- Nxb: Hà Nội
- Năm xb: 2021
- Khổ sách:16 x 24cm
- Số trang: 254 tr
- Hình thức bìa: mềm
Tháng 12 năm 1994, nhà xuất bản Association de l'Archipel tại Paris phát hành tuyển tập thứ 25 của hội, cuốn sách biên khảo song ngữ Pháp-Việt, tựa đề Phan Huy Chú - Hải Trình Chí Lược -Récit sommaire d'un voyage en mer 1833- do Phan Huy Lê, Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu. Ðây là một công trình biên khảo nghiêm túc hiếm có, với sự cộng tác Pháp Việt.
Cuốn sách chia làm ba phần:
- Phần đầu về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Huy Chú.
- Phần thứ nhì về Nhãn quan phái viên đi Hạ Châu.
- Phần thứ ba là bản dịch tập du ký Hải Trình Chí Lược của Phan Huy Chú, với phần chú giải quan trọng.
Về phần nhãn quan của phái viên đi Hạ Châu, các dịch giả và soạn giả dẫn giải về bối cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế và địa lý của các chuyến đi sứ dưới thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ đời Minh Mạng, về vùng Hạ Châu, tức là vùng Nam Dương quần đảo. Vì chuyến đi Âu Châu năm 1840 đã không thành công, các sứ giả không được Paris và Luân Ðôn tiếp kiến, nên triều đình Huế đã phái người đi Hạ Châu để tìm hiểu những hoạt động kinh tế, chính trị và quân sự của Tây phương.
Trong phần dịch Hải Trình Chí Lược, người đọc được biết về nội dung chuyến đi, qua lời tường thuật của học giả Phan Huy Chú. Lộ trình bắt đầu từ Ðà Nẵng, qua Ðèo cả, xuống Mũi Né - Phan Thiết, tới Singapour tức Tân Gia Ba, rồi dọc theo đảo Sumatra tới thủ đô Batavia nằm trên đảo Java. Và người đọc còn được mở rộng tầm nhìn về bối cảnh lịch sử và văn hóa Việt Nam trong sự giao tiếp giữa Việt Nam và các vùng lân cận, ở thế kỷ XIX.
Sau cùng là những địa đồ, tranh ảnh, minh họa được lựa chọn kỹ càng cho cuốn sách. Ðiều mà chúng ta thường thấy rất thiếu trong các công trình nghiên cứu sử địa của Việt Nam từ trước đến giờ.
Một trong những đóng góp đáng chú ý của Phan Huy Chú đối với văn xuôi ghi chép là tập Hải trình chí lược. Ở tập ký này Phan Huy Chú ghi lại hành trình (một dạng kỷ hành văn) trên biển của ông trong chuyến đi công cán để chuộc tội sang Tân Gia Ba và Giang Lưu Ba năm 1832, cố gắng tả thật đúng những cảnh sắc núi sông và các sự tình xảy ra trong cuộc lữ hành, cả những ấn tượng của tác giả trước một thế giới đầy mới lạ…Qua những điều tai nghe mắt thấy, Phan Huy Chú đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết về vùng Singapo thuộc Anh và Inđônêxia thuộc Hà Lan ở nửa đầu thế kỷ 19: từ những tri thức về địa lý tự nhiên đến những thể chế hành chính, phong tục tập quán, công nghiệp, thương nghiệp, tình hình kinh tế chính trị, cả về vấn đề ngôn ngữ cũng như về một số thắng cảnh. Hơn nữa, là một trí thức Nho học có trình độ hiểu biết sâu về lịch sử, văn hóa Trung Hoa, tại những vùng đất xa lạ trong hành trình của mình, Phan Huy Chú đặc biệt suy nghĩ và chú ý ghi chép về những tiến bộ kỹ thuật, về ứng xử văn hóa rất khác với thế giới Việt Nam - Trung Hoa mà ông đã quen thấy trước đây. Vì thế những ghi chép của ông không những cho thấy các mối quan hệ chính trị, ngoại giao, buôn bán giữa triều NGuyễn và các nước trong khu vực, mà còn phản ánh khá rõ những nhận thức của trí thức Việt Nam lúc bấy giờ về một thế giới mới ở Đôg Nam Á có sự hiện diện cuộc sống và các hoạt động giao thương của người Anh, người Hà Lan phương Tây.
Hành trình chí lược được coi là một trong những tác phẩm ký văn xuôi chữ Hán đã ghi lại được những bước đi đầu tiên của dân tộc Việt Nam trong tiến trình nhận thức châu Âu. Nó đồng thời có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu lịch sử phát triển thể văn này vừa có ý nghĩa trong việc xem xét mối quan hệ của Việt Nam trong giao lưu văn háo, văn học với châu Âu ở những bước khởi đầu.
Xin trân trọng giới thiệu!
- Năm xuất bản: 2022
- Khổ sách: 16 x 24cm
- Nxb: Đại học sư phạm
- Hình thức bìa: mềm
- Số trang: 248tr
Nhân dịp kỉ niệm 105 năm ngày sinh của Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông (20/11/1916 – 20/11/2021), hướng tới tổ chức xây dựng Tủ sách Phạm Huy Thông và tiếp tục giới thiệu những công trình khảo cổ học có giá trị đến bạn đọc, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm trân trọng giới thiệu ấn bản Hang Con Moong (Con Moong Cave). Nội dung cuốn sách được cập nhật và bổ sung nhiều tư liệu mới từ bản in lần đầu năm 1990 (do Viện Khảo cổ học tổ chức xuất bản). Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu bền bỉ, công phu, với tinh thần nghiêm túc trong khoa học của Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông cùng các cộng sự, góp phần đem lại những cứ liệu mới và làm sáng tỏ giả thuyết của giới khảo cổ học đương thời về tiền sử Việt Nam.
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông là một nhà trí thức uyên bác và tài hoa trên nhiều lĩnh vực, từ thi ca đến sử học, khảo cổ học. Với uy tín cao về chuyên môn, ông từng giữ nhiều trọng trách như: Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956 – 1967), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1968 – 1988), Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) (1976 – 1988), Viện sĩ nước ngoài của Viện Hàn lâm khoa học Cộng hoà Dân chủ Đức (năm 1987),... Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về cụm công trình nghiên cứu khảo cổ (Hang Con Moong, Trống đồng Đông Sơn và 4 bài dẫn luận trong các hội nghị về thời đại Hùng Vương). Di sản của Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông cùng các cộng sự rất đồ sộ, ông đã tổ chức nghiên cứu thành công nhiều đề tài như: Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỉ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần, Hang Con Moong..., góp phần đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có nền khảo cổ học lớn mạnh ở Đông Nam Á. Thông qua các thành tựu nghiên cứu của Giáo sư, Viện sĩ Phạm Huy Thông cùng các cộng sự, bạn đọc trong và ngoài nước có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và tìm hiểu sâu hơn về các lĩnh vực khảo cổ học, sử học,... của Việt Nam.
Ngô Thị Nhung
- Nxb: Hội Nhà văn Việt Nam - 2018
- Khổ sách: 25 x 25cm
- Hình thức bìa: cứng
- Số trang: 93tr
Trong lòng đất của Kinh thành Sư tử - Simhapura, Trà Kiệu thuộc vương quốc cổ Chiêm Thành/Chăm-pa vẫn còn ẩn giấu nhiều bí ẩn lịch sử, mặc dầu những cuộc khai quật khảo cổ học tại đây từ những năm 1927-1928 và trong những thập niên qua đã hiện lộ nhiều kết quả thú vị.
Trong những năm 1980, cư dân Trà Kiệu đã tình cờ tìm thấy nhiều cổ vật trong kinh thành này; họ ưu ái dành tặng Cha quản xứ An-tôn Nguyễn Trường Thăng những gạch, ngói, tượng đá thu thập được trong khu vực quanh chân đồi Bửu Châu. Cũng tại khu vực này vào thập niên 1990, các cuộc khai quật khảo cổ học đã được tiến hành bởi những nhà khảo cổ học uy tín của các đại học University College London (Anh Quốc) và Waseda University (Nhật Bản). Kể từ đó, kinh đô một thời của vương quốc cổ Chăm-pa được đón nhận sự quan tâm rộng rãi bởi cộng đồng học giả quốc tế qua nhiều chuyên khảo về khảo cổ học, lịch sử và nghệ thuật được công bố trên các tạp chí khoa học.
Sưu tập của Linh mục An-tôn Nguyễn Trường Thăng tuy không nhiều và dĩ nhiên không có xuất xứ từ những cuộc khai quật khảo cổ học nhưng rất phong phú về thể loại và chất liệu; do đó chúng có thể được dùng để nghiên cứu đối sánh với những hiện vật phát lộ trong các cuộc khai quật chính quy nhằm góp phần tìm hiểu quá khứ sinh động của kinh thành Trà Kiệu.
Trong sưu tập này, những tác phẩm đáng quan tâm được kể đến là: Phần trên của một bức phù điêu thể hiện thẩn Shiva, phía sau có văn khắc bằng tiếng Chăm cổ, phát hiện tại thung lũng Chiêm Sơn Tây; phần dưới của nó được sưu tẩm từ thời Pháp thuộc, hiện nay được bảo quản tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm - Đà Nẵng; bức văn khắc này có niên đại vào giữa thế kỷ XV, cung cấp nhiều thông tin quan trọng vào giai đoạn cuối của vương quốc Chiêm Thành/Chăm-pa tại vùng Quảng Nam. Ngoài ra còn phải kể đến một hiện vật độc đáo khác, đó là đồng tiền vàng Dinar đúc vào đầu thế kỷ X, cho đến nay đó là đồng tiền Ả Rập duy nhất được tìm thấy tại Việt Nam.
Mong rằng quyển sách nhỏ được chính Linh mục An-tôn Nguyễn Trường Thăng biên soạn để giới thiệu bộ sưu tập giá trị của ông sẽ cung cấp thêm những thông tin cơ bản nhằm thu hút các giới thưởng ngoạn tìm đến chiêm ngưỡng và nghiên cứu thêm theo như tâm nguyện của ông.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
- Khổ sách: 20 x 28cm
- Hình thức bìa: cứng
- số trang: 400 tr
Bảo vật Quốc gia là diện mạo văn hóa của một đất nước, được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý hiếm, tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. Một hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia phải đáp ứng được một trong các tiêu chí:
1. Là hiện vật gốc độc bản;
2. Là hiện vật có hình thức độc đáo;
3. Là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu; hoặc là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng, nhân văn, giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; hoặc là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu, có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định; hoặc là mẫu vật tự nhiên chứng minh cho các giai đoạn hình thành và phát triển của lịch sử trái đất, lịch sử tự nhiên.
Luật Di sản Văn hoá (sửa đổi và bổ sung) quy định đối tượng có thể trở thành bảo vật quốc gia rất rộng. Đó có thể là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước, liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu; hoặc là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng, nhân văn, giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; hoặc là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu, có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất đị
Tính đến nay, sau 6 đợt, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận Bảo vật quốc gia cho 142 hiện vật, nhóm hiện vật. Mỗi bảo vật quốc gia đều chứa đựng những nét đẹp đa dạng, phong phú và tinh hoa bản sắc dân tộc, lịch sử của nước nhà, là những di sản quý giá cần được bảo tồn, gìn giữ, phát huy. Những hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia mang lại những giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử được Nhà nước Việt Nam bảo vệ và bảo quản theo chế độ riêng biệt.
Ngô Thị nhung
- Nxb: khoa học xã hội - 2020
- Khổ: 14 x 20
- Số trang: 430 tr
- Hình thức bìa: mềm
Việt Nam là một quốc gia sớm hình thành ở khu vực Đông Nam Á, en bờ Thái Bình Dương, có sự giao lưu kinh tế, văn hóa với khu vực và cả thế giới từ rất lâu đời.Dáng vóc văn minh ở đây biểu hiện một mặt là ở các làng xã cổ truyền và mặt khác là ở các đô thị cổ đã sớm có mặt trong lịch sử Việt Nam.
Công trình nhằm khảo tả và giới thiệu 13 đô thị cổ ra đời và phát triển trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ XIX ở Việt Nam về các mặt lịch sử; kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong các đô thị cổ được lựa chọn này, có đô thị đã xuất hiện từ rất sớm, nay đã bị mai một chỉ còn tồn tại như một xóm nhỏ. Có đô thị đã bị mai một hoàn toàn chỉ còn để lại một vài dấu tích trên mặt hoặc trong lòng đất. Nhưng cũng có đô thị tồn tại và liên tục phát triển cho đến ngày nay và trở thành đô thị hiện đại.
Xin trân trọng giới thiệu!
Nguồn. Nxb khoa học xã hội
- Hình thức bìa: mềm
Quan niệm nhỏ hẹp về kiến trúc, coi kiến trúc chỉ là nhà cửa, cung điện, lăng mộ, đền miếu đã được sửa chữa từ lâu về mặt lý luận, song thực tế, những công trình nghiên cứu kiến trúc cổ đại lại như chứng tỏ rằng đối tượng nghiên cứu chính vẫn không vượt được những công trình kiến trúc tôn giáo, cung điện và lăng mộ.
Thành lũy, một bộ phận quan trọng trong nền kiến trúc của bất kỳ dân tộc nào - ở góc độ nào đó lại là thành phần cực kỳ quan trọng, bởi vì trong xã hội có giai cấp, đỉnh cao của trình độ kỹ thuật mỗi thời thường trước hết được ứng dụng vào lĩnh vực quân sự - không thể nào vắng mặt trong nội dung nghiên cứu kiến trúc cổ đại.
Ở Việt Nam, những di tích kiến trúc quân sự cổ có rất nhiều trên mọi miền đất nước... rừng núi, đồng bằng, biên giới, hải đảo. Kể từ khi xuất hiện, trong lịch sử nước ta hầu như không thời nào không có. Công trình kiến trúc quân sự gồm nhiều loại hình khác nhau: đô thành, thành tỉnh, thành phủ, thành huyện, đồn bảo....
Xin trân trọng giới thiệu!
- Khổ sách: 16 x 24cm
- Hình thức bìa: cứng
Đền chùa, cung điện, biệt thự thời Pháp và những công trình kiến trúc Liên Xô, lịch sử Hà Nội từ xưa đến nay, từ vinh quang đến đau khổ, luôn diễn ra giữa hai thế giới Á, Âu. Sau một thời gian dài dưới chế độ Bắc thuộc, năm 1010, Thăng Long đã vươn mình bay lên. Trong các thế kỷ sau đó, qua những triều đại nối tiếp nhau, Thăng Long đã thực sự trở thành một kinh đô phát triển rực rỡ vào thế kỷ thứ XV, dưới thời Lê, đánh dấu đỉnh cao của Nhà nước Nho giáo. Trí thức và quan lại tấp nập ra vào trong triều, chi tiêu, mua sắm làm giàu cho khu thị dân, trong khi tiếng tăm của các viện sĩ thuộc Hàn lâm Viện lan rộng tới cả ngoại bang. Mặc dù luôn có những biến cố trong hoàng cung, kinh đô của Bắc Kỳ đã khắc sâu trong tâm tưởng của những lữ khách phương Tây bỏ neo bên bờ sông Hồng vào thế kỷ XVII. Rồi Hà Nội là thành phố của “ba sáu phố phường”, của những người buôn bán và thợ thủ công với những phố Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Trống, Hàng Giầy. Thành phố đánh mất vai trò thủ đô vào đầu thế kỷ XIX để rồi, trớ trêu thay, lại trở thành thủ đô dưới thời Pháp thuộc. Trong hơn nửa thế kỷ, Hà Nội là thủ phủ của toàn cõi Đông Dương. Giai đoạn này đã để lại cho Hà Nội những công trình hoành tráng, những biệt thự xinh đẹp giờ đây trở thành di sản của thành phố bên cạnh các làng, các phường, cùng đền chùa và Văn Miếu.
Xin trân trọng giới thiệu!
Nhà xuất bản: Khoa học xã hội - 2022
Số trang: 332tr
Khổ sách: 16 x 24
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cuốn sách được kết cấu thành 3 chương:
Chương I. Vài nét về giáo dục – khoa cử Nho học trong lịch sử Việt Nam và tiêu chí xác định làng khoa học
Chương này, nhóm tác giả khái quát về sự hình thành và phát triển của nền giáo dục Nho học cũng như giới thiệu các kỳ thi và khoa thi Nho học qua các triều đại. Điểm nổi bật là đã đưa ra khái niệm về làng khoa bảng và tiêu chí xác định làng khoa bảng, trong đó, “làng khoa bảng là những làng truyền thống của người Việt ở nông thôn có nhiều người theo đuổi việc học hành và đỗ đạt cao qua các kỳ thi Nho học của nhà nước quân chủ, tạo nên truyền thống hiếu học và khoa bảng qua nhiều thế hệ, hình thành những nét riêng về văn hóa và có sức sáng tạo rõ rệt”. Bên cạnh các tiêu chí định lượng về số lượng người đỗ đại khoa trở lên, nhóm nghiên cứu xem xét một số tiêu chí khác như truyền thống khoa bảng của dòng học, các điều kiện khuyến học và bồi dưỡng nhân tài tại các làng để xác định làng khoa bảng… Điểu hình là làng Hành Thiện (xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam định) tuy chỉ có 7 nguồi đỗ đại khoa nhưng có đến gần 400 người đỗ trung khoa…
Chương II. Khảo cứu một số làng khoa bảng
Dựa vào các tiêu chí được đặt ra đối với khu vực đồng bằng sông Hồng, nhóm nghiên cứu đã chọn ra mỗi tỉnh một làng để khảo cứu như: làng Mộ Trạch, làng Đông Ngạc, làng Quan Tử, làng Kim Đôi, làng Xuân Cầu và làng Hành Thiện. Các làng này đều có số lượng người đỗ đại khoa trên dưới 10 người, trong đó xuất hiện những dòng họ khoa bảng mà lớp lớp các thế hệ từ ông đến cháu, cha đến con, chú rồi cháu, anh rồi em… nối nhau đăng khoa để tạo nên mạch nguồn chảy mãi, duy trì truyền thống hiếu học của dòng họ. Ở mỗi làng khoa bảng, nhóm nghiên cứu đi sâu tìm hiểu đặc điểm, vị trí địa lý, truyền thống giáo dục và các yếu tố khác tác động đến nền giáo dục của làng góp phần bồi đắp, nuôi dưỡng những nhân tài đỗ đạt cao. Trong khi Làng Đông Ngạc là một làng cửa ngõ của Kinh đô, là nơi ít ruộng đất nên người dân lựa chọn theo con đường “đèn sách” để tiến thân, thay đổi cuộc sống, thì làng Kim Đôi, một làng khoa bảng xứ Bắc, có đặc điểm nổi bật là giáo dục gia đình, truyền thống này rất quan trọng, là nền tảng hình thành ý chí quyết tâm học hành đỗ đạt cho các con, cháu.
Chương III. Tổng luận về các làng khoa bảng Nho học ở đồng bằng sông Hồng
Trên cơ sở phân tích và khảo cứu tài liệu từ các công trình nghiên cứu trước đó, các tác giả chỉ ra những điểm chung, đặc điểm riêng của làng khoa bảng và những đóng góp của các nhà khoa bảng Nho học. Về điểm chung, đa số các làng khoa bảng có vị trí địa lý thuận lợi, cả về giao thông thủy và bộ, cả về vị trí gần trung tâm chính trị - giáo dục lớn. Đây là điều kiện cần để hình thành một làng khoa bảng. Việc gần trung tâm chính trị - giáo dục là điều kiện để các học trò tham kiến, học hỏi từ các bậc tiền nhân. Bên cạnh đó nhóm tác giả cũng chỉ ra những đặc điểm riêng biệt, là yếu tố then chốt hình thành truyền thống giáo dục khoa cử của làng mình. Nghiên cứu khẳng định, sự xuất hiện của các làng khoa bảng là hệ quả tất yếu của làng xã Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng trong khuôn khổ của chế độ quân chủ Việt Nam. Mục tiêu hướng tới của việc học hành và khoa cử, là động lực để các sĩ tử xả thân cho việc học. Chế độ “học quan” mà nhà nước quân chủ tạo ra đã góp phần tạo nên truyền thống hiếu học tại các làng quê; Các học trò đua nhau học, theo nhau “dùi mài kinh sử”, đồng thời cha mẹ cố gắng làm lụng vất vả, dành dụm tiền gạo cho con em ăn học, đi thi và thi đỗ ra làm quan, mong được thay đổi thân phận gia đình.
Cuối cùng, nhóm nghiên cứu khẳng định, trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập, việc mở mang, phát triển đất nước để phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế tri thức. Muốn có tri thức thì cần phải học hỏi, và kinh nghiệm học được từ lịch sử đó là phát huy truyền thống hiếu học, chính là khuyến học. Ngày nay, trong nhiều dòng họ cũng có các hình thức Khuyến học như tặng phần thưởng cho các con em đạt học sinh giỏi, đỗ đại học hoặc đạt học vị cao….và hình thức khuyến học này được duy trì từ trung ương tới địa phương thông qua hội Khuyến học.
Cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả không chỉ thể hiện qua bố cục nội dung, cách phân tích, kế thừa các nghiên cứu đi trước mà còn có sự tổng hợp, thống kê các dữ liệu về danh sách cá nhân đạt học vị cao ở các làng khoa bảng. Những thông tin này rất hữu ích đối với các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu giáo dục và những độc giả quan tâm tới các làng khoa bảng Nho học nói chung và làng khoa bảng ở đồng bằng sông Hồng nói riêng.
Xin trân trọng giới thiệu!
- Nxb: Trẻ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Viện viễn đông bác cổ pháp
- Khổ sách: 16 x 24cm
- Số trang:
- Hình thức bìa: mềm
Cuốn sách Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Pierr Gourou nghiên cứu về châu thổ sông Hồng, một châu thổ vào loại đông dân nhất thế giới, cái nôi của nền văn minh Việt Nam, là một tác phẩm đặc sắc nghiên cứu về địa lý, nhân văn. Mặc dù sách đã xuất bản (nguyên bản tiếng Pháp) từ các năm 30 của thế kỷ trước nhưng đến nay sau hơn 70 năm, nó vẫn còn nguyên tính thời sự… Bởi lẽ dù vùng đất này đã có nhiều biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội nhưng vẫn còn lưu giữ được những nét cơ bản cho đến tận ngày nay. Cần biết thêm đôi điều về tác giả: Pierr Gourou là thạc sỹ sử học và địa lý học, tiến sỹ văn chương, ủy viên thông tấn Viện viễn đông bác cổ Pháp. Ông đã thực hiện nhiều cuộc điều tra trên thực địa, tiếp xúc với nông dân, chú ý đến cấu trúc gia đình, tín ngưỡng tôn giáo… và có lẽ nhờ vậy, những công trình nghiên cứu của ông là một phương thức đóng góp cho sự phát triển đi lên của các nước nghèo.
Xin trân trọng giới thiệu!
Nhà xuất bản: NXB Khoa Học Xã Hội - 2022
Kích thước: 16x24 cm
Số trang: 300 trang
Hình thức: Bìa mềm
Chuyên khảo Đàn đá Việt Nam do hai tác giả PGS.TS. Nguyễn Giang Hải và PGS.TS. Phạm Đức Mạnh thực hiện, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Việt Nam ấn hành. Đây là cuốn sách chuyên khảo nhằm tập hợp và hệ thống hóa toàn bộ tư liệu về Đàn đá phát hiện ở Việt Nam từ trước tới nay; xác định không gian phân bố và truyền thống phát triển của Đàn đá Việt Nam đồng thời xác định niên đại, giá trị lịch sử di vật Đàn đá trong bối cảnh phát triển của lịch sử vùng đất Nam Bộ, Nam Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Nghiên cứu quy trình chế tác Đàn đá thông qua: chất liệu đá được sử dụng; các chỉ số đo lường với từng thanh đàn; so sánh với từng sưu tập và nhiều sưu tập khác nhau; kỹ thuật ghè đẽo trên tất cả các sưu tập. Kết hợp giữa nghiên cứu kỹ thuật chế tác đá và phân tích tần số âm thanh ( sử dụng kết quả đo đạc và nghiên cứu của các nhà âm nhạc học) để phân định truyền thống phát triển của nhóm Đàn đá và xác định giá trị lịch sử - văn hóa của các loại hình di vật này trên cả hai hướng tiếp cận: nghiên cứu khảo cổ học và cổ âm nhạc học. Kết quả nghiên cứu kỹ thuật học là cơ sở dữ liệu xác lập và phân loại chức năng giữa nhóm Đá kêu và Đàn đá…
Xin trân trọng giới thiệu!