phải là do một hệ thống cơ bản hay không. Ví dụ, kỹ thuật này có thể phát hiện, nếu các đối tượng được phân tích là bội số của một đơn vị trọng lượng.
Phân tích của các nhà nghiên cứu cung cấp kết quả rất quan trọng đối với các mảnh vỡ và các phế liệu, có nghĩa là những vật thể kim loại này được cố ý phân mảnh để đáp ứng trọng lượng định trước. Các phân tích xác nhận rằng đơn vị trọng lượng quy định khối lượng của kim loại là cùng một đơn vị được biểu thị trong các quả cân của châu Âu cùng thời kỳ. Các nhà nghiên cứu kết luận những mảnh vụn này được sử dụng làm tiền, và việc phân mảnh các đồ vật bằng đồng nhằm mục đích thu được 'tiền lẻ' hoặc tiền mặt.
Phân tích toán học về các quả cân (như quả cân thời kỳ Đồ Đồng ở miền nam nước Ý
hiển thị ở đây) và phế liệu kim loại ở Ý và Trung Âu cho thấy rằng đơn vị trọng lượng (shekel)
phù hợp với trọng lượng của phế liệu kim loại. Điều này cho thấy rằng chúng đã được sử dụng như một
tiền tệ trên toàn châu Âu. (thang chia độ = 3 cm) [Nguồn:: N Ialongo]
Thương mại thời tiền sử thường được hình dung như một hệ thống nguyên thủy dựa trên trao đổi hàng hóa và tặng phẩm, với tiền xuất hiện như một loại cột mốc tiến hóa trong quá trình hình thành các xã hội nhà nước phương Tây. Nghiên cứu thách thức quan điểm này bằng cách đưa ra khái niệm: tiền là một quy ước từ dưới lên chứ không phải là một quy định từ trên xuống.
Trong thời đại Đồ Đồng ở khu vực Tây Âu – Á, tiền xuất hiện trong bối cảnh chính trị - xã hội, trong đó các thể chế công không tồn tại (như trường hợp ở châu Âu) hoặc không quan tâm đến việc thực thi bất kỳ loại chính sách tiền tệ nào (như ở Lưỡng Hà). Trên thực tế, tiền đã phổ biến và được sử dụng như nhu cầu cơ bản hàng ngày ở mọi tầng lớp dân cư.
Bản đồ cho thấy sự lan rộng của công nghệ cân ở Châu Âu thời kỳ Đồ Đồng (khoảng 2300-800 trước Công nguyên). [Nguồn: : N Ialongo]
Sự lan rộng của việc sử dụng phế liệu kim loại để làm tiền mặt đã xảy ra trong bối cảnh hình thành thị trường toàn cầu ở khu vực Tây Âu - Á. Tiến sĩ Nicola Ialongo, Viện Tiền sử và Sơ Sử của Đại học Gottingen giải thích: “Không có gì là 'nguyên thủy' trước tiền thân của tiền đúc, vì tiền trước tiền xu thực hiện các chức năng giống hệt như tiền hiện đại.”
Ialongo cho biết thêm, "Việc sử dụng những phế liệu kim loại này không phải là một sự phát triển bất ngờ, vì có khả năng hàng hóa dễ hỏng đã được sử dụng làm tiền tệ từ rất lâu trước khi phát hiện ra luyện kim, nhưng bước ngoặt thực sự là sự phát minh ra công nghệ cân ở khu vực Cận Đông vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, điều này cung cấp mục tiêu có nghĩa là để định lượng giá trị kinh tế của mọi thứ và dịch vụ, hay nói cách khác là ấn định giá cả cho chúng. "
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo: Source: University of Gottingen [May 06, 2021]
https://archaeologynewsnetwork.blogspot.com/2021/05/scrap-for-cash-before-coins.html
Chuyên gia tiến hóa Charles Darwin và những nhà nghiên cứu khác đã nhận ra mối quan hệ tiến hóa chặt chẽ giữa con người, tinh tinh và khỉ đột dựa trên các đặc điểm giải phẫu chung của chúng, đặt ra một số câu hỏi lớn: con người có mối quan hệ như thế nào với các loài linh trưởng khác, và chính xác những người cổ đầu tiên đã di chuyển như thế nào? Nghiên cứu bởi các giáo sư Đại họcTexas A&M có thể cung cấp một số câu trả lời.
Các mảnh xương của Ardi (Nguồn: Wiki Commons)
Thomas Cody Prang, trợ lí giáo sư nhân chủng học, và các đồng nghiệp đã nghiên cứu bộ xương của Ardipithecus ramidus ('Ardi'), có niên đại 4,4 triệu năm tuổi được tìm thấy ở Ethiopia. Một trong các xương bàn tay của Ardi được bảo quản đặc biệt tốt.
Các nhà nghiên cứu đã so sánh hình dạng bàn tay của Ardi với hàng trăm mẫu vật bàn tay khác đại diện cho người, vượn và khỉ gần đây (được đo đạc từ các di cốt trong các bộ sưu tập bảo tàng trên khắp thế giới) để so sánh về loại hành vi vận động được sử dụng bởi các hominin sớm nhất (các hoá thạch của họ người).
Kết quả cung cấp các thông tin về cách những người cổ đầu tiên bắt đầu đi thẳng và thực hiện các chuyển động tương tự mà tất cả người hiện đại thực hiện ngày nay.
Prang cho biết: "Hình dạng xương phản ánh sự thích nghi với các thói quen hoặc lối sống cụ thể - ví dụ như sự di chuyển của các loài linh trưởng - và bằng cách vẽ các mối liên hệ giữa hình dạng xương và hành vi giữa các dạng sống, chúng ta có thể đưa ra suy luận về hành vi của các loài đã tuyệt chủng, chẳng hạn như Ardi, mà chúng ta khổng thể" trực tiếp quan sát.
"Ngoài ra, chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng cho một 'bước nhảy' tiến hóa lớn giữa kiểu bàn tay đại diện cho Ardi và tất cả các bàn tay của hominin sau này, bao gồm cả bàn tay của loài Lucy (Bộ xương nổi tiếng 3,2 triệu năm tuổi trong tình trạng bảo quản tốt được tìm thấy ở cùng khu vực vào những năm 1970). 'Bước nhảy tiến hóa' này xảy ra vào thời điểm quan trọng khi hominin đang tiến hóa thích nghi với hình thức đi thẳng giống con người hơn và là bằng chứng sớm nhất cho việc chế tạo và sử dụng công cụ đá của hominin, chẳng hạn như các vết cắt trên hóa thạch động vật, được phát hiện. "
Prang cho biết việc Ardi đại diện cho giai đoạn sớm hơn của lịch sử tiến hóa loài người là rất quan trọng vì nó có khả năng làm rõ về loại tổ tiên mà con người và tinh tinh tiến hóa từ đó.
"Nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ một ý tưởng cổ điển được đề xuất đầu tiên bởi Charles Darwin vào năm 1871, khi ông không có các hóa thạch hoặc chưa có đầy đủ hiểu biết về di truyền học đó là việc sử dụng bàn tay và các chi trên để chế tác đã xuất hiện ở những loài họ hàng đầu tiên của con người liên quan đến việc đi thẳng". . "Sự tiến hóa của bàn tay và bàn chân của con người có lẽ đã xảy ra theo một kiểu tương quan."
Vì Ardi là một loài cổ như vậy, nó có thể vẫn giữ được các đặc điểm về bộ xương từng có ở tổ tiên chung cuối cùng của con người và tinh tinh. Nếu điều này là đúng, nó có thể giúp các nhà nghiên cứu làm rõ hơn nguồn gốc của họ hàng loài người cũng như việc đi thẳng.
Prang nói: “ Điều này có khả năng đưa chúng ta tiến gần hơn một bước để giải thích về cách thức và lý do con người phát triển hình thức đi thẳng như thế nào”.
Hình. Sự tiến hóa của bàn tay và bàn chân hominin phản ánh sự thay đổi tiến hóa tương ứng theo hướng nâng cao khả năng thao tác và bắt buộc đi bằng hai chân (Nguồn:Thomas C. Prang, 2021)
Ông cho biết thêm: sự thay đổi lớn trong giải phẫu bàn tay giữa Ardi và tất cả các hominin sau này xảy ra vào một thời điểm, khoảng từ 4,4 đến 3,3 triệu năm trước, trùng với bằng chứng sớm nhất về việc mất ngón chân cái cầm nắm được trong quá trình tiến hóa của loài người. Điều này cũng trùng hợp với các công cụ đá sớm nhất được biết đến và các hóa thạch động vật có dấu vết cắt bằng đá để lại trên xương.
Ông cũng cho biết nó dường như đánh dấu một sự thay đổi lớn trong lối sống và hành vi của những loài họ hàng người trong khung thời gian này.
“Chúng tôi đề xuất rằng nó liên quan nhiều hơn đến sự tiến hoá về đi thẳng, cái mà làm bàn tay con người bị biến đổi bởi quá trình tiến hóa để nâng cao thao tác thủ công, có thể liên quan đến công cụ đá. Nghiên cứu được xuất bản trên tạp chí Science Advances (25/2/2021).
Người dịch: Minh Trần
Tài liệu tham khảo:
Các mảnh xương của Ardi (Nguồn: Wiki Commons)
Thomas Cody Prang, trợ lí giáo sư nhân chủng học, và các đồng nghiệp đã nghiên cứu bộ xương của Ardipithecus ramidus ('Ardi'), có niên đại 4,4 triệu năm tuổi được tìm thấy ở Ethiopia. Một trong các xương bàn tay của Ardi được bảo quản đặc biệt tốt.
Các nhà nghiên cứu đã so sánh hình dạng bàn tay của Ardi với hàng trăm mẫu vật bàn tay khác đại diện cho người, vượn và khỉ gần đây (được đo đạc từ các di cốt trong các bộ sưu tập bảo tàng trên khắp thế giới) để so sánh về loại hành vi vận động được sử dụng bởi các hominin sớm nhất (các hoá thạch của họ người).
Kết quả cung cấp các thông tin về cách những người cổ đầu tiên bắt đầu đi thẳng và thực hiện các chuyển động tương tự mà tất cả người hiện đại thực hiện ngày nay.
Prang cho biết: "Hình dạng xương phản ánh sự thích nghi với các thói quen hoặc lối sống cụ thể - ví dụ như sự di chuyển của các loài linh trưởng - và bằng cách vẽ các mối liên hệ giữa hình dạng xương và hành vi giữa các dạng sống, chúng ta có thể đưa ra suy luận về hành vi của các loài đã tuyệt chủng, chẳng hạn như Ardi, mà chúng ta khổng thể" trực tiếp quan sát.
"Ngoài ra, chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng cho một 'bước nhảy' tiến hóa lớn giữa kiểu bàn tay đại diện cho Ardi và tất cả các bàn tay của hominin sau này, bao gồm cả bàn tay của loài Lucy (Bộ xương nổi tiếng 3,2 triệu năm tuổi trong tình trạng bảo quản tốt được tìm thấy ở cùng khu vực vào những năm 1970). 'Bước nhảy tiến hóa' này xảy ra vào thời điểm quan trọng khi hominin đang tiến hóa thích nghi với hình thức đi thẳng giống con người hơn và là bằng chứng sớm nhất cho việc chế tạo và sử dụng công cụ đá của hominin, chẳng hạn như các vết cắt trên hóa thạch động vật, được phát hiện. "
Prang cho biết việc Ardi đại diện cho giai đoạn sớm hơn của lịch sử tiến hóa loài người là rất quan trọng vì nó có khả năng làm rõ về loại tổ tiên mà con người và tinh tinh tiến hóa từ đó.
"Nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ một ý tưởng cổ điển được đề xuất đầu tiên bởi Charles Darwin vào năm 1871, khi ông không có các hóa thạch hoặc chưa có đầy đủ hiểu biết về di truyền học đó là việc sử dụng bàn tay và các chi trên để chế tác đã xuất hiện ở những loài họ hàng đầu tiên của con người liên quan đến việc đi thẳng". . "Sự tiến hóa của bàn tay và bàn chân của con người có lẽ đã xảy ra theo một kiểu tương quan."
Vì Ardi là một loài cổ như vậy, nó có thể vẫn giữ được các đặc điểm về bộ xương từng có ở tổ tiên chung cuối cùng của con người và tinh tinh. Nếu điều này là đúng, nó có thể giúp các nhà nghiên cứu làm rõ hơn nguồn gốc của họ hàng loài người cũng như việc đi thẳng.
Prang nói: “ Điều này có khả năng đưa chúng ta tiến gần hơn một bước để giải thích về cách thức và lý do con người phát triển hình thức đi thẳng như thế nào”.
Hình. Sự tiến hóa của bàn tay và bàn chân hominin phản ánh sự thay đổi tiến hóa tương ứng theo hướng nâng cao khả năng thao tác và bắt buộc đi bằng hai chân (Nguồn:Thomas C. Prang, 2021)
Ông cho biết thêm: sự thay đổi lớn trong giải phẫu bàn tay giữa Ardi và tất cả các hominin sau này xảy ra vào một thời điểm, khoảng từ 4,4 đến 3,3 triệu năm trước, trùng với bằng chứng sớm nhất về việc mất ngón chân cái cầm nắm được trong quá trình tiến hóa của loài người. Điều này cũng trùng hợp với các công cụ đá sớm nhất được biết đến và các hóa thạch động vật có dấu vết cắt bằng đá để lại trên xương.
Ông cũng cho biết nó dường như đánh dấu một sự thay đổi lớn trong lối sống và hành vi của những loài họ hàng người trong khung thời gian này.
“Chúng tôi đề xuất rằng nó liên quan nhiều hơn đến sự tiến hoá về đi thẳng, cái mà làm bàn tay con người bị biến đổi bởi quá trình tiến hóa để nâng cao thao tác thủ công, có thể liên quan đến công cụ đá. Nghiên cứu được xuất bản trên tạp chí Science Advances (25/2/2021).
Người dịch: Minh Trần
Tài liệu tham khảo:
1.https://phys.org/news/2021-02-million-year-old-skeleton-reveal-early-humans.html
2. Thomas C. Prang et al, Ardipithecus hand provides evidence that humans and chimpanzees evolved from an ancestor with suspensory adaptations, Science Advances (2021). DOI: 10.1126/sciadv.abf2474Bản đồ thể hiện sự phát triển của Thành phố Oxford từ Thế kỷ 8 đến khoảng năm 1292, với khu Do Thái được hiển thị bằng màu xanh lam (Nguồn: Pam Manix)
Một nhóm các nhà khoa học, dẫn đầu bởi Đại học Bristol, cùng các nhà khảo cổ học từ trung tâm Khảo cổ học Oxford đã tìm thấy bằng chứng đầu tiên về một chế độ ăn kiêng tôn giáo được tiết lộ trong các mảnh gốm khai quật từ cộng đồng người Do Thái giai đoạn đầu thời trung cổ ở Oxford.
Chế độ ăn kiêng kosher là một trong những chế độ ăn kiêng lâu đời nhất được biết đến trên toàn thế giới và đối với một người Do Thái tinh ý, việc duy trì những luật ăn kiêng này (được gọi là Kashruth) là một phần cơ bản của cuộc sống hàng ngày. Đó là yếu tố quan trọng để xác định họ là người Do Thái, cả trong cộng đồng của họ và với thế giới bên ngoài.
Khu phố Do Thái của Oxford được thành lập quanh phố St. Aldates vào thế kỷ 12 và 13, sau lời mời của Tướng William đối với những người Do Thái ở miền Bắc nước Pháp đến định cư ở Anh. Cuộc khai quật gần đây thực hiện bởi trung tâm Khảo cổ Oxford tại St Aldates thuộc tâm điểm lịch sử của Oxford, đã tiết lộ bằng chứng về hai ngôi nhà, mà điều tra dân số thời Trung cổ cho rằng thuộc về hai gia đình Do Thái. Một chiếc thuộc sở hữu của Jacob f. mag. Moses hay còn gọi là Jacob's Hall - một trong những ngôi nhà tư nhân lớn nhất ở Oxford, ngôi nhà còn lại thuộc sở hữu của Elekin f. Bassina.
Trong quá trình khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện một công trình xây dựng bằng đá, được xác định là nhà vệ sinh có niên đại vào cuối thế kỷ 11 và 12. Bộ sưu tập lớn xương động vật đáng chú ý đã xuất lộ trong khu vực khai quật nhà vệ sinh này, chủ yếu là gia cầm được thuần hoá (phần lớn là ngỗng), và hoàn toàn không có xương lợn, điều này ám chỉ một chế độ ăn kiêng. Xương cá chỉ bao gồm các loài như cá trích – đó là loài dành cho chế độ ăn kiêng kosher. Tổ hợp các loài này cho thấy một dấu hiệu chế độ ăn kiêng của người Do Thái, lần đầu tiên được xác định trong khảo cổ học động vật ở Anh và mới chỉ là lần thứ ba ở châu Âu thời Trung Cổ.
Quang cảnh khai quật tại St Aldates, Oxford, xuất lộ tháp Carfax trong nền hố khai quật (Nguồn:trung tâm Khảo cổ Oxford).
Để điều tra xem cư dân của hai ngôi nhà có ăn theo chế độ Do Thái hay không, nhóm nghiên cứu đã kết hợp phương pháp hóa học và đồng vị để xác định và định lượng phần cặn thức ăn được hấp thụ vào các bình thời Trung cổ tìm thấy tại địa điểm này.
Phát hiện của nhóm nghiên cứu được công bố gần đây trên tạp chí Khoa học Khảo cổ và Nhân chủng học, cho thấy rằng những chiếc bình Do Thái có thể chỉ được sử dụng để nấu các loại thịt từ gia súc, cừu và dê. Hoàn toàn không có bằng chứng chế biến lợn. Tuy nhiên, việc nấu và ăn thịt lợn đã được thể hiện rõ ràng qua các đồ gốm và xương động vật từ một địa điểm đương thời bên ngoài Khu Do Thái ở Oxford (Đại học của Nữ hoàng), và từ giai đoạn Anglo-Saxon trước đó ở St Aldates.
a. Bình thuộc đồ gốm Oxford thời Trung Cổ, có lẽ được sử dụng như một nồi nấu ăn và có niên đại vào cuối thế kỷ 11 hoặc 12.
b. Bình thu nhỏ gần như hoàn chỉnh thuộc gốm thô Brill từ cấu trúc 3.1 (Nguồn: Đại học Bristol).Tác giả chính, Tiến sĩ Julie Dunne , Trường Hóa học thuộc Đại học Bristol, cho biết: "Đây là một ví dụ đáng chú ý về cách thông tin phân tử sinh học được chiết xuất từ đồ gốm thời Trung cổ và kết hợp với các tài liệu khảo cổ và xương động vật, đã cung cấp cái nhìn độc đáo về tập quán ăn kiêng 800 năm của người Do Thái . "
Đây là nghiên cứu đầu tiên về loại hình này có khả năng xác định được tập tục ăn kiêng kosher, với các thực hành nghi lễ và kiêng kị liên quan đến thực phẩm, việc sử dụng cặn thực phẩm cổ được tìm thấy trong nồi nấu đã mở đường cho các nghiên cứu tương tự trong tương lai.
Edward Biddulph, người quản lý dự án sau khai quật tại trung tâm Khảo cổ Oxford cho biết: "Kết quả của cuộc khai quật tại St Aldates và Queen Street thật đáng kinh ngạc, không chỉ tiết lộ bằng chứng khảo cổ hiếm hoi về người Do Thái thời Trung Cổ ở Anh, mà còn chứng minh giá trị to lớn của phân tích chuyên sâu kĩ lưỡng kết hợp các phát hiện truyền thống và phân tích địa tầng bằng các kỹ thuật khoa học.
Tiến sĩ Lucy Cramp, giảng viên cao cấp tại Khoa Nhân chủng học và Khảo cổ học tại Bristol, và là đồng tác giả của nghiên cứu này cho biết thêm: "Các lựa chọn chế độ ăn uống của con người dựa trên nhiều hơn sự sẵn có hoặc hàm lượng calo. Điều thực sự thú vị là làm thế nào bằng chứng về các kiểu ăn kiêng ở Oxford thời Trung Cổ cho chúng ta biết về sự đa dạng của các thực hành và tín ngưỡng văn hóa đã có trong quá khứ, cũng như ngày nay. "
Giáo sư Richard Evershed FRS, người đứng đầu Đơn vị Địa hóa Hữu cơ của Bristol và là đồng tác giả của nghiên cứu cho biết thêm: "Đây là một ví dụ đáng chú ý khác về việc chúng ta có thể tiến xa như thế nào bằng việc sử dụng khoa học khảo cổ để xác định nhiều khía cạnh cuộc sống của tổ tiên chúng ta."
Người dịch: Minh Trần
Nguồn tham khảo
https://www.eurekalert.org/pub_releases/2021-04/uob-8mp040721.php
Paper:
'Finding Oxford's medieval Jewry using organic residue analysis, faunal records and historical documents' by J. Dunne, E. Biddulph, P. Manix, T. Gillard, H. Whelton, S. Teague, C. Champness, L. Broderick, R. Nicholson, P. Blinkhorn, E. Craig-Atkins, B. Jervis, R. Madgwick, L. Cramp and R. Evershed in Archaeological and Anthropological Sciences
Một phương pháp mới cho phép chiết xuất vật liệu di truyền gần như không phá hủy từ các di cốt khảo cổ học đã được phát triển bởi một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế. Nguồn: Bảo tàng Kiss Pál (Chỉnh sửa Mester và Albert Gyrfi)
Một nhóm nghiên cứu Mỹ - Áo (Đại học Vienna, Khoa Nhân chủng học Tiến hóa và Trường Y Harvard, Khoa Di truyền), với sự hợp tác của các chuyên gia Hungary từ Đại học Eötvös Loránd, đã phát triển một phương pháp mới cho phép chiết xuất vật liệu di truyền gần như không phá hủy từ các di cốt người. Phương pháp này cho phép các nhà nhân chủng học, khảo cổ học và di truyền học tránh nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các hiện vật có giá trị khoa học và di sản quan trọng, điều này có thể được kiểm tra đầy đủ trong các nghiên cứu trong tương lai.
Nghiên cứu sinh khảo cổ học về di cốt người và động vật từ các cuộc khai quật khảo cổ học ngày càng trở nên quan trọng trong những thập niên gần đây. Cả trong nước và quốc tế, ngoài nghiên cứu khảo cổ học và nhân học cổ điển, một số lượng đáng kể các phương pháp kiểm tra sinh học phân tử được bao gồm. Một trong những lĩnh vực quan trọng nhất là di truyền cổ. Việc nghiên cứu vật liệu di truyền của người và động vật cổ có thể giúp ích đáng kể cho cả việc phân tích quá trình tiến hóa của loài người và trả lời các câu hỏi lịch sử về các quần thể của các giai đoạn khảo cổ học sau này.
Nghiên cứu ADN cổ (aDNA) đầu tiên bắt đầu vào những năm 1980, nhưng các đột phá về phương pháp thực sự đến sau khi bước sang thiên niên kỷ này. Đây là thời kỳ mà các phương pháp giải trình tự thế hệ tiếp theo tiếp cận với nghiên cứu khảo cổ sinh học. Nhờ nghiên cứu quy mô lớn bắt đầu vào thời điểm đó, chúng ta hiện biết hơn 60% ADN của người Neanderthal được bảo quản trong nhân tế bào. Một loài người mới đã được mô tả trên cơ sở vật liệu di truyền chiết xuất từ răng và xương ngón tay tìm thấy ở Siberia, và người ta nhận ra rằng, trái với những ý kiến trước đây, người Neanderthal và người Homo sapiens hiện đại đã giao phối với nhau, để lại những dấu vết di truyền đáng kể trong các nhóm người hiện đại ở phía bắc Sahara.
Tuy nhiên, những mẫu sử dụng cho phân tích di truyền cổ có thể có mức độ phá hủy cao và do đó có thể đáng lo ngại từ quan điểm bảo tồn di sản, ngăn cản hoặc gây khó khăn cho việc lấy và thực hiện lấy mẫu.
Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế (phòng thí nghiệm Ron Pinhasi tại Đại học Vienna và phòng thí nghiệm David Reich tại Harvard) đã nhận ra vấn đề này và gần đây đã phát triển một số phương pháp lấy mẫu mới để giảm thiểu phá huỷ xương liên quan đến việc lấy mẫu. Thứ nhất, cơ sở phương pháp luận cho việc khoan vào tai trong từ đáy sọ đã được phát triển và sau đó người ta chỉ ra rằng việc sử dụng các xương nhỏ thính giác có thể làm giảm đáng kể thiệt hại khi sàng lọc trong quá trình lấy mẫu.
Nghiên cứu mới nhất, được công bố trên tạp chí Nghiên cứu Gen (Genome Research), được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu quốc tế nói trên và các nhà nghiên cứu của Khoa Nhân chủng học (Tamás Hajdu, Krisztián Kiss, Tamás Szeniczey) và Viện Khảo cổ học (Alexandra Anders, Pál Raczky ) tại Đại học Eötvös Loránd,
Tamas Hajdu, người đứng đầu nhóm nghiên cứu người Hungary, trợ lý giáo sư tại Khoa Nhân chủng học tại Đại học Eötvös Loránd, cho biết:
"Phương pháp mới này làm giảm đáng kể mức độ phá huỷ mẫu. Nó bao gồm việc hòa tan lượng ADN của chân răng, giàu chất xi măng tế bào, bằng cách ngâm nó trong một dung dịch đặc biệt. Chất lượng của mẫu thu được là không tốt bằng ADN chiết xuất từ xương tai trong, nhưng có chất lượng tương đương với vật liệu di truyền thu được bằng các phương pháp truyền thống (khoan và nghiền thành bột áp dụng trên răng).
Ưu điểm chính của phương pháp này là răng chỉ bị tổn thương ở mức tối thiểu, vẫn giữ nguyên cấu trúc của nó không chỉ về mặt hình thái mà còn về mặt mô học, trong khi thành phần hóa học không thay đổi của nó cho phép thực hiện các xét nghiệm đồng vị tiếp theo (stronti hoặc C14).
Thay đổi đáng chú ý duy nhất là màu chân răng bị phai hoặc trắng dần.
Do đó, tầm quan trọng của phương pháp lấy mẫu mới nằm ở hiệu quả phá hủy tối thiểu của nó. Nếu các răng được lấy mẫu vẫn còn nguyên vẹn, chúng có thể được tiến hành thêm các nghiên cứu về hình thái, X quang, mô học, bệnh lý miệng, đồng vị ổn định và cacbon phóng xạ. Điều này có thể đặc biệt quan trọng trong trường hợp chỉ có một vài chiếc răng còn sót lại được bảo tồn trong thời gian và địa điểm nhất định, có thể hàng chục nghìn năm tuổi, và việc lấy mẫu phá hủy chúng sẽ hoàn toàn loại trừ (làm mất) việc phân tích tiếp theo. Ngoài nghiên cứu về tiến hóa người, phương pháp luận mới này cũng có thể giúp các dự án về lịch sử dân số và tiến hóa bệnh tại Khoa Nhân chủng học và Viện Khảo cổ học, thuộc Đại học Eötvös Loránd bằng cách bảo tồn tính toàn vẹn của các mẫu. Phương pháp lấy mẫu mới này, được phát triển trong sự hợp tác quốc tế, cung cấp một cách nhìn mới về việc bảo quản hiện vật cho các cơ quan bảo tàng quốc gia và quốc tế, đồng thời cho phép tiến hành các phân tích cổ di truyền mới nhất gần như không bị há hủy.
Nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã phát triển một phương pháp lấy mẫu mới và kiểm tra tính hiệu quả của phương pháp này trên di cốt người ở một số địa điểm khảo cổ ở Hungary và nước ngoài. Tài liệu khảo cổ học Hungary có thể được tìm thấy trong các bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hungary, Bảo tàng Herman Ottó, Bảo tàng Déri và Bảo tàng Damjanich János. Phương pháp mới này được khởi xướng bởi nhóm nghiên cứu của Ron Pinhasi tại Khoa Nhân chủng học Tiến hóa, Đại học Vienna. Nền tảng phương pháp đã được nghiên cứu, và các mẫu xương và răng đã được phân tích bởi nhóm nghiên cứu của Áo và Phòng thí nghiệm của David Reich tại Khoa Di truyền, Trường Y Harvard.
Cơ sở nhân chủng học của những phát hiện trên được cung cấp bởi Khoa Nhân học tại Đại học Eötvös Loránd và Khoa Nhân học tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hungary và Viện Khảo cổ học, ELKH-BTK (Tamás Hajdu, Tamás Szeniczey, Krisztián Kiss, Ildikó Pap, Kitti Köhler). Dữ liệu cơ bản về khảo cổ học của nghiên cứu (niên đại khảo cổ, phân loại văn hóa, bối cảnh khảo cổ của phát hiện) được cung cấp bởi dự án chung của các nhà nghiên cứu thuộc một số tổ chức Hungary (Viện khảo cổ học ELTE BTK: Alexandra Anders, Pál Raczky; Bảo tàng Déri: János Dani, Barbara Kolozsi, Emese Gyöngyvér Nagy; Bảo tàng Herman Otto: B. Hellebrandt Magdolna, Horváth Antónia; Viện khảo cổ ELKH BTK: Király Ágnes; Bảo tàng Damjanich János: Kovács Péter; Ásatárs Kft.)
Người dịch: Minh Trần
Tài liệu tham khảo
https://phys.org/news/2021-05-non-destructive-archaeogenetic-sampling-method.html
Nghiên cứu mới nhất về Cánh đồng Chum kết hợp tuổi của một vài chiếc chum đá với tuổi của một số mộ - hầu hết các mộ được tìm thấy trẻ hơn nhiều so với những chiếc chum đá này. ( Nguồn: Dự án Khảo cổ học Cánh đồng Chum).
Theo một nghiên cứu mới, cánh đồng Chum bí ẩn ở Bắc Lào - cảnh quan được điểm xuyết bởi những chiếc chum đá khổng lồ được đẽo từ đá sa thạch hàng nghìn năm trước - có khả năng được sử dụng làm nơi chôn cất có tuổi cổ hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây, và có thể lên đến 2.000 năm.
Các nghiên cứu thử nghiệm gần đây cho thấy: những chiếc chum khổng lồ có khả năng được sử dụng cho xác chết tiếp xúc với các yếu tố môi trường cho đến khi chỉ còn xương để chôn cất, có thể đã hơn 3.000 năm tuổi.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy rằng hầu hết các di cốt người được chôn dưới đất bên trong những chiếc chum cổ đã được đặt ở đó từ 700 đến 1.200 năm trước.
Trả lời trên tạp chí Live Science, nhà khảo cổ học Louise Shewan, Đại học Melbourne cho hay: "Những gì chúng tôi phỏng đoán từ đó là ý nghĩa nghi lễ lâu dài của những địa điểm này.Chúng rất quan trọng trong thời gian rất dài."
Shewan và đồng nghiệp của cô, nhà khảo cổ Dougald O'Reilly, Đại học Quốc gia Úc đã nghiên cứu các di chỉ mộ chum đá cổ từ năm 2016 cùng với nhà khảo cổ Thonglith Luangkoth thuộc Sở Di sản Lào ở Viêng Chăn.
Năm ngoái là chuyến thám hiểm thường niên thứ tư của họ đến địa điểm này, đã kết thúc khi các hạn chế đi lại được đưa ra sau khi bùng phát COVID-19; một số nghiên cứu từ cuộc thám hiểm đó đã được xuất bản ngày 10 tháng 3 trên tạp chí PLOS One
Những ngôi mộ bí ẩn
Cho đến nay, nhóm khảo cổ đã nghiên cứu kĩ lưỡng ba trong vô số các “di chỉ” cự thạch trên khắp miền Bắc Lào. Đối với nghiên cứu mới này, họ tập trung vào địa điểm nổi tiếng nhất trong tất các địa điểm trên, được gọi là Địa điểm 1, nằm ngay phía tây Phonsavan, và là một trong 11 địa điểm được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Nó chứa khoảng 400 chum đá nằm rải rác trên hơn 24 ha.
Bản thân những chiếc chum đá rất khó xác định niên đại chính xác; một nhà khảo cổ học nổi tiếng người Pháp, Madeleine Colani, đã báo cáo vào năm 1935: bà đã tìm thấy di cốt người trong một vài chum trong số đó, tuy nhiên các nhà khảo cổ học hiện đại không tìm thấy dữ liệu xương hoặc răng người trong bất kỳ mộ chum đá nào.
Tuy vậy, họ đã tìm thấy bằng chứng về ba loại hình mộ khác nhau tại các di chỉ mộ chum này – loại 1: mộ hung táng - ở đó di cốt đầy đủ được chôn, loại 2: mộ cải táng - nơi các cụm xương người được chôn vào nhau; và loại 3: các di cốt chôn trong các bình gốm nhỏ, sau đó được đánh dấu bằng những tảng thạch anh đặc biệt trên bề mặt. Những chiếc chum gốm khác hẳn so với những chum đá đồ sộ ở trên mặt đất. Những chiếc chum như vậy là một hình thức mai táng tương đối phổ biến ở các vùng châu Á vào các thời điểm khác nhau.
Nhưng niên đại cacbon phóng xạ của di cốt người từ những chiếc bình gốm và các mộ khác khác cho thấy hầu hết chúng có niên đại vào giữa thế kỷ thứ 9 và 13 - từ 700 đến 1.200 năm trước - điều này sẽ khiến chúng trẻ hơn nhiều so với các chum đá.
Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shewan và O'Reilly sau đó sử dụng kỹ thuật định niên đại quang phát quang (OSL) trên trầm tích, hoặc đất bụi bên dưới một số mộ chum tại địa điểm 2, cách một vài dặm về phía nam của địa điểm 1, để tìm hiểu thêm về việc khi nào chúng đã được đặt ở đó.
Kỹ thuật này cho phép đo lượng bức xạ ion hóa được hấp thụ bởi các hạt thạch anh trong các lớp trầm tích, con số này có thể được sử dụng để tính toán thời điểm cuối cùng các hạt thạch anh tiếp xúc với ánh sáng ban ngày.
Shewan cho biết: “Ngay bên dưới một chiếc chum, chúng tôi định niên đại từ 1350 đến 730 TCN, và trong một chiếc chum khác, chúng tôi có niên đại 860 đến 350 TCN,” ."Tôi cho rằng chúng ta sẽ tìm ra một loạt các niên đại khi tiếp tục phân tích."
O'Reilly cho biết: Những niên đại này sẽ làm cho những chiếc chum đá có tuổi cổ hơn nhiều so với hầu hết những ngôi mộ đất xung quanh chúng, mặc dù sẽ cần nhiều nghiên cứu hơn để thiết lập tương quan giữa tuổi của những chiếc chum với những ngôi mộ trong cùng địa điểm.
Các nhà khảo cổ học vẫn chưa thể biết liệu các quần thể dân số khác nhau có sử dụng các di chỉ mộ chum để làm táng tục ở các giai đoạn khác nhau hay không, hay liệu hậu duệ của những người làm ra các chum ban đầu có sử dụng lại các địa điểm này để chôn cất hay không. Ông nói: “Liệu chúng có liên quan về mặt văn hóa với những người làm ra những chiếc chum này, đó là một câu hỏi mà chúng tôi chưa thể xác định được.”
Trong chuyến thám hiểm gần đây nhất tới Cánh đồng Chum, nhóm nghiên cứu cũng đã kiểm tra tỷ lệ các đồng vị khác nhau của Chì và uranium bên trong các tinh thể Zircon bên trong đá của các chum đá này; các đồng vị này – là các dạng của cùng một nguyên tố với số lượng nơ tron khác nhau trong hạt nhân - có thể cung cấp một "dấu hiệu hóa học" về nguồn gốc của chúng.
Họ xác định rằng một trong những chum đá tại địa điểm 1 đã được mang đến từ một mỏ đá sa thạch cách đó 8 km. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết: “Liệu những chiếc chum nguyên vẹn được kéo trên một số dạng con lăn gỗ hay xe trượt, điều này vẫn là suy đoán.”
Bình minh trên Cánh đồng Chum ở Bắc Lào. Cảnh quan được điểm xuyết bởi những chiếc chum đá chạm khắc, một số chiếc cao tới 3 m và ước tính khoảng 3.000 năm tuổi. (Nguồn: Dự án Khảo cổ học Cánh đồng Chum)
Người ta không biết ai là người đã chạm khắc hàng nghìn chiếc chum đá cổ này. Nghiên cứu cho thấy một vài trong số đó có thể hơn 3000 năm tuổi. (Nguồn: Dự án Khảo cổ học Cánh đồng Chum)
Chỉ có một trong hàng trăm chiếc chum đá tại địa điểm 1 thuộc Cánh đồng Chum được trang trí. Dường như cho thấy một sinh vật giống con ếch được ẩn dụ như một nhân vật trong các tác phẩm chạm khắc trên đá cổ ở nam Trung Quốc. (Nguồn: Dự án Khảo cổ học Cánh đồng Chum)
Khu vực này được gọi là Cánh đồng Chum phía sau nền thung lũng tương đối bằng phẳng, tuy nhiên nhiều di chỉ mộ chum đá cổ nằm trên sườn đồi và trong rừng. (Nguồn: Dự án Khảo cổ học Cánh đồng Chum)
Những chiếc chum đá cổ được cho là vật dùng để phơi xác người chết trước các yếu tố môi trường trong một thời gian để các xương này có thể được thu thập và chôn cất. (Nguồn: Dự án Khảo cổ học Cánh đồng Chum),
Người dịch: Minh Trần
Tài liệu tham khảo
https://www.livescience.com/plain-of-jars-burial-site-true-age.html
Dấu vân tay để lại trên một bình đất sét do một người thợ gốm làm cách đây 5.000 năm đã được tìm thấy ở Orkney,Scotland.
Dấu vân tay được phát hiện trên một mảnh vỡ còn sót lại của bình gốm tại địa điểm khảo cổ Ness of Brodgar.
Các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật khu các tòa nhà cổ ở Trung tâm Di sản Thế giới Orkney thời kỳ Đá mới kể từ năm 2006.
Công nghệ hình ảnh được sử dụng để làm rõ dấu vân tay để lại sau khi người thợ gốm ấn một ngón tay vào đất sét ướt.
Ness of Brodgar là địa điểm khai quật hàng đầu của Viện Khảo cổ học - Đại học Cao nguyên và Hải đảo (UHI).
Dấu vân tay của người thợ gốm được ghi nhận bởi chuyên gia gốm sứ Roy Towers, người đang giám định một mảnh gốm từ một tập hợp lớn các mảnh đất sét được phục chế từ di chỉ này – đây là bộ sưu tập lớn nhất về đồ gốm có rãnh thời kỳ Đá mới ở Anh.
Hình ảnh chuyển đổi phản xạ (RTI) được sử dụng để xác nhận dấu vân tay nghi ngờ. Quá trình này bao gồm nhiều bức ảnh được chụp trên một đối tượng, mỗi bức ảnh có một nguồn sáng được kiểm soát khác nhau. Dấu vân do một người thợ gốm ấn ngón tay vào đất sét ướt để lại (Nguồn: Jan BlatchFord)
Chúng được kết hợp bằng cách sử dụng phần mềm máy tính để tạo ra một mô hình vật thể có độ chi tiết cao, có thể chiếu sáng từ mọi góc độ và được kiểm tra chặt chẽ trên màn hình. Hình ảnh thu được thường tiết lộ các chi tiết bề mặt không thể nhìn thấy trong quá trình quan sát bằng mắt thường.
'Kết nối sâu sắc'
Trong trường hợp này, hình ảnh chuyển đổi phản xạ RTI được thực hiện bởi Jan Blatchford đã xác nhận và ghi lại dấu vân tay duy nhất bắt gặp tại Ness of Brodgar.
UHI cho biết các dấu vân tay cổ không phải là hiếm và các nghiên cứu đã được thực hiện về chúng trong một vài năm.
Các nhà khảo cổ hy vọng phân tích dấu vân tay Ness of Brodgar sẽ tiết lộ giới tính và tuổi của người thợ gốm.
Nick Card - Giám đốc khai quật cho biết: "Làm việc trên một địa điểm ở trên cao như Ness of Brodgar, với những tòa nhà tuyệt đẹp và hàng loạt đồ tạo tác tuyệt đẹp, tất cả các điều đó có thể quá dễ dàng để quên đi những con người đằng sau khu phức hợp đáng kinh ngạc này.
"Nhưng khám phá này thực sự đưa những nhà nghiên cứu tập trung trở lại.”
"Mặc dù việc tìm kiếm dấu vân tay sẽ không ảnh hưởng nhiều đến công việc của chúng tôi, nhưng nó mang lại cho chúng tôi một kết nối cá nhân sâu sắc với những người ở Orkney thời kỳ Đá mới, 5.000 năm trước."
Người dịch: Minh Trần
Tài liệu tham khảo
Dấu vân tay được phát hiện trên một mảnh vỡ còn sót lại của bình gốm tại địa điểm khảo cổ Ness of Brodgar.
Các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật khu các tòa nhà cổ ở Trung tâm Di sản Thế giới Orkney thời kỳ Đá mới kể từ năm 2006.
Công nghệ hình ảnh được sử dụng để làm rõ dấu vân tay để lại sau khi người thợ gốm ấn một ngón tay vào đất sét ướt.
Ness of Brodgar là địa điểm khai quật hàng đầu của Viện Khảo cổ học - Đại học Cao nguyên và Hải đảo (UHI).
Dấu vân tay của người thợ gốm được ghi nhận bởi chuyên gia gốm sứ Roy Towers, người đang giám định một mảnh gốm từ một tập hợp lớn các mảnh đất sét được phục chế từ di chỉ này – đây là bộ sưu tập lớn nhất về đồ gốm có rãnh thời kỳ Đá mới ở Anh.
Hình ảnh chuyển đổi phản xạ (RTI) được sử dụng để xác nhận dấu vân tay nghi ngờ. Quá trình này bao gồm nhiều bức ảnh được chụp trên một đối tượng, mỗi bức ảnh có một nguồn sáng được kiểm soát khác nhau. Dấu vân do một người thợ gốm ấn ngón tay vào đất sét ướt để lại (Nguồn: Jan BlatchFord)
Chúng được kết hợp bằng cách sử dụng phần mềm máy tính để tạo ra một mô hình vật thể có độ chi tiết cao, có thể chiếu sáng từ mọi góc độ và được kiểm tra chặt chẽ trên màn hình. Hình ảnh thu được thường tiết lộ các chi tiết bề mặt không thể nhìn thấy trong quá trình quan sát bằng mắt thường.
'Kết nối sâu sắc'
Trong trường hợp này, hình ảnh chuyển đổi phản xạ RTI được thực hiện bởi Jan Blatchford đã xác nhận và ghi lại dấu vân tay duy nhất bắt gặp tại Ness of Brodgar.
UHI cho biết các dấu vân tay cổ không phải là hiếm và các nghiên cứu đã được thực hiện về chúng trong một vài năm.
Các nhà khảo cổ hy vọng phân tích dấu vân tay Ness of Brodgar sẽ tiết lộ giới tính và tuổi của người thợ gốm.
Nick Card - Giám đốc khai quật cho biết: "Làm việc trên một địa điểm ở trên cao như Ness of Brodgar, với những tòa nhà tuyệt đẹp và hàng loạt đồ tạo tác tuyệt đẹp, tất cả các điều đó có thể quá dễ dàng để quên đi những con người đằng sau khu phức hợp đáng kinh ngạc này.
"Nhưng khám phá này thực sự đưa những nhà nghiên cứu tập trung trở lại.”
"Mặc dù việc tìm kiếm dấu vân tay sẽ không ảnh hưởng nhiều đến công việc của chúng tôi, nhưng nó mang lại cho chúng tôi một kết nối cá nhân sâu sắc với những người ở Orkney thời kỳ Đá mới, 5.000 năm trước."
Người dịch: Minh Trần
Tài liệu tham khảo
https://www.bbc.com/news/uk-scotland-north-east-orkney-shetland-56858268
Phân tích chi tiết di cốt của một cá chép khổng lồ (dài 2 mét) được tìm thấy tại địa điểm khảo cổ Gesher Benot Ya'aqov (GBY) ở Israel cho thấy loài cá này đã được nấu chín cách đây khoảng 780.000 năm, đánh dấu những dấu hiệu nấu ăn sớm nhất của người tiền sử sớm hơn khoảng 600.000 năm so với các nghiên cứu trước đây . Phát hiện này đã công bố trên tạp chí Nature Ecology and Evolution đã làm sáng tỏ câu hỏi về việc khi nào con người bắt đầu sử dụng lửa để nấu thức ăn - vấn đề được tranh luận hơn một thế kỷ qua.
Sọ cá chép trong bộ sưu tập lịch sử tự nhiên lưu trữ tại Bảo tàng tự nhiên Steinhardt, đại học Tel Aviv (nguồn: Tel Aviv).
Nghiên cứu được dẫn đầu bởi một nhóm các nhà khoa học của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Steinhardt, khoa khảo cổ và nghiên cứu Israel, Bảo tàng tự nhiên London
Đứng đầu nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ Zohar and Tiến sĩ Prevost cho biết:
"Nghiên cứu này cho thấy tầm quan trọng to lớn của cá đối với cuộc sống của con người thời tiền sử, đối với chế độ ăn uống và sự ổn định kinh tế của họ. Hơn nữa, bằng cách nghiên cứu di cốt cá được tìm thấy tại Gesher Benot Ya'aqob, lần đầu tiên, chúng tôi có thể tái tạo lại quần thể cá của hồ Hula cổ và để chứng minh rằng hồ này có các loài cá đã tuyệt chủng theo thời gian”.
Những loài này cá chép này có chiều dài lên tới 2 mét. Số lượng lớn di cốt cá được tìm thấy tại địa điểm chứng tỏ người tiền sử thường xuyên tiêu thụ chúng, họ đã phát triển các kỹ thuật nấu ăn đặc biệt. Các phát hiện mới này không chỉ chứng minh tầm quan trọng của môi trường sống nước ngọt và cá là nguồn sống của người tiền sử, mà còn minh họa khả năng kiểm soát lửa của người tiền sử để nấu thức ăn và hiểu biết của họ về lợi ích của việc nấu cá trước khi ăn. " Sự minh hoạ người cổ khai thác và nấu cá ( cá chép lớn, Cyprinidae) ở ven bờ của hồ cổ Hula (minh hoạ bởi Ella Maru). Nguồn: Tel Aviv
Trong nghiên cứu trên, các nhà nghiên cứu tập trung vào răng hầu (dùng để nghiền thức ăn cứng như vỏ sò) thuộc họ cá chép. Những chiếc răng này được tìm thấy với số lượng lớn tại các tầng khảo cổ khác nhau tại địa điểm. Bằng cách nghiên cứu cấu trúc của các tinh thể hình thành nên men răng (kích thước của chúng tăng lên khi tiếp xúc với nhiệt), các nhà nghiên cứu đã có thể chứng minh rằng cá này đánh bắt ở Hồ Hula cổ , liền kề với địa điểm khai quật, đã được tiếp xúc với nhiệt độ phù hợp để nấu ăn , và không chỉ đơn giản là bị đốt cháy bởi ngọn lửa tự phát.
Cho đến nay, bằng chứng về việc sử dụng lửa để nấu ăn chỉ giới hạn ở những địa điểm muộn hơn nhiều so với địa điểm GBY—khoảng 600.000 năm, và hầu hết những địa điểm này đều có liên quan đến sự xuất hiện của loài người chúng ta- Homo sapiens với bằng chứng sử dụng lửa khoảng 170.000 năm cách ngày nay.
Giáo sư Goren-Inbar nói thêm: "Thực tế là việc nấu cá được thể hiện rõ ràng trong một thời gian định cư lâu dài và không gián đoạn như vậy tại địa điểm này cho thấy truyền thống nấu thức ăn liên tục. Đây là một phát hiện khác trong một loạt các khám phá liên quan đến nhận thức cao khả năng của những người săn bắn hái lượm Acheulian hoạt động trong khu vực Thung lũng Hula cổ ."
Những nhóm cư dân này đã khá quen thuộc với môi trường của họ và các nguồn tài nguyên đa dạng. Hơn nữa, còn cho thấy những cư dân cổ này có kiến thức sâu rộng về vòng đời của các loài động thực vật khác nhau. Đạt được kỹ năng cần thiết để nấu thức ăn đánh dấu một bước tiến hóa quan trọng, vì nó cung cấp một phương tiện bổ sung để sử dụng tối ưu các nguồn thực phẩm sẵn có. Thậm chí có thể nấu ăn không chỉ giới hạn ở cá mà còn bao gồm nhiều loại động vật và thực vật khác ."
Giáo sư Hershkovitz và Tiến sĩ Zohar lưu ý rằng việc chuyển từ ăn thực phẩm sống sang ăn thực phẩm nấu chín có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và hành vi của con người. Ăn thức ăn nấu chín làm giảm năng lượng cơ thể cần để phá vỡ và tiêu hóa thức ăn, cho phép các hệ thống thể chất khác phát triển. Điều này cũng dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc xương hàm và hộp sọ của con người
Sự thay đổi này đã giải phóng con người khỏi công việc nặng nhọc hàng ngày là tìm kiếm và tiêu hóa thức ăn thô, cho họ thời gian rảnh rỗi để phát triển các hệ thống hành vi và xã hội mới. Một số nhà khoa học coi việc ăn cá là một cột mốc quan trọng trong bước nhảy vọt trong quá trình tiến hóa nhận thức của con người, là chất xúc tác chính cho sự phát triển của bộ não con người.
Họ cho rằng ăn cá là thứ tạo nên con người chúng ta. Thậm chí ngày nay, người ta đã biết rộng rãi rằng các thành phần trong thịt cá, chẳng hạn như axit béo omega-3, kẽm, i-ốt, v.v., góp phần rất lớn vào sự phát triển của não bộ.
Nhóm nghiên cứu tin rằng vị trí của các vùng nước ngọt, một số trong số chúng ở những vùng đã khô hạn từ lâu và trở thành sa mạc khô cằn, đã xác định lộ trình di cư của người nguyên thủy từ Châu Phi đến Levant và xa hơn nữa. Những môi trường sống này không chỉ cung cấp nước uống và thu hút động vật đến khu vực mà đánh bắt cá ở vùng nước nông là một nhiệm vụ tương đối đơn giản và an toàn mà dinh dưỡng rất cao
Nhóm nghiên cứu cho rằng việc khai thác cá trong môi trường nước ngọt là bước đầu tiên trên con đường rời khỏi châu Phi của người tiền sử. Người tiền sử bắt đầu ăn cá cách đây khoảng 2 triệu năm nhưng nấu cá—như được tìm thấy trong nghiên cứu này—đã thể hiện một cuộc cách mạng thực sự trong chế độ ăn uống của người Acheulian và là nền tảng quan trọng để hiểu mối quan hệ giữa con người, môi trường, khí hậu và sự di cư khi cố gắng dựng lại lịch sử của loài người sơ khai.
Cần lưu ý rằng bằng chứng về việc sử dụng lửa tại địa điểm—bằng chứng lâu đời nhất như vậy ở Á-Âu—được xác định đầu tiên bởi Giáo sư Nira Alperson-Afil của Đại học Bar-Ilan, Cô giải thích: “Việc sử dụng lửa là một hành vi đặc trưng cho toàn bộ quá trình định cư liên tục tại địa điểm. "Điều này ảnh hưởng đến tổ chức không gian của địa điểm và hoạt động được tiến hành ở đó, xung quanh bếp lửa." Nghiên cứu về lửa của Alperson-Afil tại địa điểm này là một cuộc cách mạng vào thời điểm đó và cho thấy việc sử dụng lửa đã bắt đầu từ hàng trăm nghìn năm trước so với suy nghĩ trước đây.
Goren-Inbar – Đại học Hebrew nói thêm rằng địa điểm khảo cổ GBY ghi lại quá trình định cư lặp lại liên tục của các nhóm săn bắn hái lượm trên bờ Hồ Hula cổ đại kéo dài hàng chục nghìn năm.
Goren-Inbar giải thích: “Những nhóm cư dân này đã sử dụng nguồn tài nguyên phong phú do Thung lũng Hula cổ cung cấp và để lại một chuỗi định cư lâu dài với hơn 20 tầng định cư. Các cuộc khai quật tại địa điểm đã phát hiện ra nền văn hóa vật chất của những hominin cổ, bao gồm các công cụ bằng đá lửa, đá bazan và đá vôi, cũng như nguồn thức ăn của họ, được đặc trưng bởi sự đa dạng phong phú của các loài thực vật từ hồ và bờ biển (bao gồm cả trái cây), quả hạch và hạt) và bởi nhiều loài động vật có vú trên cạn, cả cỡ trung bình và lớn.
Tiến sĩ Jens Najorka - Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London giải thích: "Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp địa hóa để xác định những thay đổi về kích thước của các tinh thể men răng, do tiếp xúc với nhiệt độ nấu ăn khác nhau. Khi chúng bị đốt cháy bởi lửa , rất dễ nhận biết sự thay đổi rõ rệt về kích thước của các tinh thể men, nhưng khó nhận biết hơn những thay đổi do nấu ở nhiệt độ từ 200 đến 500 độ C”.
“Các thí nghiệm mà tôi tiến hành với Tiến sĩ Zohar cho phép chúng tôi xác định những thay đổi do nấu ăn ở nhiệt độ thấp. Chúng tôi không biết chính xác cá đã được nấu chín như thế nào nhưng do thiếu bằng chứng về việc tiếp xúc với nhiệt độ cao nên rõ ràng là chúng không được nấu trực tiếp trên lửa và không bị ném vào lửa như chất thải hoặc nguyên liệu đốt."
Tiến sĩ Guy Sisma-Ventura của Viện Nghiên cứu Hải dương học và nước ngọt học Israel và Giáo sư Thomas Tütken - Đại học Johannes Gutenberg Mainz cũng là thành viên của nhóm nghiên cứu, cung cấp phân tích về thành phần đồng vị của oxy và carbon trong men răng cá.
"Nghiên cứu về đồng vị này là một bước đột phá thực sự, vì nó cho phép chúng tôi tái tạo lại các điều kiện thủy văn ở hồ cổ này trong suốt các mùa, và do đó xác định rằng cá không phải là nguồn kinh tế theo mùa mà được đánh bắt và ăn quanh năm. Do vậy, cá cung cấp nguồn dinh dưỡng ổn định làm giảm nhu cầu di cư theo mùa."
Nguồn tham khảo: https://phys.org/news/2022-11-oldest-evidence-cook-food.html
Người dịch: Minh Trần
Sọ cá chép trong bộ sưu tập lịch sử tự nhiên lưu trữ tại Bảo tàng tự nhiên Steinhardt, đại học Tel Aviv (nguồn: Tel Aviv).
Nghiên cứu được dẫn đầu bởi một nhóm các nhà khoa học của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Steinhardt, khoa khảo cổ và nghiên cứu Israel, Bảo tàng tự nhiên London
Đứng đầu nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ Zohar and Tiến sĩ Prevost cho biết:
"Nghiên cứu này cho thấy tầm quan trọng to lớn của cá đối với cuộc sống của con người thời tiền sử, đối với chế độ ăn uống và sự ổn định kinh tế của họ. Hơn nữa, bằng cách nghiên cứu di cốt cá được tìm thấy tại Gesher Benot Ya'aqob, lần đầu tiên, chúng tôi có thể tái tạo lại quần thể cá của hồ Hula cổ và để chứng minh rằng hồ này có các loài cá đã tuyệt chủng theo thời gian”.
Những loài này cá chép này có chiều dài lên tới 2 mét. Số lượng lớn di cốt cá được tìm thấy tại địa điểm chứng tỏ người tiền sử thường xuyên tiêu thụ chúng, họ đã phát triển các kỹ thuật nấu ăn đặc biệt. Các phát hiện mới này không chỉ chứng minh tầm quan trọng của môi trường sống nước ngọt và cá là nguồn sống của người tiền sử, mà còn minh họa khả năng kiểm soát lửa của người tiền sử để nấu thức ăn và hiểu biết của họ về lợi ích của việc nấu cá trước khi ăn. " Sự minh hoạ người cổ khai thác và nấu cá ( cá chép lớn, Cyprinidae) ở ven bờ của hồ cổ Hula (minh hoạ bởi Ella Maru). Nguồn: Tel Aviv
Trong nghiên cứu trên, các nhà nghiên cứu tập trung vào răng hầu (dùng để nghiền thức ăn cứng như vỏ sò) thuộc họ cá chép. Những chiếc răng này được tìm thấy với số lượng lớn tại các tầng khảo cổ khác nhau tại địa điểm. Bằng cách nghiên cứu cấu trúc của các tinh thể hình thành nên men răng (kích thước của chúng tăng lên khi tiếp xúc với nhiệt), các nhà nghiên cứu đã có thể chứng minh rằng cá này đánh bắt ở Hồ Hula cổ , liền kề với địa điểm khai quật, đã được tiếp xúc với nhiệt độ phù hợp để nấu ăn , và không chỉ đơn giản là bị đốt cháy bởi ngọn lửa tự phát.
Cho đến nay, bằng chứng về việc sử dụng lửa để nấu ăn chỉ giới hạn ở những địa điểm muộn hơn nhiều so với địa điểm GBY—khoảng 600.000 năm, và hầu hết những địa điểm này đều có liên quan đến sự xuất hiện của loài người chúng ta- Homo sapiens với bằng chứng sử dụng lửa khoảng 170.000 năm cách ngày nay.
Giáo sư Goren-Inbar nói thêm: "Thực tế là việc nấu cá được thể hiện rõ ràng trong một thời gian định cư lâu dài và không gián đoạn như vậy tại địa điểm này cho thấy truyền thống nấu thức ăn liên tục. Đây là một phát hiện khác trong một loạt các khám phá liên quan đến nhận thức cao khả năng của những người săn bắn hái lượm Acheulian hoạt động trong khu vực Thung lũng Hula cổ ."
Những nhóm cư dân này đã khá quen thuộc với môi trường của họ và các nguồn tài nguyên đa dạng. Hơn nữa, còn cho thấy những cư dân cổ này có kiến thức sâu rộng về vòng đời của các loài động thực vật khác nhau. Đạt được kỹ năng cần thiết để nấu thức ăn đánh dấu một bước tiến hóa quan trọng, vì nó cung cấp một phương tiện bổ sung để sử dụng tối ưu các nguồn thực phẩm sẵn có. Thậm chí có thể nấu ăn không chỉ giới hạn ở cá mà còn bao gồm nhiều loại động vật và thực vật khác ."
Giáo sư Hershkovitz và Tiến sĩ Zohar lưu ý rằng việc chuyển từ ăn thực phẩm sống sang ăn thực phẩm nấu chín có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và hành vi của con người. Ăn thức ăn nấu chín làm giảm năng lượng cơ thể cần để phá vỡ và tiêu hóa thức ăn, cho phép các hệ thống thể chất khác phát triển. Điều này cũng dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc xương hàm và hộp sọ của con người
Sự thay đổi này đã giải phóng con người khỏi công việc nặng nhọc hàng ngày là tìm kiếm và tiêu hóa thức ăn thô, cho họ thời gian rảnh rỗi để phát triển các hệ thống hành vi và xã hội mới. Một số nhà khoa học coi việc ăn cá là một cột mốc quan trọng trong bước nhảy vọt trong quá trình tiến hóa nhận thức của con người, là chất xúc tác chính cho sự phát triển của bộ não con người.
Họ cho rằng ăn cá là thứ tạo nên con người chúng ta. Thậm chí ngày nay, người ta đã biết rộng rãi rằng các thành phần trong thịt cá, chẳng hạn như axit béo omega-3, kẽm, i-ốt, v.v., góp phần rất lớn vào sự phát triển của não bộ.
Nhóm nghiên cứu tin rằng vị trí của các vùng nước ngọt, một số trong số chúng ở những vùng đã khô hạn từ lâu và trở thành sa mạc khô cằn, đã xác định lộ trình di cư của người nguyên thủy từ Châu Phi đến Levant và xa hơn nữa. Những môi trường sống này không chỉ cung cấp nước uống và thu hút động vật đến khu vực mà đánh bắt cá ở vùng nước nông là một nhiệm vụ tương đối đơn giản và an toàn mà dinh dưỡng rất cao
Nhóm nghiên cứu cho rằng việc khai thác cá trong môi trường nước ngọt là bước đầu tiên trên con đường rời khỏi châu Phi của người tiền sử. Người tiền sử bắt đầu ăn cá cách đây khoảng 2 triệu năm nhưng nấu cá—như được tìm thấy trong nghiên cứu này—đã thể hiện một cuộc cách mạng thực sự trong chế độ ăn uống của người Acheulian và là nền tảng quan trọng để hiểu mối quan hệ giữa con người, môi trường, khí hậu và sự di cư khi cố gắng dựng lại lịch sử của loài người sơ khai.
Cần lưu ý rằng bằng chứng về việc sử dụng lửa tại địa điểm—bằng chứng lâu đời nhất như vậy ở Á-Âu—được xác định đầu tiên bởi Giáo sư Nira Alperson-Afil của Đại học Bar-Ilan, Cô giải thích: “Việc sử dụng lửa là một hành vi đặc trưng cho toàn bộ quá trình định cư liên tục tại địa điểm. "Điều này ảnh hưởng đến tổ chức không gian của địa điểm và hoạt động được tiến hành ở đó, xung quanh bếp lửa." Nghiên cứu về lửa của Alperson-Afil tại địa điểm này là một cuộc cách mạng vào thời điểm đó và cho thấy việc sử dụng lửa đã bắt đầu từ hàng trăm nghìn năm trước so với suy nghĩ trước đây.
Goren-Inbar – Đại học Hebrew nói thêm rằng địa điểm khảo cổ GBY ghi lại quá trình định cư lặp lại liên tục của các nhóm săn bắn hái lượm trên bờ Hồ Hula cổ đại kéo dài hàng chục nghìn năm.
Goren-Inbar giải thích: “Những nhóm cư dân này đã sử dụng nguồn tài nguyên phong phú do Thung lũng Hula cổ cung cấp và để lại một chuỗi định cư lâu dài với hơn 20 tầng định cư. Các cuộc khai quật tại địa điểm đã phát hiện ra nền văn hóa vật chất của những hominin cổ, bao gồm các công cụ bằng đá lửa, đá bazan và đá vôi, cũng như nguồn thức ăn của họ, được đặc trưng bởi sự đa dạng phong phú của các loài thực vật từ hồ và bờ biển (bao gồm cả trái cây), quả hạch và hạt) và bởi nhiều loài động vật có vú trên cạn, cả cỡ trung bình và lớn.
Tiến sĩ Jens Najorka - Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London giải thích: "Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp địa hóa để xác định những thay đổi về kích thước của các tinh thể men răng, do tiếp xúc với nhiệt độ nấu ăn khác nhau. Khi chúng bị đốt cháy bởi lửa , rất dễ nhận biết sự thay đổi rõ rệt về kích thước của các tinh thể men, nhưng khó nhận biết hơn những thay đổi do nấu ở nhiệt độ từ 200 đến 500 độ C”.
“Các thí nghiệm mà tôi tiến hành với Tiến sĩ Zohar cho phép chúng tôi xác định những thay đổi do nấu ăn ở nhiệt độ thấp. Chúng tôi không biết chính xác cá đã được nấu chín như thế nào nhưng do thiếu bằng chứng về việc tiếp xúc với nhiệt độ cao nên rõ ràng là chúng không được nấu trực tiếp trên lửa và không bị ném vào lửa như chất thải hoặc nguyên liệu đốt."
Tiến sĩ Guy Sisma-Ventura của Viện Nghiên cứu Hải dương học và nước ngọt học Israel và Giáo sư Thomas Tütken - Đại học Johannes Gutenberg Mainz cũng là thành viên của nhóm nghiên cứu, cung cấp phân tích về thành phần đồng vị của oxy và carbon trong men răng cá.
"Nghiên cứu về đồng vị này là một bước đột phá thực sự, vì nó cho phép chúng tôi tái tạo lại các điều kiện thủy văn ở hồ cổ này trong suốt các mùa, và do đó xác định rằng cá không phải là nguồn kinh tế theo mùa mà được đánh bắt và ăn quanh năm. Do vậy, cá cung cấp nguồn dinh dưỡng ổn định làm giảm nhu cầu di cư theo mùa."
Nguồn tham khảo: https://phys.org/news/2022-11-oldest-evidence-cook-food.html
Người dịch: Minh Trần
PHẦN 2 - KHẢO CỔ HỌC TIỀN SỬ |
Trang | |
|
LƯƠNG THỊ TUẤT, LA THẾ PHÚC (Tổng hội Địa chất Việt Nam), TRẦN MỸ DUYÊN, HỒ VĂN THẢO (UBND huyện Phú Thiện) Kết quả khảo sát huyện Krông Pa (Gia Lai) năm 2021 |
49 |
|
CHU MẠNH QUYỀN, HOÀNG VĂN THƯỞNG (BT. LSQG), TRẦN QUANG NĂM, PHẠM BẢO TRÂM (BT. Đắk Lắk) Khai quật di chỉ xưởng chế tác mũi khoan đá Thác Hai (Ea Súp, Đắk Lắk) năm 2021 |
53 |
|
VŨ TIẾN ĐỨC, NGUYỄN THÀNH VƯƠNG (Viện KHXH vùng Tây Nguyên), LƯƠNG THỊ TUẤT, LA THẾ PHÚC (Tổng hội Địa chất Việt Nam), PHẠM VĂN TRẦN HƯNG, TRỊNH VĂN SANG, NGUYỄN NGỌC NGÔ (UBND huyện Phú Thiện), HUỲNH BÁ TÍNH (BT. Gia Lai) Kết quả khảo sát huyện Phú Thiện (Gia Lai) năm 2021 |
56 |
|
LƯƠNG THỊ TUẤT, LA THẾ PHÚC (Tổng hội Địa chất Việt Nam), NGUYỄN ĐÌNH AN, NGUYỄN THIỆN TÌNH (UBND huyện Sơn Hòa) Phát hiện 2 điểm khảo cổ tiền sử ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên |
64 |
|
LƯƠNG THỊ TUẤT, LA THẾ PHÚC (Tổng hội Địa chất Việt Nam) Phát hiện điểm khảo cổ tiền sử ở khu vực núi lửa Ia Băng, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai |
67 |
|
VŨ TIẾN ĐỨC, NGUYỄN THÀNH VƯƠNG (Viện KHXH vùng Tây Nguyên), NGUYỄN ANH BẰNG (BT. Đắk Nông) Kết quả thám sát di tích Quảng Hà, tỉnh Đắk Nông) |
70 |
|
HỒ XUÂN TOẢN, NGUYỄN ANH MINH, HUỲNH BÁ TÍNH (BT. Gia Lai) Phát hiện nhiều di vật đá Tiền sử tại xã Ia Pnon, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai |
74 |
|
NGUYỄN KHẮC SỬ (Hội KCH), HUỲNH BÁ TÍNH (BT. Gia Lai) Phát hiện hệ thống công xưởng chế tác rìu đá H ‘Bông (Gia Lai) |
77 |
|
TRẦN QUANG NĂM, PHẠM BẢO TRÂM, TRƯƠNG ĐẮC TỨ (BT. Đắk Lắk) Khảo sát khảo cổ dọc sông Ea H’Leo (huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk |
81 |
|
NGUYỄN THỊ TUYẾT TRINH (BT. Đồng Nai) Khảo sát di tích Suối Chồn (Tp. Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) |
83 |
|
BÙI VĂN HÙNG, LƯU VĂN PHÚ (Viện KCH) Phát hiện địa điểm bến Cổng Chào (Quảng Ninh) |
89 |
|
BÙI VĂN HÙNG, LƯU VĂN PHÚ (Viện KCH), NGUYỄN VĂN HỘI (BT. Quảng Ninh) Phát hiện di tích Khe Dừa thuộc văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh) |
92 |
|
TRÌNH NĂNG CHUNG (Viện KCH), BÙI XUÂN TUÂN (Học viện KHXH) Phát hiện bích họa tiền sử trong hang động ở huyện Quỳ Châu, Nghệ An |
95 |
|
TRÌNH NĂNG CHUNG (Viện KCH) Phát hiện di tích văn hóa Hòa Bình ở Quỳ Châu, Nghệ An |
97 |
|
HOÀNG PHI DIỆP, BÙI VĂN DŨNG (UBND xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, Hòa Bình), LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH) Phát hiện di tích hang Thụ Đồi, huyện Yên Thủy (Hòa Bình) |
98 |
|
ĐÀO QUÝ CẢNH (Hội KCH), BÙI VĂN ĐẠT (BT. Hòa Bình), LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH) Địa điểm hang Kèn (Hòa Bình) |
100 |
|
PHẠM TUẤN LÂM (BT. Ninh Bình) Khảo sát mái đá Thung Lau |
101 |
|
PHẠM THANH SƠN (Viện KCH), NGUYỄN TIẾN HÒA (BT. Yên Bái) Sưu tập thiên thạch giai Holoecen sớm tại di chỉ Tuần Quán 1 từ cuộc khai quật năm 2020 (Yên Bái) |
104 |
|
PHẠM THANH SƠN (Viện KCH), LƯƠNG THỊ DUYÊN, LÔI THỊ HUỆ (BT. Thái Nguyên) Sưu tập hiện vật đá và dấu vết của kỹ nghệ Ngườm tại hang Chùa (Thái Nguyên) |
109 |
|
PHẠM THANH SƠN (Viện KCH), LƯƠNG THỊ DUYÊN (BT. Thái Nguyên), ĐỒNG VĂN LAN (xã Thần Sa, huyện Võ Nhai) Chì lười phát hiện tại Hang Kim Sơn (Võ Nhai, Thái Nguyên) |
112 |
|
LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH), PHẠM VĂN TUẤN, LÊ THỊ LIÊN (BT. Sơn La) Di tích hang Cò Lằn, Mộc Châu (Sơn La) |
114 |
|
NGUYỄN KIM DUNG, NGUYỄN LÂN CƯƠNG, LÊ HẢI ĐĂNG, VÕ THANH HƯỞNG (Hội KCH), NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG, NGUYỄN VĂN HỘI, NGÔ THỊ NGỌC DIỆP (BT. Quảng Ninh) Khai quật Hòn Hai Cô Tiên phường Bạch Đằng. Tp Hạ Long (Quảng Ninh) |
120 |
|
LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH), NGUYỄN KHẮC SỬ (Hội KCH), DƯƠNG THẾ SƠN (BT. Sơn La) Kết quả sơ bộ khai quật mái đá phía tây di chỉ Bản Mòn (Sơn La) |
125 |
|
NGUYỄN KHẮC SỬ (Hội KCH), NGÔ THỊ HẢI YẾN (BT. Sơn La), LÒ VĂN THANH (BT. Sơn La) Đào thám sát di tích hang Tắng (Sơn La) |
128 |
|
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG VÀ ĐOÀN CÔNG TÁC (Viện KCH) Thám sát mái đá Phứng Quyền (Mai Hịch, Mai Châu, Hòa Bình) năm 2021 |
132 |
|
LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH), LƯỜNG NGỌC ÁNH, LÒ VĂN THANH (BT. Sơn La) Khai quật mái đá phía đông di chỉ Bản Mòn (Sơn La) năm 2021 |
136 |
|
PHẠM THANH SƠN (Viện KCH), LÊ ĐÌNH HẢI, LƯỜNG MINH CHIẾN, NGUYỄN THỊ NHƯ (Ban QLDT tỉnh Điện Biên) Kết quả đào thăm dò hang Thẳm Tâu (Điện Biên) năm 2021 |
140 |
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG (Viện KCH), NGUYỄN QUANG BÁCH (BT. Hà Giang) Điều tra Khảo cổ học thềm sông Lô (huyện Bắc Quang, Hà Giang) |
143 |
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG (Viện KCH), ĐẶNG VĂN BẮC (BT. Hà Giang) Phát hiện di tích thềm sông Lô (huyện Vị Xuyên, Hà Giang) |
145 |
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG, NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG, LÊ THỊ LIÊN, TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN (Viện KCH) Đồ đá di tích Mái đá Phứng Quyền (Hòa Bình) |
149 |
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG (Viện KCH) Một số hiện vật lẻ tẻ trong Bảo tàng Hà Giang |
152 |
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG (Viện KCH) Sưu tập rìu bôn (Tuyên Quang) |
154 |
|
NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG (Viện KCH) Sưu tập rìu bôn thôn Sửu (Hà Giang) |
155 |
|
NGUYỄN LÂN CƯỜNG (Hội KCH), LƯU THỊ HẢI ANH, LƯỜNG NGỌC ÁNH, NGÔ HẢI YẾN (BT. Sơn La) Di cốt người hang Tắng (Sơn La) thám sát năm 2020 |
159 |
|
NGUYỄN ANH TUẤN, LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH), LÒ VĂN THANH (BT. Sơn La) Mộ táng và di cốt động vật ở mái đá Bản Mòn, khai quật năm 2021 |
163 |
|
LÊ HOÀNG QUỐC (BT. Hóa thạch Hà Nội), LÙ VĂN BÌNH Phát hiện di tích cổ sinh ở xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La |
165 |
|
LÊ HOÀNG QUỐC (BT. Hóa thạch Hà Nội), PHẠM KHẮC CHUNG (Hội KCH), LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH) Phát hiện xương răng động vật hóa thạch ở di tích chùa Hang (Hòa Bình) |
167 |
|
LÊ HOÀNG QUỐC (BT. Hóa thạch Hà Nội), LIM TZE TSHEN (ĐH Malaya) và nhóm cộng sự Ghi nhận hóa thạch Đười ươi (Pongo) tại di tích hang Ma Ươi - Hòa Bình |
169 |
|
LÊ HOÀNG QUỐC (BT. Hóa thạch Hà Nội), ZHANG HANWEN (ĐH Bristol) Ghi nhận về cổ động vật đệ tứ trong trầm tích sông ở Việt Nam |
173 |
|
NGUYỄN LÂN CƯỜNG, ĐỖ VĂN NHƯỢNG (Hội KCH) Vỏ nhuyễn thể ở di chỉ Hòn Hai Cô Tiên (Quảng Ninh) |
177 |
|
TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN (Viện KCH), NGUYỄN THỊ THI, NGUYỄN THỊ XUYẾN (BT. Hòa Bình) Di cốt người cổ tại di tích mái đá Phứng Quyền (Hòa Bình) |
180 |
|
TRƯƠNG HỮU NGHĨA, LÊ HẢI ĐĂNG (Viện KCH) Di cốt người cổ tại hang Ông Chung (Hòa Bình) |
182 |
|
TRẦN TRỌNG HÀ (Hội KHLS Quảng Ninh) Phát hiện một đôi cày bằng đá |
182 |
|
TRẦN VĂN XUYẾN (BT. Tuyên Quang) Sưu tập rìu đá vai vuông mới sưu tầm tại Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang |
185 |
|
LÊ XUÂN HƯNG (ĐH Đà Lạt), CAO BẢO LÂM, HOÀNG MẠNH DŨNG (Trường THPT Xuân Trường) Về chiếc rìu đá phát hiện ở thôn Trường Xuân 2, xã Xuân Trường, Tp. Đà Lạt |
185 |
|
K’THANH HIẾU (ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP Hồ Chí Minh) Một số hiện đá mới phát hiện trên địa bàn huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai |
188 |
|
NGUYỄN VĂN HẢO (Hội KCH) Thử bàn về con đường di cư của người cổ Đa Bút |
191 |
|
NGUYỄN KHẮC SỬ (Hội KCH), BÙI VĂN THỂ (Thuận Châu, Sơn La), LÒ VĂN THANH (BT. Sơn La) Sưu tập công cụ đá và đồng ở thị trấn Thuận Châu (Sơn La) |
194 |
|
ĐOÀN KHAI QUẬT DI CHỈ DỀN RẮN Kết quả khai quật di chỉ Dền Rắn (Hà Nội) năm 2020-2021 |
197 |
|
NGUYỄN THƠ ĐÌNH (Viện KCH), NGUYỄN THỊ MỸ LINH (ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội) Những dấu tích về nghề luyện đúc đồng tại di chỉ Dền Rắn (Hà Nội) |
204 |
|
THÂN THỊ HẰNG, NGUYỄN THỊ MAI OANH, NGUYỄN THỊ THANH HIẾU (Viện KCH) Phúc tra một số di tích Khảo cổ học thời tiền sử tại Hà Nội năm 2021 |
206 |
|
LÂM THỊ MỸ DUNG, NGUYỄN HỮU MẠNH, NGUYỄN VĂN THƯỞNG (ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội), LÝ MẠNH THẮNG (BT. Tuyên Quang) Kết quả khaiq uật di tích Thiện Kế (Tuyên Quang) năm 2020 |
209 |
|
CHU MẠNH QUYỀN (BT. LSQG), TRÌNH NĂNG CHUNG (Viện KCH) Phát hiện di tích Đông Sơn ở núi Tử Trầm (Hà Nội) |
212 |
|
LƯU VĂN PHÚ, TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN THƠ ĐÌNH (Viện KCH) Di tích mộ đất ở Giồng Cá Vồ qua cuộc khai quật lần 2 năm 2021 |
214 |
|
LƯU VĂN PHÚ, NGUYỄN VĂN MẠNH (Viện KCH), LƯƠNG CHÁNH TÒNG (BT. Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh) Báo cáo kết quả khai quật di tích Giồng Cá Vồ (Tp. Hồ Chí Minh |
217 |
|
NGUYỄN THỊ THANH DỊU (Viện KCH) Tia mặt trời và tượng động vật trên những chiếc trống loại III Heger công bố trong những phát hiện mới về Khảo cổ học từ năm 1974-2019 |
222 |
|
NGUYỄN THỊ HẬU, TRẦN ĐỨC LỘC (ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP Hồ Chí Minh) Thăm dò di tích Giồng Cá Vồ (TP.HCM) năm 2021 |
224 |
|
NGUYỄN THỊ THANH DỊU, LÊ NGỌC HÂN (Viện KCH) Những trống đồng có trang trí hình rồng ở Hòa Bình, Thanh Hóa và Nghệ An |
227 |
|
NGUYỄN THƠ ĐÌNH (Viện KCH), CHU THỊ HOA (Ban QLDT Cổ Loa) Khuôn đúc mũi tên đồng Cổ Loa và giả thuyết về quy trình đúc mũi tên Cổ Loa. |
231 |
|
NGUYỄN THƠ ĐÌNH (Viện KCH), PHẠM TUẤN LÂM, LÊ VÂN TRANG (BT. Ninh Bình) Sưu tập trống đồng tại Bảo tàng Ninh Bình |
234 |
|
NGUYỄN THƠ ĐÌNH (Viện KCH) Sưu tập trống đồng tại Bảo tàng Điện Biên và Sơn La |
236 |
|
NGUYỄN THỊ HẢO (Viện KCH) Thành phần khoáng vật trên gốm xốp Tràng Kênh (Hải Phòng) |
238 |
|
NGUYỄN THỊ HẢO (Viện KCH), TRẦN THỊ NGỌC BÍCH (ĐH Trà Vinh) Góp thêm tư liệu về môi trường giai đoạn sớm tại di tích Tràng Kênh (Hải Phòng) và Đầu Rằm (Quảng Ninh) |
240 |
|
NGUYỄN THỊ THÚY (Viện KCH), HOÀNG THÚY QUỲNH (ĐHQG Hà Nội) Gốm xốp kiểu Hạ Long trong sưu tập hiện vật Trại Ổi |
242 |
|
HOÀNG HUYỀN, BÙI THỊ LUẬN (BT. Cổ vật Đông Sơn) Trang sức văn hóa Đông Sơn mới sưu tầm |
243 |
|
NGUYỄN HÒA (BT. Yên Bái) Bảo tàng Yên Bái sưu tầm được 03 chiếc chuông đồng Đông Sơn (huyện Văn Yên) |
245 |
|
NGUYỄN THỊ NGÀ (TT QLBTDSVH Hội An), PHAN NGỌC BÍCH, TRẦN VĂN ĐỨC (BT. Quảng Nam) Phát hiện mộ chum tại thôn Lạc Câu (Quảng Nam) |
246 |
|
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG (Viện KCH), BÙI XUÂN TÙNG (ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội) Kết quả phân tích phấn hoa di chỉ Gò Dền Rắn (Hà Nội) |
251 |
|
LƯU VĂN PHÚ, TRƯƠNG HỮU NGHĨA (Viện KCH), NGÔ HỮU ĐỨC (BT Lịch sử TP. Hồ Chí Minh) Loại hình mộ chum gốm ở di tích Giồng Cá Vồ qua kết quả khai quật năm 2021 |
254 |
|
TRỊNH SINH (Hội KCH), PHẠM LÊ TRUNG (ĐH Văn hóa Hà Nội) Kỹ thuật đúc trống Hải Bối |
259 |
|
TRỊNH SINH (Hội KCH), PHẠM LÊ TRUNG (ĐH Văn hóa Hà Nội) Trống đồng mới phát hiện ở Timor Leste |
261 |
|
TRỊNH SINH (Hội KCH), PHẠM LÊ TRUNG (ĐH Văn hóa Hà Nội) Tục thờ rắn của người Việt cổ |
264 |
|
LƯƠNG CHÁNH TÒNG (BT. Lịch sử Tp Hồ Chí Minh) Về nhóm di vật mới phát hiện tại khu vực Giồng Cá Vồ (xã Long Hòa, Cần Giờ, Tp Hồ Chí Minh) |
268 |
|
NGUYỄN NGỌC TÂN (Hà Nội) Phát hiện dao găm đồng (Quảng Ninh) |
270 |
|
PHẠM BẢO TRÂM (BT. Đắk Lắk), LÊ XUÂN HƯNG (ĐH Đà Lạt) Sưu tập vòng đồng phát hiện trong trống đồng ở Bảo tàng Đắk Lắk |
271 |
|
PHẠM BẢO TRÂM (BT. Đắk Lắk), LÊ XUÂN HƯNG (ĐH Đà Lạt), TRẦN THỊ CẨM Linh (BT. Phú Yên) Về chiếc trống đồng phát hiện ở Đắk Lawsk đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Phú Yên |
274 |
|
NGUYỄN THANH HIỀN, NGUYỄN THỊ HỒNG (BT. Gốm Tam Thọ) Những hiện vật văn hóa Đông Sơn (Thanh Hóa) |
277 |
|
HOÀNG THỊ VÂN (BT. Thanh Hóa) Về hai trống đồng mới phát hiện ở Thanh Hóa |
279 |
|
NGUYỄN VĂN HẢO (Hội KCH) Quanh chiếc trống đồng mới phát hiện ở Vĩnh Phúc |
282 |
|
TRƯƠNG PHƯƠNG THẢO (BT. Thanh Hóa) Những chiếc chậu trống ở Bảo tàng cổ vật Đông Sơn |
283 |
|
LÝ KIM KHOA (BT. Yên Bái) Phát hiện thạp đồng và mũi tên ở khu vực Tuần Quán (Yên Bái) |
286 |
|
LÝ KIM KHOA (BT. Yên Bái) Nhóm đồ đồng mới phát hiện ở huyện Văn Yên (Yên Bái) |
288 |
|
BÙI THỊ TUYẾT (Sở VH,TT&DL Thanh Hóa) Hai trống đồng loại II mới phát hiện ở Thanh Hóa |
289 |
|
BÙI THỊ TUYẾT (Sở VH,TT&DL Thanh Hóa) Nhóm vũ khí đồng (Thanh Hóa) |
291 |
|
NGUYỄN THANH, HOÀNG HUYỀN (BT. Cổ vật Đông Sơn) Những hiện vật văn hóa Đông Sơn ở Thanh Hóa |
294 |
|
ĐÀO HUYỀN LƯƠNG, NGUYỄN THANH (BT. Cổ vật Đông Sơn) Phát hiện về đồ đồng ở Thanh Hóa |
297 |
|
NGUYỄN ĐỨC LONG (BT. Hà Nội) Luận bàn về hình chim lạc trên trống đồng Đông Sơn |
300 |
Trang
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9021538
Số người đang online: 29