Hoàng thành Thăng Long - từ góc độ Khảo cổ học

 

 

 Các cuộc khảo cổ trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ XX đã góp phần xác định được trung tâm, quy mô của Hoàng thành và phác họa đặc điểm của nghệ thuật Thăng Long qua các thời kỳ.

alt

Một số di vật được khai quật tại khu vực Hoàng thành Thăng Long.

Muốn tìm dấu tích Thành Thăng Long, ta chỉ còn có một cách duy nhất là khảo cổ học. Nhưng khảo cổ học ở một vùng đất như Thủ đô Hà Nội hiện là rất khó khi mà thành phố hiện đại được xây dựng từ cuối Thế kỷ XIX đã trùm lên Kinh đô cổ.

Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm của Nhà nước, trong khoảng ba thập kỷ (1970–2000 – BT), các cơ quan khảo cổ học Việt Nam (Viện Khảo cổ học, Khoa Lịch sử thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) và Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã cố gắng len lỏi từng mét vuông, từng khoảng đất nhỏ để tiến hành công việc thăm dò, khảo sát, khai quật.

Đặc biệt nhân dịp kỷ niệm Thăng Long 990 tuổi, khi Nhà nước trao một phần khu Thành cổ cho Hà Nội, Hà Nội đã tạo điều kiện cho Viện Khảo cổ học được khai quật bước đầu ở 3 vị trí hết sức quan trọng là Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu Lâu và một số vị trí khác. Kết quả của các cuộc khai quật là hết sức khả quan.

Dưới đây xin điểm lại các thành tựu chính của các cuộc khai quật và suy nghĩ của chúng tôi về Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê được gợi lên qua các tài liệu khai quật khảo cổ học.

1. Địa điểm Đoan Môn

Đây là một cổng chính của Thành Thăng Long. Nó có từ thời Lý - Trần, nhưng dấu vết hiện còn là của thời Lê (có thể là Lê sơ) và đã được thời Nguyễn và thời nay tu sửa.

Tháng 10 năm 1999, Viện Khảo cổ học và Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã thám sát và khai quật ở đây 2 hố với tổng diện tích là 85,20m2…

- Tại hố đào ở phía Bắc Đoan Môn, ở độ sâu 1,20m, đã tìm thấy sân nền được lát gạch vồ thời Lê và gồm có 9 hàng, ôm khít chân tường Đoan Môn, trong đó hàng ngoài cùng lát phẳng tạo thành đường đi, các hàng trong lát chéo cao dần lên tạo nền móng vững chắc để xây tường gạch bên trên.

Thăm dò các vị trí khác quanh chân tường Đoan Môn đều thấy có đường viền lát đá này.

Đường đá lát và sân gạch này theo chúng tôi là thuộc thời Lê (có thể được bắt đầu từ thời Lê sơ). Nó được nhà Nguyễn tiếp thu và sửa sang tu bổ. Vào thời Pháp thuộc, cuối Thế kỷ XIX, nó đã bị san lấp khoảng 1m để xây cất các công trình khác. Nếu trong tương lai, ta làm phát lộ toàn bộ ở độ sâu 1m sẽ khôi phục lại được cốt nền của thời Lê với đường viền lát đá còn khá nguyên vẹn và sân nền gạch cổ lát bằng gạch vồ.

Ở độ sâu 1,90m đã gặp một đoạn đường đi được lát bằng gạch bìa nằm ở chính giữa cửa Đoan Môn và chạy dài theo hướng Bắc - Nam dài 15,80m.

Cấu trúc của con đường gồm có 3 phần: móng đường, nền đường và mặt đường.

- Phần móng ở vị trí hố giám sát được tạo bởi 12 lớp gồm nhiều loại vật liệu khác nhau (sỏi, gạch ngói vỡ, bao nung gốm v.v…) tạo thành một lớp móng dày 0,86m rất chắc chắn.

- Phần nền được tạo bởi 5-6 lớp gạch chồng lên nhau.

- Phần mặt đường gồm có hai đường biên và lòng đường. Hai đường biên được tạo bởi gạch và ngói xếp thành các ô hình hoa chanh cách điệu. Lòng đường rộng 1,30m đã bị phá hủy hết chỉ còn sót các mảnh gạch lát hình vuông trang trí hoa cúc dây.

Căn cứ vào cấu trúc tầng văn hóa, vật liệu kỹ thuật xây dựng và nhất là so sánh cấu trúc hình hoa chanh trong kiến trúc gạch thời Trần ở Tam Đường, Tức Mặc, chúng tôi cho rằng đây là con đường đi có từ thời Trần, có sử dụng lại gạch thời Lý và gạch thời Bắc thuộc. Do có ngói Lý, ngói Trần phủ lên trên chúng tôi cũng dự đoán rằng có thể con đường này có mái che.

Dự đoán rằng có thể con đường đang phát triển về hướng Điện Kính Thiên. Vết tích con đường có còn hay không thì chỉ có các cuộc khai quật sắp tới mới có thể trả lời được. Và nếu đúng là một con đường đi từ Đoan Môn đến Điện Thiên An thời Trần thì sẽ trả lời và minh chứng cho một vấn đề khoa học khác rằng Điện Kính Thiên thời Lê đã dựa trên nền cũ của Điện Thiên An (hay Điện Càn Nguyên) của thời Lý và thời Trần.

2. Địa điểm Bắc Môn

 

alt

Bắc Môn

Bắc Môn là cổng thành phía Bắc của Thành Hà Nội thời Nguyễn. Tại đây, Viện khảo cổ học và Sở Văn hóa thông tin Hà Nội đã khai quật hai hố với tổng diện tích là 60,40m2. Tại phía Tây của Bắc Môn đã tìm thấy một phần móng nền của một kiến trúc thời Lê. Do hố đào nhỏ cho nên chưa thể biết kích thước của kiến trúc, chỉ biết rằng kiến trúc này có một phần móng được lót đá và gạch vồ, phần trên được xây dựng hoàn toàn bằng gạch vồ và có giật cấp thu dần vào.

Ở hố phía Nam Bắc Môn đã tìm thấy một nền móng hay tường kiến trúc khác cũng được lót móng bằng đá xanh trên xây gạch vồ, phía ngoài, phía trong được nhồi chặt bằng gạch vụn. Vết tích kiến trúc này nằm hẳn dưới kiến trúc Bắc Môn.

Dưới các viên đá xanh lót mỏng, còn có một lớp móng khác dày 1,15m được xây bằng gạch vồ và gạch vụn nện chặt không thấm nước.

Hai kiến trúc này đều có niên đại Lê. Mặc dù diện đào nhỏ, không rõ tính chất và quy mô của các kiến trúc, nhưng các vết tích này đem lại các nhận thức khác về Thăng Long ở khu vực này. Vị trí này chưa thấy xuất hiện vết tích kiến trúc Lý và Trần. Trái lại, thời Lê lại xây dựng khá nhiều và hết sức kiên cố. Sự kiên cố đó một mặt phản ánh một đặc trưng của kiến trúc Lê, một mặt có thể đoán là vị trí này khá gần sông Tô Lịch cho nên phần móng phải được gia cố chắc chắn hơn.

Nếu so sánh với bản đồ Thăng Long thời Lê - Hồng Đức, ta sẽ thấy khu vực này trên bản đồ không vẽ kiến trúc gì cả. Điều đó có nghĩa là bản đồ này tính ước lệ rất lớn và khi khai quật khảo cổ theo diện rộng chắc chắn sẽ điền thêm được nhiều điểm mới lên bản đồ Hồng Đức.

3. Địa điểm Hậu Lâu

Hậu Lâu (7 Hoàng Diệu) là tên một kiến trúc thuộc thành cổ thời Nguyễn đã được xây sửa thời Pháp thuộc. Vị trí này ở phía sau Điện Kính Thiên.

Năm 1998, Viện Khảo cổ học và Ban quản lý Di tích Danh Thắng Hà Nội đã khai quật 206m2, kết quả như sau:

Ở độ sâu 3,20m đã tìm thấy một móng nền của một cầu bến ven sông hoặc ven hồ. Móng nền này được cất bằng vật liệu đá thời Lý, gạch thời Lê và có niên đại khoảng thời Lê sơ (Thế kỷ XV).

Ở độ sâu 1,15m -1,35m đã tìm thấy vết tích của 3 mảng nền kiến trúc đều được xây cất bằng gạch vồ và đá có niên đại Lê Trung Hưng.

Toàn bộ vết tích các di tích kiến trúc và di vật ở đây cho phép hình dung cảnh quan và sự thay đổi của kiến trúc thời Lê ở đây như sau:

Theo sử cũ phía sau Điện Kính Thiên là nơi nghỉ ngơi của Vua và Hoàng tộc. Vào thời Lê sơ, ở vị trí hố đào là sông (hay hồ ao) và đã xây một cầu bến lớn. Bên cạnh cầu bến lớn, đã tìm thấy một bộ sưu tập bát đĩa men trắng cao cấp có trang trí rồng rất đẹp được Việt Nam sản xuất chỉ dành riêng cho Hoàng cung với nhiều xương thú, xương cá. Đó chính là đồ dùng của Hoàng cung.

Vào thời Lê Trung Hưng toàn bộ khu vực này sau bị lấp bằng gạch ngói thời Lê sơ có trang trí rồng và hoa lá. Sau khi lấy lấp đoạn sông (hay hồ) này, thời Lê Trung Hưng đã xây nhiều kiến trúc khác lên trên.

4. Địa điểm Văn Miếu

Địa điểm Văn Miếu được Viện Khảo cổ học và Trung tâm văn hóa Văn Miếu - Quốc Tử Giám thám sát 50m2. 

Kết quả đã tìm thấy 22.583 di vật gồm vật liệu kiến trúc, đồ gốm, tiền đồng, các mảnh sắt, gỗ, vỏ ốc, đá, v.v… có niên đại từ thời Bắc thuộc, thời Lý đến thời Nguyễn. Sử ghi chép rằng Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070. Nhưng  trên mặt đất hiện nay chỉ có vết tích của Văn Miếu Lê và Nguyễn. Việc tìm thấy các vật liệu xây dựng như gạch ngói có trang trí rồng, phượng thời Lý đã chứng minh sự ghi chép của sử cũ rằng Văn Miếu đã được xây dựng dưới thời Lý.

5. Khu vực Lăng Bác

Trong quá trình thi công xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1975, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy vết tích thành cổ thời Bắc thuộc, vết tích phía Tây của tòa Thành Hà Nội đầu thời Nguyễn.

Ngoài ra, còn rất nhiều gạch gốm đều có từ thời Bắc thuộc, gạch “Long Thụy Thái Bình” thời Lý.

Vị trí này cho phép suy nghĩ về ranh giới phía Tây của Thành Thăng Long.

6. Địa điểm số 5 Hoàng Diệu

Đã được Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Ban quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội thăm dò năm 1988.

Vị trí này chưa tìm thấy vết tích kiến trúc nhưng đã tìm thấy nhiều vật liệu xây dựng và gốm sứ từ thời Bắc thuộc đến thời Nguyễn. Đáng chú ý ở đây đã tìm thấy một mảnh đầu của con Sấu thần thời Lý gần tương tự như con Sấu Lý trên thành bậc kiến trúc tìm thấy ở Bách Thảo thời Pháp.

 

7. Khu vực Quần Ngựa

Khu vực này vốn đã được nghiên cứu từ thời Pháp thuộc và có tới hàng nghìn di vật từ thời Bắc thuộc đến thời Nguyễn được tìm thấy ở đây.

Nơi đây đã được nhiều cơ quan như Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Khoa Lịch sử (Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với Sở văn hóa Thông tin Hà Nội nghiên cứu. Các địa điểm được thăm dò gồm có khu vực Núi Cung, Đồng Gạch, Đồng Giếng, Quần Ngựa, Chùa Chân Giáo, v.v…

Các di vật tìm thấy cũng như vết tích kiến trúc cho phép nghĩ rằng khu vực này không có kiến trúc lớn và nằm ở phía ngoài của Thành Thăng Long và đây là khu sống và lao động của các tầng lớp bình dân có xen lẫn một số kiến trúc.

8. Địa điểm Giảng Võ

Địa điểm này được phát hiện năm 1983 trong quá trình xây dựng Hồ Ngọc Khánh. Viện Khảo cổ học, Sở Văn hóa Thông tin và Phòng Văn hóa Thông tin Quận Ba Đình tiến hành nghiên cứu thu hồi di vật và đo vẽ vết tích kiến trúc.

Kết quả đã thấy vết tích của một nền kiến trúc dài 30m, rộng 8m.

Đặc biệt đã thấy một sưu tập hiện vật lớn gồm 507 di vật trong đó có 433 di vật là vũ khí gồm: giáo, câu liêm, đinh ba, qua, kiếm, lao, mũi tên, móc câu, chông, súng lệnh, đạn đá, v.v…

Ví trí này góp phần nghiên cứu Điện Giảng Võ thời Lê và cung cấp một bộ sưu tập vũ khí lớn, phong phú nhất thời Lê.

9. Địa điểm 11 Lê Hồng Phong

Năm 1996, trong quá trình thi công xây dựng Trung tâm Hội nghị Quốc tế, đã phát hiện nhiều di vật.

Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Hà Nội đã tiến hành khai quật ngay.

Tuy diện tích khai quật còn sót lại rất nhỏ hẹp nhưng đã tìm thấy được một sưu tập lớn các di vật kiến trúc thời Lý chứng tỏ nơi đây có một kiến trúc lớn thời Lý.

10. Địa điểm ngã tư Hàng Đường - Hàng Cá và Ngõ Gạch

Năm 1980, khi thi công xây dựng đường nước tại vị trí này đã chạm vào một kiến trúc đá ở độ sâu 1m. Dưới các tấm đá lát là các hàng gạch vồ xây xếp rất đẹp. Ống dẫn nước đã nằm lên trên kiến trúc này. Vị trí này được đoán có thể là vết tích Cầu Đông nổi tiếng ở phía Đông Thành Thăng Long.

11. Địa điểm Trung tâm Thương mại Tràng Tiền

Năm 2000, khi thi công xây dựng Trung tâm Thương mại Tràng Tiền, Viện Khảo cổ học và Ban quản lý Di tích và Danh Thắng đã được phép thăm dò ở đây 115m2.

Kết quả đã tìm được một khối lượng lớn di vật, trong đó chủ yếu là gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản từ Thế kỷ XVII - XVIII. Điều đó cho thấy, vào thời gian này từ Thế kỷ XVII - XVIII, đây là nơi tụ cư đông và buôn bán khá sầm uất.

12. Địa điểm 47 Hàng Dầu

Địa điểm 47 Hàng Dầu, trước khi thi công xây nhà, Viện Khảo cổ học và Sở Văn hóa Thông tin đã thăm dò trước.

Địa điểm Chợ Hôm, khi đào móng xây dựng, công nhân đã thu gom đồ gốm sứ lại và báo cho Viện Khảo cổ học đến nghiên cứu.

Tính chất khảo cổ học nơi đây đều tương tự như địa điểm Tràng Tiền. Điều đó chứng tỏ từ Hồ Hoàn Kiếm xuống Chợ Hôm đều là khu dân cư và các điểm trao đổi buôn bán của Thăng Long Thế kỷ XVII - XVIII.

Các nghiên cứu đó rải rác ở nhiều địa điểm, nhiều thời gian khác nhau, mỗi địa điểm có một đóng góp riêng mà tóm lại bước đầu đã đạt được kết quả đáng khích lệ như sau:

1. Đã góp phần chứng minh được rằng trung tâm của Hoàng Thành - Thăng Long thời Lý - Trần - Lê ở là khu vực Thành cổ Hà Nội mà tâm điểm là Điện Kính Thiên.

Kết hợp với tư liệu các di tích và văn bia trên mặt đất có thể xác định được tương đối chính xác quy mô của ba vòng Thành Thăng Long bao bọc lẫn nhau gồm Cấm Thành, Hoàng Thành và La Thành.

2. Đã hiểu được sơ bộ các đặc điểm của nghệ thuật Thăng Long qua các thời: Thời Lý cầu kỳ và tinh xảo; thời Trần khỏe mạnh, phóng khoáng; thời Lê sơ khỏe khoắn nhưng hơi đơn điệu; thời Lê Trung Hưng nhỏ nhẹ nhưng khá đa dạng.

3. Đã hiểu được phần nào sinh hoạt ở Thăng Long qua các thời. Ví dụ qua đồ gốm sứ thì trong thời Lý, Trần luôn luôn tồn tại đồ cao cấp bên cạnh các đồ bình dân; thời Lê sơ thì có hẳn một lò quan chuyên sản xuất các đồ cao cấp cho Hoàng cung. Nhưng đến thời Lê Trung Hưng thì đồ dùng cao cấp và bình dân dường như không phân biệt. Lại nữa, khi làm thống kê các mảnh đồ gốm, ta thấy rằng đồ gốm nước ngoài luôn luôn được trao đổi và buôn bán để sử dụng. Nhưng trong khu vực Hoàng Cung, đồ gốm Việt Nam luôn luôn được sử dụng với tỷ lệ rất cao so với gốm Trung Quốc và gốm Nhật Bản.

4. Các cuộc khai quật đã bước đầu góp phần bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa của Kinh đô Thăng Long. Các vết tích kiến trúc được đo vẽ, miêu tả, chụp ảnh. Nhiều di vật đã được thu hồi. Vết tích kiến trúc ở Đoan Môn đã bắt đầu được bảo vệ một phần làm bảo tàng ngoài trời. Các di vật ở Hậu Lâu đã được trưng bày lại di tích. Điều đó báo hiệu chúng ta sẽ có bảo tàng khảo cổ học trong tương lai về Kinh đô Thăng Long.

Trong 3 thập kỷ các phát hiện khảo cổ học đều là do xây dựng các công trình làm phát lộ. Trong thời gian đầu, chỗ nào có ý thức báo lại thì cứu vớt được chút ít di vật. Chỗ nào không báo thì di sản bị mất vĩnh viễn. Chỉ từ năm 1998 trở lại đây được sự quan tâm của Thành phố Hà Nội và Bộ Văn hóa Thông tin, các cuộc khai quật mới được Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội và Viện Khảo cổ học tiến hành có kế hoạch và theo đúng trình tự khoa học.

Do vậy, trong tương lai để bảo vệ di sản văn hóa Thăng Long 1000 tuổi dưới lòng đất, cần có quy chế khảo cổ học đô thị trước hết cho Hà Nội.

* Tiêu đề do Tòa soạn đặt

PGS-TS. Tống Trung Tín

(Theo Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long)

http://thanglong.chinhphu.vn/Home/Hoang-thanh-Thang-Long--tu-goc-do-Khao-co-hoc/20106/4977.vgp

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

PHÁT HIỆN NGHỆ THUẬT CỔ TRÊN ĐÁ Ở CHÂU Á

 

 

 

Nghiên cứu chỉ ra rằng, những cư dân sớm nhất rất thành thạo tạo ra các bức tranh về động vật ở các mái đá từ khu vực Tây Nam của Trung Quốc tới Indonesia. Bên cạnh các quốc gia này, những di chỉ sớm cũng ghi nhận sự tồn tại đó ở Thái Lan, Campuchia và Malaysia. Những bức tranh cổ nhất được phát hiện qua phân tích sự chồng đè bởi những phong cách khác nhau cũng như niên đại. Điều đó xác nhận rằng, ở một số khu vực, nghệ thuật cổ xưa nhất chủ yếu bao gồm các hình ảnh về tự nhiên của những loài động vật hoang dã hoặc là mẫu tô dựa trên hình dáng bàn tay. 

Nghiên cứu chỉ ra rằng, 35.000-40.000BP với một số hang động ở Sulawesi, Indonesia được thông báo vào tháng 10 bởi các chuyên gia nghiên cứu lâu năm của đại học Griffith là một điều không bình thường. Thay vì các thói quen đó lan rộng sang khu vực.

Giáo sư Tacon đã nói rằng, cùng với nghệ thuật sớm ở Châu Âu, những hình ảnh cổ ở Đông Nam Á thường có sự tương đồng và được đặt trong mối liên hệ với đặc tính tự nhiên của bề mặt đá. Điều này chỉ ra rằng một sự hứa hẹn có mục đích với những nơi mà những cư dân xa xưa đến với những lý do về biểu tượng và nghi thức thực hành. Vấn đề có ý nghĩa cốt lõi là, họ đã nhân cách hóa những bối cảnh ở những nơi mà họ đến, chuyển tải chúng từ các khu vực tự nhiên thành các bối cảnh văn hóa.

Đây là sự khởi đầu của một quá trình mà nó vẫn được tiếp tục đến hôm nay. Nhưng không giống ở châu Âu, sự tồn tại của nghệ thuật trên đá cổ xưa nhất ở Đông Nam Á thường thường được phát hiện ở các mái đá hơn là trong các hang động sâu. Điều đó có ý nghĩa cho sự thay đổi những tranh luận về nguồn gốc để tạo ra nghệ thuật và sự ủng hộ những ý tưởng đó rằng hành vi chủ yểu của con người bắt đầu từ đa số tổ tiên cổ xưa ở châu Phi hơn là châu Âu.

Các kết quả đã có những gợi ý không chỉ cho hiểu biết của chúng ta về nghệ thuật đá ở châu Âu và Đông Nam Á mà còn ở Úc, bởi vì các khu vực khác ở phía Bắc của nước Úc và khu vực Kakadu-Arnhem có sự tồn tại sớm nhất nghệ thuật đá và trên đó chứa hình động vật trong tự nhiên và mẫu tô dựa trên hình dáng bàn tay.

Nguồn: http://news.nationalgeographic.com

Dịch: Phạm Thanh Sơn

 

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

CÁC NHÀ KHẢO CỔ HỌC CHẠY ĐUA VỚI THỜI GIAN ĐỂ KHÁM PHÁ DI CHỈ CỦA NGƯỜI NEANDERTHAL

 

 

Các nhà khảo cổ học Đại học Southampton đang làm việc để giữ lại những di tồn quan trọng thời đại Đá cũ ở một di chỉ hiếm có của người Neanderthal, trước khi chúng bị biến mất vì sức mạnh của tự nhiên.

Di chỉ ở Baker’s Hole ở Ebbsfleet, Kent là khu vực đầu tiên với bằng chứng niên đại ngược trở lại thời gian khi mà nước Anh bị chiếm bởi những cư dân Neanderthals niên đại khoảng 250.000 năm cách ngày nay.

Các nhà nghiên cứu bây giờ đang đối mặt một cuộc chạy đua với thời gian để khai quật và kiểm tra những di tồn còn tồn tại trước những mối đe dọa từ sự xói mòn, hang ngách của động vật, dễ cây sẽ làm hư hại đến di chỉ.

Cuộc khai quật được sử ủng hộ của Tổ chức bảo tồn Di sản Anh. Công việc ở giai đoạn gần đây nhất, tiến sĩ  Francis Wenban-Smith, đại học Southampton đã tiến hành xác định khu vực chứa những trầm tích có tính chất quan trọng vẫn còn tồn tại và phát hiện những gì có thể nói cho chúng ta về thời kỳ đó.

Các mẫu trầm tích được lấy để tìm kiếm những di tồn cổ môi trường như vỏ ốc và xương của những loài thú nhỏ có vú giống như chuột đồng.

Những di tồn sinh học này có thể kể cho chúng ta rất nhiều điều về môi trường ở giai đoạn sớm mà những người Neanderthanl đã sống ở đó, tiến sĩ Wenban-Smith nói. Chúng ta có thể nói liệu khí hậu lúc đó ấm hay lạnh, liệu khu vực đó là rừng hay đầm lầy, hoặc các tác nhân khác có thể giúp chúng ta thấy được bối cảnh ở những nơi mà họ đã sống. Chúng cũng có thể giúp xác định niên đại của di chỉ một cách chính xác.

Chúng ta chỉ có từ 1 tới 2 năm để kiểm tra khu vưc này và thực hiện một kế hoạch quản lý mới để bảo vệ sự tồn tại của nó, mặt khác các di tồn đó sẽ bị xói mòn hoặc là sẽ bị phá hủy bởi các loài động vật hay thực vật, vì thế việc làm cốt yếu như vậy cần phải tiến hành ngay bây giờ.

Các công cụ đá, răng voi Mammoth và những hóa thạch khác như hươu khổng lồ, gấu và sư tử trước đó đã được phát hiện ở Baker’s Hole.

Các di chỉ từ giai đoạn này thường hiếm hơn những di chỉ sớm hơn, có niên đại 400.000 năm cách ngày nay và có mối liên hệ phổ biến ở khu vực Swanscombe.

Clare Charlesworth, cố vấn chính của Tổ chức bảo tồn Di sản Anh với Di sản có nguy cơ ở Đông Nam nói rằng: “Di chỉ khảo cổ học Baker’s Hole được thêm vào danh sách đăng ký Di sản có nguy cơ của Tổ chức bảo tồn Di sản Anh năm ngoái bởi vì những hang hốc của động vật và cây bụi đang gây nguy hiểm cho di chỉ khảo cổ học. Di tồn hệ động vật cũng đang bị suy giảm vì tác hại của môi trường. 

Nguồn: http://www.nationalgeographic.com

(Dịch: Phạm Thanh Sơn)

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện miếng vàng trang trí hình rồng ở Hoàng thành Thăng Long

 

 

Mảnh vàng hình rồng và hoa sen phát hiện phát hiện lần này được cho là phụ kiện đính trên mũ hoặc trang phục của nhà vua.

(vnexpress.net) - Thông tin và hình ảnh về miếng vàng đặc biệt được công bố trong hội thảo báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khu vực thành cổ đường Hoàng Diệu, Hà Nội diễn ra ngày 16/12. PGS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam cho biết, từ trước đến nay ở Hoàng thành Thăng Long mới tìm thấy 3 mảnh vàng.

Báo cáo kết quả khai quật ở trục trung tâm Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) năm 2014, PGS Tống Trung Tín cho biết, lần đầu tiên xác định tầng văn hóa đầy đủ nhất có niên đại kéo dài từ thế kỷ 8-9 đến thế kỷ 19-20. 

Cuộc khai quật cũng lần đầu tiên xác định được các dấu tích kiến trúc ở trục trung tâm có niên đại kéo dài từ thời Lý đến thời hiện đại. Trong đó, bước đầu làm xuất lộ 4 dấu tích kiến trúc lớn ở thời Lý như: móng kiến trúc, móng tường, sân gạch và đặc biệt là đường nước lớn. 

"Đây là lần đầu tiên phát hiện thấy dấu tích móng trụ và sân nền thời Lý ở khu vực trục trung tâm. Có ý kiến suy đoán, phải chăng đó là dấu tích sân Đại Triều thời Lý", PGS Tín nói.

hoang-thanh-thang-long-3796-1418726676.j

PGS.TS Tống Trung Tín đang thuyết trình về Dấu tích nền sân gạch và đường nước thời Lê Sơ, Lê Trung Hưng được phát hiện ở khu vực điện Kính Thiên năm 2014.

PGS Tín cho rằng, cuộc khai quật năm 2014 bước đầu xác định được một phần không gian chính điện Kính Thiên ở khu vực Trung tâm như Ngự đạo, sân Đan Trì, móng kiến trúc (hành lang), đặc biệt các di tích này đều xác định rõ hai giai đoạn Lê Sơ và Lê Trung Hưng chồng xếp lên nhau. 

Vết tích sân đại triều trước đây còn nghi ngờ giữa Lê Sơ và Lê Trung Hưng thì nay có căn cứ khẳng định thuộc thời Lê Trung Hưng vì đất được đắp tôn lên nền Lê Sơ. Gạch sử dụng ở đây cũng khác hẳn thời Lê Sơ, có tiết diện hình vuông chứ không phải hình chữ nhật. Các kiến trúc hàng cột, nền gạch và móng tường bao lớn của thời Lê Sơ - Lê Trung Hưng cũng được phát hiện. 

Dấu tích thời Trần ở Hoàng thành Thăng Long đã bị phá hủy nghiêm trọng và kiến trúc không gian vẫn là dấu hỏi lớn với các nhà khảo cổ. 

Các di vật được tìm thấy trong cuộc khai quật năm 2014 cũng phong phú với số lượng lớn loại hình vật liệu kiến trúc, đồ sành, gốm sứ. Đặc biệt nhất là miếng vàng hình hoa sen vòng ngoài, phía trong là hình rồng tinh xảo.

Theo PGS Tống Trung Tín, hiện vật này rất quý hiếm bởi trong suốt những năm khai quật trước đây, trên toàn bộ diện tích của khu khảo cổ số 18 Hoàng Diệu, người ta mới tìm được 3 mảnh vàng, trong đó một mảnh có có hình rồng thuộc thời Lý. Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam lý giải rằng, do vàng trước đây không được dùng nhiều mà chỉ sử dụng trong hoàng gia. Miếng vàng được phát hiện lần này, rất có thể được đính vào mũ hoặc trên áo, đai lưng của vua.

Nhận xét về kết quả cuộc khai quật năm 2014, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đánh giá, có nhiều thành tựu lớn, trong đó phát hiện quan trọng và cũng là thành công lớn nhất, là xác định được rõ ràng kiến trúc của hai thời Lê Sơ và Lê Trung Hưng. 

"Trước đây ta nghĩ rằng Lê Sơ là thời cực thịnh nên các công trình phải lớn hơn Lê Trung Hưng. Nhưng thực tế tường bao và sân Đan Trì của Lê Trung Hưng lại rộng hơn, có nền đầm gạch sâu chứ không đơn giản như Lê Sơ, chứng tỏ quy mô kiến trúc rất lớn. Qua các dấu tích, ta cũng khẳng định được rằng, thế kỷ 17 là giai đoạn hưng thịnh của Lê Trung Hưng", GS Phan Huy Lê nói. 

Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đề nghị phải xác định thêm vị trí trung tâm Cấm thành và mối tương quan giữa trục Trung tâm với khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu. Bên cạnh đó, cần có nhận thức tổng thể cấu trúc của Trung tâm Hoàng thành Thăng Long.

GS Phan Huy Lê nhấn mạnh việc tăng diện tích khai quật mỗi năm lên 4.000-5.000 m2 (hiện nay là 1.000 m2/năm) phải đảm bảo vừa giữ được dấu tích lớp khai quật trên vừa nghiên cứu được địa tầng phía dưới. 

Quỳnh Trang

 

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nhiều phát hiện thú vị tại Hoàng thành Thăng Long năm 2014

 

 

Ngày 16-12, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội phối hợp với Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) công bố kết quả khai quật thăm dò khu vực chính điện Kính Thiên thuộc di sản thế giới Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) trong năm 2014. Trong đợt khai quật này, nhiều tầng văn hóa chồng xếp lên nhau chứng tỏ sự phát triển liên tục của các triều đại Việt Nam trong 13 thế kỷ (từ thế kỷ VIII-IX đến XIX-XX) tiếp tục được phát lộ.

Rõ dần không gian kiến trúc, văn hóa các triều đại

Nếu như những lần khảo cổ trước, các giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc của các triều đại đóng đô ở kinh thành Thăng Long mới là giả thiết hoặc mới được nhận diện bước đầu thì trong đợt khai quật năm 2014, nhiều vấn đề đã được khẳng định, làm rõ.

 

Nhiều lớp văn hóa chồng xếp lên nhau tại khu vực  điện Kính Thiên đã được phát lộ trong đợt khảo cổ năm 2014
Nhiều lớp văn hóa chồng xếp lên nhau tại khu vực điện Kính Thiên đã được phát lộ trong đợt khảo cổ năm 2014

Là người trực tiếp tham gia vào công tác khảo cổ, PGS Tống Trung Tín, nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học cho biết: Trên diện tích khai quật gần 1.000m2, các nhà khoa học đã phát hiện khu vực chính điện Kính Thiên có các lớp văn hóa thời Lý, Trần, Lê sơ, Lê Trung hưng, Nguyễn chồng xếp lên nhau, đan xen với nhau, thậm chí cắt phá lẫn nhau. Dấu tích văn hóa thời Lý, Trần tiếp tục được làm rõ thông qua việc phát hiện đường nước lớn, kiên cố cùng với tường, móng kiến trúc và nền sân gạch. Thời Lê sơ có dấu tích kiến trúc 4 hàng cột, móng tường bao rộng, kéo dài và nhiều mảng gạch vuông rất lớn được lát trên nền đất sét vàng; thời Lê Trung hưng cũng có nhiều móng kiến trúc lớn với 4 gian, 1 chái, còn thời Nguyễn được nhận diện thông qua dấu tích móng trụ giống với kiến trúc trên bản đồ thời Nguyễn (1821-1831) về Hoàng thành Thăng Long. Đặc biệt, trên nền kiến trúc thời Lê Trung hưng, các nhà khoa học còn phát hiện thấy đường nước thời Trần nằm đè lên móng sỏi thời Lý. Điều đó làm cho dấu tích thời Trần vốn đã khó lý giải càng khó lý giải hơn. Trong đợt thám sát này, nhiều di vật bằng sành, gốm sứ, ngói men xanh, men vàng… cũng đã phát lộ.

Căn cứ vào kết quả thu được, PGS Tống Trung Tín cho rằng, dấu tích sân Đại Triều trước đây được phỏng đoán là có từ thời Lê sơ, nay có thể khẳng định chắc chắn có từ thời Lê Trung hưng. Các sân trong khu vực Hoàng thành Thăng Long đã được phát hiện tưởng là giống nhau nhưng thực ra rất khác nhau, gạch lát sân điện Kính Thiên chủ yếu có màu đỏ, sân Đoan Môn chủ yếu có màu nâu. Đường nước thời Lý làm theo hướng đông - tây - bắc - nam rõ ràng, còn đường nước thời Trần chưa thể xác định rõ. Kiến trúc thời Lý là kiến trúc 3 hàng cột theo tính chất hành lang, có nhiều nét tương ứng với đường nước lớn, tạo thành kiến trúc bao quanh. Vì thế, không gian văn hóa, kiến trúc thời Lý đã khá rõ, còn kiến trúc thời Lê và Lê Trung hưng có sự chồng xếp, tiếp nối nhau suốt 400 năm. "Đây là nhận thức rất mới của các nhà khoa học trong các đợt khảo cổ ở di sản thế giới Hoàng thành Thăng Long. Điều chúng tôi còn băn khoăn là tổ chức không gian thời Trần vẫn chưa thể làm rõ", ông Tống Trung Tín nhấn mạnh.

Những phán đoán trên đây được các nhà khoa học đồng tình, đồng nghĩa với việc các lớp văn hóa ẩn chứa dưới lòng di sản Hoàng thành Thăng Long nhiều thế kỷ đang từng bước được bóc tách, làm rõ.

Một số hình ảnh về những phát hiện khảo cổ năm 2014 tại khu vực Hoàng thành Thăng Long:

             

Dấu vết đường nước thời Lý được tái sử dụng lại vào thời Trần, qua những viên gạch có chữ “Vĩnh Ninh Trường”

 

Dấu tích đường nước lớn, thời Lý, phát hiện năm 2014

 

Dấu tích tường bao, thời Trần phát hiện năm 2014

 

Dấu tích nền sân gạch Đan Trì.

 

Năm 2014, tiếp tục làm rõ dấu tích tường bao thời Lê, với chiều dài 57m, rộng 1,7m.



Kiến nghị nghiên cứu khảo cổ khu vực trung tâm Hoàng thành Thăng Long

Kết quả thu được trong các đợt khảo cổ từ trước đến nay tại Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long là không thể phủ nhận, nhưng so với những giá trị còn ẩn chứa dưới lòng đất, thì diện tích khảo cổ khoảng 1.000m2 mỗi năm chưa thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Vì thế, các nhà khoa học thống nhất kiến nghị các ngành chức năng mở rộng diện tích khảo cổ trong những năm tới.

PGS-TS Hoàng Văn Khoán (nguyên cán bộ Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội) gợi ý, Trung tâm bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội nên mở rộng diện tích khai quật ở khu vực nhà Cục Tác chiến.

GS Nguyễn Quang Ngọc (Giám đốc Trung tâm Hà Nội học và phát triển) cho rằng, khi tiến hành khảo cổ, các nhà khoa học nên đào đến tầng sinh thổ để kết quả phát lộ được chính xác, khách quan, tránh mang tính phỏng đoán, giả thiết.

Dưới góc nhìn lịch sử, GS Phan Huy Lê (Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)cho rằng kết quả khai quật đã có những phát hiện rất mới mẻ, bổ sung nâng cao thêm những kết quả khảo cổ từ năm 2011 đến nay. Trong đó có thể kể đến việc phát hiện một phần kiến trúc quy mô khá lớn thời Lê Trung Hưng khoảng thế kỷ 17 như bức tường bao 1,7m rất kiên cố, nền sân điện, móng cột đồ sộ khác hẳn móng cột thời Lê sơ…Bên cạnh đó còn có nhiều di vật rất quý. Theo Giáo sư Phan Huy Lê, điều mà các nhà khoa học mong muốn nhất là phải giải quyết được 2 vấn đề lớn đặt ra. Đó là trục Trung tâm của Cấm thành ở đâu. Thời Lê thì đã rõ, còn các thời kỳ khác thì vị trí của trục trung tâm vẫn là điều mà các nhà khoa học nghiên cứu về Hoàn thành quan tâm. Từ đó xác định mối tương quan với khu 18 Hoàng Diệu. Vấn đề thứ 2 cần giải quyết là nhận thức toàn diện tổng thể cấu trúc của Cấm thành - Trung tâm Hoàng thành Thăng Long.

Giáo sư Phan Huy Lê nhấn mạnh, một vấn đề khó đang đặt ra cho các nhà khảo cổ là với một hệ thống di tích phức hợp chồng lên nhau như vậy thì làm thế nào để bảo vệ khi tiếp tục khai quật xuống các tầng sâu hơn. Giáo sư Phan Huy Lê đề nghị cần phải nghiên cứu để có thể vừa bảo tồn những phát hiện khảo cổ mới này khi tiến hành các công việc khảo cổ trong thời gian tới.

Trước kiến nghị mở rộng diện tích khảo cổ, TS Nguyễn Văn Sơn, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội cho biết, trung tâm đã xây dựng "Đề án nghiên cứu, khôi phục không gian điện Kính Thiên" trình UBND TP Hà Nội xem xét. Trong đề án này, trung tâm đề nghị thành phố cho phép mỗi năm tiến hành khai quật trên 5.000m2. Trung tâm cũng sẽ có những đánh giá chân thực, khách quan những việc đã làm được, chưa làm được vào dịp kỷ niệm 5 năm Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới (1/8/2010 - 1/8/2015) để có những định hướng đúng trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản trong những năm tiếp theo.

 

 

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Ba di tích khảo cổ được xếp hạng quốc gia

 

 

Các di tích khảo cổ mới được công nhận gồm: Bãi đá khắc cổ Khe Hổ (Sơn La); Hòa Diêm (Khánh Hòa) và Thành Lồi (thành phố Huế). 

Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch vừa ra quyết định công nhận 12 di tích cấp quốc gia, trong đó có ba di tích khảo cổ gồm: bãi đá khắc cổ Khe Hổ (xã Hang Chú, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La); địa điểm Hòa Diêm (xã Cam Thinh Đông, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa); Thành Lồi (phường Thủy Xuân - Thủy Biểu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Thành Lồi là công trình kiến trúc cổ, di tích lịch sử văn hóa Chămpa hiếm hoi còn sót lại ở cố đô Huế. Thành nằm trên đồi Long Thọ, phía tả ngạn sông Hương. Theo Đại Nam Nhất thống chí, tương truyền đây là chỗ ở của vua Chiêm Thành gọi là Phật Thệ, tục gọi là thành Lồi.

Nghiên cứu của GS Trần Quốc Vượng cho thấy, công trình có niên đại vào khoảng thế kỷ V-VI (cùng niên đại thành Trà Kiệu). Thành có dạng gần vuông, với kết cấu lũy thành trên cơ sở lợi dụng triệt để địa hình tự nhiên. Thành được đắp bởi 2 lớp đất, kè đá và gạch vỡ, một số đoạn đắp thêm lớp đất trên mặt. Hiện nay, các bờ lũy này không còn nguyên dạng, trừ lũy phía Tây, Ðông. 

Bình diện hố khai quật khảo cổ di chỉ Hòa Diêm, Khánh Hòa  năm 1999.  Ảnh tư liệu.

Trong 3 di tích khảo cổ được công nhận lần này, Hòa Diêm gồm 4 địa điểm Hòa Diêm, Hòa Diêm 2, Gò Duối, Gò Miếu còn khá nguyên trạng. Di chỉ này có niên đại từ thế kỷ V-VI trước công nguyên đến thế kỷ I-II sau công nguyên. Đây vừa là di chỉ cư trú, vừa là di chỉ mộ táng của cư dân tiền sơ sử. 

Theo các nhà khảo cổ, di chỉ Hòa Diêm có giá trị đặc biệt về mặt khoa học. Nó chứa đựng những nét đặc trưng về khu cư trú của cư dân thời tiền sơ sử, cũng như hình thức mộ táng của những cư dân này.

Trong lần xếp hạng di tích quốc gia lần này, có 2 di tích kiến trúc nghệ thuật là lũy đá Kỳ Anh (xã Kỳ Lạc, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và đình Bình Mỹ (xã Bình Mỹ, Châu Phú, An Giang), còn lại là những di tích lịch sử.

7 di tích lịch sử được xếp hạng gồm: đình Tân Xuân (thị trấn Tầm Vu, Châu Thành, Long An); đền thờ Hồ Hưng Dật (xã Ngọc Sơn, Quỳnh Lưu, Nghệ An); địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Hà Lam - chợ Được năm 1954 (xã Bình Triều, Thăng Bình, Quảng Nam); địa điểm chiến thắng Đồng Xoài (phường Tân Phú, Đồng Xoài, Bình Phước); đề Mục và chùa Hương Ấp (xã Tiên Phong, Phổ Yên, Thái Nguyên); nơi thành lập Đại đoàn quân tiên phong 308 (thị trấn Đu, Phú Lương, Thái Nguyên); địa điểm cơ quan Tổng cục Chính trị Quân đội nhân nhân Việt Nam tại đồi Thẩm Tắng (1950-1954, xã Định Biên, Định Hóa, Thái Nguyên).

Quỳnh Trang

Nguồn Vnexpress

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

TT-Huế: Phát hiện xác tàu đắm trên biển Vinh Xuân

 

 

 Tháng 5/2011, xác một con tàu đắm được ngư dân phát hiện tại khu vực gần bờ biển thôn Xuân Thiên Hạ, xã Vinh Xuân. Xác con tàu dài khoảng 20 mét được làm bằng gỗ, một số vị trí có kim loại. Tàu chìm cách mặt nước khoảng 10 mét, cách bờ biển Vinh Xuân khoảng 150 mét.

Năm 2014, Bảo tàng Cách mạng Thừa Thiên Huế tiến hành nhiều đợt khảo sát và lập kế hoạch trục vớt con tàu trên.

 

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Vật thiêng trong nghi thức tang ma của người Giáy xã Bản Giang (Lai Châu)

 

 

Trong chuyến công tác thực hiện đề tài “Điều tra khảo sát các di tích khảo cổ học thời đại Kim khí tỉnh Lai Châu” chúng tôi đã được nghe về một vật thiêng rất quan trọng trọng nghi thực tang ma của dân tộc Giáy thuộc Bản Giang, xã Bản Giang huyện Tam Đường, Lai Châu. Đoàn khảo sát gồm cán bộ Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lai Châu đã đến tìm hiểu và được tiếp xúc với Vật thiêng này do gia đình anh Giàng Văn Pay sở hữu.

Trống còn tương đối nguyên vẹn, chất lượng đồng còn tốt mặc dù bề mặt đôi chỗ gỉ che mờ hoa văn trang trí. Trống có kết cấu chia thành 3 phần tương đối rõ ràng: mặt trống, thân trống và chân trống.

Vật thiêng trong nghi thức tang ma của người Giáy xã Bản Giang (Lai Châu)

Trống đồng và hoa văn trên mặt trống Bản Giang (Ảnh: Nguyễn Thơ Đình)

Mặt trống: Mặt chờm khỏi tang khoảng 0.8cm. Chính giữa mặt trang trí hình mặt trời đúc nổi 12 tia. Phần này được đánh vào nhiều nên đồng bóng màu vàng và trung tâm mặt trời hơi lúm xuống. Giữa các tia là hoa văn cách điệu hình lông công. Từ hình mặt trời đúc nổi ra ngoài có 8 vành hoa văn được phân cách bằng đường đúc chỉ nổi.

Thân trống: Tang trống rộng hơn mặt trống một ít. Ranh giới giữa tang và lưng trống không rõ ràng, giữa tang và lưng là một đường cong không gãy góc. Tang được trang trí 6 đương chỉ đúc nổi tạo thành 3 băng hoa văn trang trí.

Giữa lưng trống có gờ nổi, phía dưới gần chân trống có trang trí 3 băng hoa văn phân cách nhau bằng các đường chỉ nổi.

Chân trống: hơi choãi ra so với thân trống. Chân được trang trí băng hoa văn hình tam giác được tạo ra bằng cách lồng 4 đường chỉ nổi. Sát mép chân có một đường chỉ nổi chạy xung quanh chân.

Trên thân và chân trống còn để lại hai gờ ghép khuôn khá thô (rộng 0.3cm phía sát mặt trống, 0.5cm phía dưới chân trống), và 10 lỗ thủng nhỏ gần hình chữ nhật có kích thước khoảng 1 x 1.2cm ở nhiều vị trí khác nhau (vị trí con kê?).

Kích thước trống: Đường kính mặt trống: 49.9cm; Đường kính tang trống: 48.3cm; Cao: 27cm (tang 10.5cm, lưng 12.3cm, chân 5.2cm); Khối lượng: 14kg.

Qua hình dáng và hoa văn, đối chiếu với hệ thống phân loại trống đồng thì chiếc trống phát hiện ở Bản Giang là trống Heger loại IV. So sánh về hình dáng cũng như hoa văn trống Bản Giang có nhiều nét tương đồng với một số trống đã phát hiện ở khu vực Tây Bắc như trống ở bản Séo Xín Chải (Tam Đường), trống Na Ngum (Điện Biên), trống Mường Lay (Điện Biên)… Trống có niên đại khoảng Thiên niên kỷ II Công nguyên và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.

Vật thiêng trong nghi thức tang ma của nhân dân Bản Giang

Tuy là vật sở hữu riêng nhưng trống được sử dụng vào công việc chung của nhân dân Bản Giang. Trước đây trống được sử dụng mỗi dịp đón Tết Nguyên Đán và những khi trong bản có người qua đời. Khoảng 3 đời trở lại đây thì trống chỉ được sử dụng trong đám tang mà thôi. Khi bản có tang ma, gia đình tang chủ sẽ cho người đem một chai rượu đến cho chủ nhà cúng làm lý rời trống về phục vụ đám tang. Đi đón trống là hai người đàn ông mặc quần áo truyền thống của dân tộc Giáy và phải dùng áo để che kín trống không được cho ánh sáng mặt trời chiếu vào trống. Họ quan niệm nếu ánh sang chiếu vào, trống sẽ bay lên trời mất. Đón trống về đến nhà đám, người ta dựng dàn và treo trống lên ở gần quan tài. Trong quá trình tổ chức tang lễ trống sẽ được đánh vào chính giữa mặt ngôi sao 12 cánh. Dùi đánh là dùi thẳng làm bằng gỗ với phần đánh được bọc bằng rơm, vải hoặc cao su. Người dân quan niệm tiếng trống đồng rất thiêng liêng, nó là âm thanh của trời. Tiếng trống đồng vang xa, vang cao sẽ thấu tới trời cao và báo cho núi rừng, tổ tiên biết dòng họ có thành viên mới qua đời. Khi chuẩn bị làm lễ di quan, người ta hạ trống xuống và dung một chai rượu cúng lý cho trống. Khi đưa tang, trống đồng được đặt tại nhà tang chủ chứ không được đưa đi cùng. Sau khi hoàn tất việc chôn cất, những người đi rước trống sẽ rước trống đi trả. Họ đem theo 1kg thịt lợn, 1 chai rượu, vàng mã được gấp thành thuyền và 3 nén hương đến để chủ nhà cúng lý nhận lại trống.

Bản Giang là bản trung tâm của xã Bản Giang. Đây là khu vực cư trú của dân tộc Giáy (nhân dân ở đây tự nhận là dân tộc Pố Nả hoặc Củi Chu). Bản Giang có 120 hộ gia đình với hơn 600 nhân khẩu. Trống đồng rất quan trọng trong đời sống tâm linh của dân tộc Giáy ở Bản Giang. Họ quan niệm nếu không có tiếng trống đồng vang vọng khắp núi rừng, vang thấu trời xanh thì hồn người chết sẽ bơ vơ không biết tìm đường về với tổ tiên. Đây là vật thiêng vô cùng quý giá và được gia đình Giàng Văn Pay lưu truyền, cất giữ rất cẩn thận từ đời nọ sang đời kia.

Nguyễn Thơ Đình

(Thông tin chi tiết xem trong NPHM về Khảo cổ học năm 2014)

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Danh nhân văn hóa Thăng Long - Hà Nội (02/12/2014)

 

 

Kích thước: 13x19

Năm xuất bản: 2013

Địa chỉ liên hệ: 175 Giảng Võ _ Hà Nội

Số trang: 233

- tác giả: Hồ Sĩ Vịnh

Với vị thế là Thủ đô, Hà Nội là trái tim và là trung tâm hội tụ tinh hoa văn hóa của đất nước, đồng thời ảnh hưởng của Hà Nội cũng lan tỏa và tác động tới mọi miền của tổ quốc, tạo nên giá trị và uy vọng của nền văn hiến Thăng Long - Hà Nội. Nhưng trong thời gian qua, tính ưu trội của văn hóa Hà Nội, trong đó có danh nhân văn hóa chưa thật sự nổi bật so với các đô thị lớn trong cả nước, chưa chuyển hóa trực tiếp thành các nhân tố kinh tế - xã hội cho quá trình phát triển thủ đô. Vì vậy, việc tôn vinh danh nhân văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong bối cảnh hiện nay càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.

Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:

- Chương 1: Danh nhân văn hóa cơ sở lý luận và thực tiễn

- Chương 2: Danh nhân văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử

- Chương 3: Danh nhân văn hóa Thăng Long - Hà Nội tiêu chí và quy trình tôn vinh

 

Ngô Thị Nhung - Phòng Thông tin - Thư viện

Hồ Sĩ Vịnh

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nguyễn Huệ với phượng hoàng trung đô (02/12/2014)

 

 

Cơ quan soạn thảo: Nhà xuất bản Hồng Bàng

Kích thước: 13x20

Hình thức bìa:

Năm xuất bản: 2012

Số trang: 159

- Tác giả: Chu Trọng Huyến - Nhà xuất bản: Hồng Bàng

Một nhân vật giỏi dùng binh vào Nam, ra Bắc, dẹp loạn,đánh ngoại xâm, gây dựng cơ đồ chỉ trong vòng hơn 10 năm, rồi đột ngột ra đi ở tuổ 39, Nguyễn Huệ - Quang Trung (1753-1792) quả thật trở thành đề tài vô cùng hấp dẫn với các nhà nghiên cứu sử học. 

Qua cuốn sách này bạn đọc có những tư liệu đáng tin cậy về gốc tích nhà Tây Sơn, về lý do ra đời và vị thế của Phượng Hoàng Trung Đô cùng vai trò của nó trong lịch sử đất nước, về tầm nhìn của Nguyễn Huệ đối với Nghệ An.

Nội dung cuốn sách bao gồm 4 chương: 1/ Mối quan hệ giữa Nghệ An với đất Tây Sơn qua một số sự kiện lịch sử; 2/ Nghệ An trong công cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn; 3/ Phượng Hoàng Trung Đô; 4/ Các thời đại - những cái nhìn trùng hợp.

 

Ngô Thị Nhung - Phòng Thông tin - Thư viện

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9747354
Số người đang online: 9