Mộ thuyền Đông Sơn ở Việt Nam (10/10/2013)

 

 

Cơ quan soạn thảo: Từ điển Bách Khoa

Kích thước: 14x21cm

Hình thức bìa: Bìa cứng

Năm xuất bản: 2013

Địa chỉ liên hệ: 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Số trang: 447

Tác giả: Bùi Văn Liêm; Biên tập: Bùi Thu Nguyệt; Lời giới thiệu: Cố PGS. Chử Văn Tần; Ký hiệu thư viện Khảo cổ học: Vb 2733, Vb2734

Quyển sách Mộ thuyền Đông Sơn Việt Nam ra mắt bạn đọc lần này dựa trên luận án tiến sĩ của tác giả bảo vệ năm 2000, có bổ sung, sửa chữa và nâng cao.

 Chương một,trình bày tổng quan tư liệu về địa lý nhân văn và tình hình phát hiện, nghiên cứu mộ thuyền văn hóa Đông Sơn. Đồng bằng châu thổ sông Hồng được hình thành gắn liền với quá trình khai phá - nơi đây thành một trung tâm văn hóa, văn minh rực rỡ trong thời đại Kim khí Việt Nam. Cư dân Đông Sơn mở rộng địa bàn cư trú xuống châu thổ sông Hồng tập trung ở hai khu vực đông bắc và đông nam sông Hồng, trên đất các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, thành phố Hà Nội và Nam Hà.

Chương hai, xác định một số đặc trưng cơ bản  mộ thuyền và thuyền mộ Đông Sơn Việt Nam: được chôn sâu trong vùng lầy, cạnh ao hồ hoặc các chân ruộng thấp vùng chiêm trũng, đôi khi có cọc tre ghìm định vị quan tài. Thuyền mộ được làm từ đoạn thân cây gỗ tròn hoặc gần tròn, trong khoét rỗng hình lòng máng, hai đầu chừa lại hoặc ghép thêm ván làm vách ngăn. Liên kết tấm thiên và tấm địa là những lỗ chốt hoặc mộng khớp, đôi khi lắp thêm các tay khiêng ở 4 góc quan tài. Tử thi trong mộ được khâm liệm trong những tấm vải hoặc chiếu cói, được đặt nằm ngửa, đầu gối cao, chân tay duỗi thẳng. Đồ tùy táng là di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn, ngoài ra ở các mộ muộn có di vật do giao lưu, trao đổi.

Chương ba, tập trung xác định niên đại, các giai đoạn phát triển, chủ nhân và phác dựng cuộc sống cư dân mộ thuyền Đông Sơn. Dựa vào cấu trúc quan tài thuyền, những hiện vật chôn theo và một số kết quả phân tích niên đại C14, công trình cho rằng, mộ thuyền Đông Sơn Việt Nam có niên đại từ thế kỷ VI tr. CN đến thế kỷ II s.CN. Giai đoạn sớm (thế kỷ VI-IV tr. CN) tiêu biểu là mộ Việt Khê, Châu Can, Lật Phương và Trại Sơn… quan tài là đoạn cây gỗ tròn hoặc gần tròn, khét rỗng, đồ tùy táng điển hình văn hóa Đông Sơn. Giai đoạn giữa (thế kỷ I, II tr.CN) tiêu biểu là các mộ Phú Lương, Phương Tú, Kim Đường…, quan tài đoạn cây gỗ gần tròn, khoét rỗng, ngoài đồ đồng Đông Sơn xuất hiện nhiều đồ mây tre đan và một số hiện vật ngoại lai. Giai đoạn muộn (thế kỷ I, II sau CN), quan tài hình lục giác, gần lục giác, đồ đồng Đông Sơn ít, hiện vật ngoại lai nhiều, xuất hiện đồ minh khí và đồ mây tre đan, tiêu biểu là mộ Xuân La, Yên Từ, Động Xá…

Những cốt sọ tìm thấy trong mộ thuyền Đông Sơn thường khá nguyên vẹn, thuộc loại hình Đồng Nam Á hoặc Indonesien, cùng đặc điểm nhân chủng tồn tại trong các di tích Tiền Đông Sơn trước đó ở Việt Nam. Cùng với sự hiện diện của di vật văn hóa Đông Sơn trong mộ thuyền, nhất là giai đoạn sớm, đã xác nhận chủ nhân các mộ thuyền Đông Sơn là người Việt cổ, có nhiều điểm thuộc nhóm loại hình Đường Cồ ở châu thổ Bắc Bộ.    

Nghiên cứu thuyền mộ, mộ thuyền và các di vật chôn theo, công trình cho rằng, chủ nhân mộ thuyền Đông Sơn là những người làm nông nghiệp, trồng lúa nước, trồng rau màu, chăn nuôi gia cầm và khai thác thủy hải sản vùng sông nước. Các hoạt động thủ công như luyện kim, chế tác đồ đồng, đồ sắt; các nghề mộc, nghề sơn, chế tác đá, làm gốm, se sợi, dệt vải, dệt chiếu cói và đan lát đồ mây tre đã khá phát triển. Chủ nhân các mộ thuyền là những người hoàn toàn làm chủ sông nước, chế tạo và vận hành hết sức năng động các phương tiện giao thông trên sông nước. Văn hóa ứng xử của con người trong các táng thức mộ thuyền đậm tính nhân văn, cả trong sự tương thích và sáng tạo của con người với môi trường.   

Chương bốn, đánh giá giá trị lịch sử văn hóa của mộ thuyền Đông Sơn trong bối cảnh rộng hơn. Mộ thuyền Đông Sơn Việt Nam là di sản văn hóa của người Việt cổ vùng đồng bằng sông Hồng. Cùng với mộ thuyền Đông Sơn, ở Việt Nam còn nhiều kiểu mộ táng khác, có mộ là của người Việt, có mộ của người Hán, cũng có mộ người Việt bị Hán hóa hoặc ngược lại. Song mộ thuyền Đông Sơn vẫn lưu lại di ảnh đậm nét trong táng thức mộ tang của người Mường, vốn là người Việt cổ mới tách khỏi khối cộng đồng Việt Mường chung vào khoảng thế kỷ IX-X mà thôi.

Mộ thuyền tồn tại rộng khắp Đông Nam Á và Nam Trung Quốc, có niên đại từ thiên niên kỷ I tr.Cn đến gần đây. Song mộ thuyền Đông Sơn vẫn có những đặc thù được thể hiện ở thuyền mộ vốn là thân cậy khoét rỗng đơn sơ, gần gũi với con thuyền vùng sông nước. Những mộ thuyền này tồn tại duy nhất ở vùng đồng bằng lầy trũng vùng Bắc Bộ Việt Nam. Ở đó, trong nhiều thế kỷ vẫn bảo lưu truyền thống hung táng, bảo lưu truyền thống ứng xử văn hóa cộng đồng, dành cho mọi thành viên trong cộng đồng người Việt.

Phần tạm kết, tác giả đã đưa ra một số nhận xét, mộ thuyền là một trong số táng thức độc đáo, tiến bộ của cư dân văn hóa Đông Sơn ở giai đoạn phát triển cao của nền văn minh Việt cổ, gắn liền với quá trình chinh phục và dần làm chủ vùng đồng bằng thấp, lầy trũng sông Hồng. 

Là một thành tố của văn hóa Đông Sơn, mộ thuyền Đông Sơn đã kết tinh văn hóa ứng xử của con người với con người đậm tính nhân văn, của con người với môi trường sông nước vùng đồng bằng thấp, lầy trũng sông Hồng và của con người với xã hội Đông Sơn đầy biến động trong sự giao thoa, tiếp biến văn hóa của khu vực./.

 

 

Phòng Quản lý Khoa học và Hợp tác Quốc tế

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát lộ thành Đại La gần nút giao thông Hà Nội

 

 

Những hố khai quật khảo cổ học tại khu vực khu vực ngã tư nút giao thông Đào Tấn- Nguyễn Khánh Toàn (Hà Nội) đã hé lộ những kỹ thuật dựng thành Đại La của cha ông.

PGS TS Tống Trung Tín, Viện Trưởng Viện Khảo cổ học, cho biết trong lần khai quật này, các nhà khảo cổ thuộc Viện Khảo cổ và Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội phát hiện tại lớp thành thời Lý kỹ thuật đầm đinh rất điêu luyện của cha ông. Lớp đầm đinh được xác định dày khoảng 50cm, tạo thành sự kiên cố của thành Đại La lúc bấy giờ.
 
Vết chân người đầm đất được phát lộ tại lớp thành thời Lý của thành Đại La.
Vết chân người đầm đất được phát lộ tại lớp thành thời Lý của thành Đại La.
 
Viện trưởng Viện Khảo cổ học PGS.TS Tống Trung Tín tại khu vực khai quật.
Viện trưởng Viện Khảo cổ học PGS.TS Tống Trung Tín tại khu vực khai quật.
 
Dấu vết đầm đinh được phát lộ.
 


Chân thành được gia cố bằng gốm, sành thời Trần.
 
Qua cuộc khai quật, toàn bộ vách thành - đê- đường Bưởi độ xuất lộ. Độ sâu của thành từ mặt đường đến sinh thổ dày trên 7m.
 
Có thể nói quy mô thành lớn, cao trên 7m, chân choãi rộng, đất sét thuần, lèn chặt. Từ đó khẳng định Đại La thành Thăng Long ngay từ thời Lý - Trần đã được chú trọng xây dựng kiên cố, quy mô lớn và được tu sửa mở rộng vào thời Lê Sơ.
 
Nằm ở chân tường thành phía trong của thành, gốm ngói và sành sứ có niên đại từ thời Trần đổ về trước, được đầm chặt, dày trên 20cm, rộng 1,2m. Giữa lớp đầm này với chân tường thành còn có một rãnh đào chữ V kiểu như đường thoát nước. Các nhà khảo cổ nhận định nhiều khả năng đây là đường đi bao quanh phía trong thành thuộc thời Trần.
 
Đáng chú ý trong khu vực khai quật xuất lộ 04 mộ táng tại các lớp đất đắp thành. Trong đó tại lớp 4, xuất lộ 3 mộ (2 mộ gạch và 1 mộ đất), có niên đại khoảng thế kỷ IX-X.
 
Theo N.C.Khanh (Tiền phong)

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát lộ đường nước khổng lồ dưới Hoàng thành Thăng Long

 

 

Gần cổng Đoan Môn, các nhà khảo cổ khai quật thêm nhiều di tích của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn chồng xếp lên nhau. Đặc biệt có một đường nước bằng gạch khổng lồ chưa từng thấy trong di tích khảo cổ nào ở Việt Nam. > Mở cửa hầm bí mật dưới Hoàng thành Thăng Long

Theo khuyến nghị của UNESCO nên tiếp tục nghiên cứu khảo cổ Hoàng thành Thăng Long sau khi được công nhận di sản thế giới, các nhà khảo cổ đã khai quật 500 m2, hố đào sâu nhất là 4,2 m tại trung tâm Cấm Thành trong 6 tháng qua.

Theo kết quả khai quật của Viện Khảo cổ học công bố sáng 26/12, các di tích phát lộ cho thấy nhiều tầng văn hóa từ thời Lý đến thời Nguyễn đan xen nhau. Dấu tích kiến trúc thời Lý gồm đường nước lớn được xây bằng gạch vuông, gạch bìa và cọc gỗ chạy suốt chiều Đông - Tây, bề rộng 2 m, cao 2 m, cùng nhiều móng tường.

Dấu tích kiến trúc thời Trần gồm những dải trang trí hoa chanh nằm trên móng tường thời Lý, hệ thống cống thoát nước, gạch bìa hình chữ nhật. Các dấu tích thời Lê còn sót lại trên nền gạch vuông và gạch vồ ở phía tây của hố khai quật. Các nền gạch này cũng từng xuất hiện từ khu vực nền điện Kính Thiên đến Đoan Môn.

Thời Nguyễn còn để lại dấu ấn với những cống thoát nước, gồm 2 thành cống được xếp bằng đá xanh và gạch vồ xám.

Các nhà khoa học khảo sát đường nước khổng lồ trong khu vực khai quật. Ảnh: Đoàn Loan.

Theo PGS. TS Tống Trung Tín, Viện trưởng Viện Khảo cổ học, trước đây đã có nhiều giả thiết khu vực khảo cổ là không gian của chính điện Thiên An thời Lý - Trần và chính điện Càn Nguyên thời Lý. Trong các hố đào năm 2011 mới phát hiện dấu tích móng trụ của nền điện Kinh Thiên, còn khu vực nền điện thì vẫn là bí ẩn.

Với lần khai quật này, các nhà khảo cổ đã phát hiện sân nền gạch vồ lát từ khu vực Đoan Môn lan rộng trên toàn bộ không gian lớn đến điện Kính Thiên. Ngoài ra, còn có cấu trúc móng "Ngự đạo" của thời Lê với nhiều mảnh gốm thời Lê Sơ và Lê Trung Hưng. Phát lộ khảo cổ cũng cho thấy quá trình xây móng tôn nền sân Đại triều thời Lê Sơ ở bên dưới lớp gạch vồ.

Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy dấu tích kiến trúc thời Lý ở khu vực bắc Đoan Môn với đường nước lớn xây bằng gạch vuông. Song song với đường nước này có dấu tích móng sành của móng tường thời Lý rộng 1,6 m. Đường nước rộng 2 m, cao 2 m, có cắm cọc gỗ để gia cố. Đây là đường nước khổng lồ xây bằng gạch chưa từng thấy trong bất cứ di tích khảo cổ nào ở Việt Nam.

PGS. TS Tống Trung Tín nhận định có khả năng đường nước này dùng để thoát nước trong Cấm thành thời Lý hoặc là dấu tích tâm linh liên quan đến phong thủy trong trung tâm Hoàng cung thời Lý.

Về hướng bảo tồn khu vực phát lộ, ông Tống Trung Tín cho rằng, để không hư hỏng các di tích thì sẽ phải lấp đất, song cũng có ý kiến nên để cho người dân xem khu vực khảo cổ để làm giàu vốn văn hóa tại trung tâm Hoàng thành.

Nhiều chuyên gia sử học đã đưa ra phán đoán về đường nước ngầm và đề nghị bảo tồn các hố khai quật bằng cách lắp kính hoặc có mái che để người dân được tham quan. Theo GS Nguyễn Quang Ngọc, Chủ tịch hội Sử học Hà Nội, trước đây trung tâm Hoàng thành không tìm thấy dấu tích thời Lý song hiện đã tìm thấy đường nước thời Lý nên khả năng vua Lý Thái Tổ xây dựng điện Càn Nguyên ở khu vực này cùng với sân Long Trì. Để làm rõ hơn chính điện cần mở rộng khai quật ra phía đường Nguyễn Tri Phương.

"Chúng ta có thể nhận diện đây là khu chính điện của Hoàng thành, nên khu vực khảo cổ nên giữ lại cho mọi người đến xem cũng là một hình thức giữ lại di tích này", ông Nguyễn Quang Ngọc phát biểu.

TS Trần Đức Cường, nguyên Phó chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, cho rằng đường nước lớn có thể là đường dẫn nước, song cũng có thể là nơi chứa nước hay một công trình phong thủy. "Vào khu di tích nổi tiếng mà không được nhìn thành quả của giới nghiên cứu thì rất tiếc, nên phải có cách bảo tồn như lắp kính, mái che để bảo tồn lâu dài. Lấp đất là biện pháp bất đắc dĩ. Di tích của chúng ta nằm giữa thủ đô nên không có gì phải hạn chế cho người dân thưởng ngoạn", ông Trần Đức Cường nhận xét.

Đoàn Loan

Nguồn Vnexpress

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Cách khâm liệm độc đáo, đặt ốc biển vào hốc mắt người chết, được các nhà khảo cổ Viện Khảo cổ học Việt Nam phát hiện tại hang Phia Vài (Na Hang, Tuyên Quang) đã hé lộ bí mật về cách thức mai táng của người nguyên thủy.

PGS.TS Trình Năng Chung, Viện Khảo cổ học Việt Nam cho biết, hang Phia Vài thuộc thôn Cốc Ngận, xã Xuân Tân (Na Hang) được phát hiện qua truyền thuyết “ma núi” Phia Vài. Người dân bản địa cho rằng, đó là cái hang thiêng có ma. Đã có nhiều người dân địa phương lạc vào hang rồi để lại di chứng như tâm thần.

Cũng chính vì thế mà người dân nơi đây coi hang Phia Vài như một nơi thiêng liêng bất khả xâm phạm. Ngay cả trâu bò cũng được người dân trông giữ cẩn thận, không để đi lạc vào khu vực cấm. Điều này khiến cho hang Phia Vài còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.  

kc

PGS.TS Trình Năng Chung (phải) phát hiện nhiều di vật cổ tại hang Phia Vài.

 

Phải mất một thời gian dài thuyết phục cùng sự giúp đỡ của chính quyền sở tại, ông Chung và đồng nghiệp mới vào được hang. Đoàn khảo cổ đã mua xôi, gà, đồ lễ vật và mời thầy Mo về cúng bái để an lòng dân. Đoàn cũng phải rất vất vả để thuê được các công nhân địa phương, phục vụ việc đào bới di chỉ khảo cổ.

Khi đào được hơn 50 cm, ông Chung thấy ló ra vài ba đốt đen đen, gần giống xương gà, lợn. Biết là sắp phát lộ bộ hài cốt như lời đồn đại, ông bèn cho nhân công phủ bạt lên để người dân đỡ sợ và nói đùa rằng đó chỉ là xương động vật chết trong hang.

Theo PGS.TS Trình Năng Chung và GS. Nguyễn Lân Cường, Phia Vài có cửa hang rộng 35 m, sâu 11 m và trần hang cao 4 m. Tiếc rằng các tảng đá vôi lớn đã bị sập xuống từ trần hang, làm mất đi một diện tích lớn không thể khai quật.

Ở phần còn lại, các nhà khảo cổ đã đào hai hố lớn với diện tích 40 m2 và phát hiện được hàng trăm hiện vật, chủ yếu là công cụ ghè, đẽo thô sơ. Khi bộ hài cốt người phát lộ, các nhà khảo cổ rất mừng, nhưng gặp trở ngại là cột nhũ đá đâm sâu xuống đất chạm vào bộ hài cốt. Sau hàng tuần lễ nghiên cứu, các chuyên gia quyết định cho cưa bỏ phần quách thạch ở phía trên để lấy bộ hài cốt ra. Chỉ cần dựa vào cột nhũ đá ăn sâu xuống đất, các nhà khảo cổ cũng đã đoán được niên đại hài cốt trên 10.000 năm tuổi.

Quách thạch được mở ra cho thấy bộ hài cốt người nguyên thủy được đặt ở tư thế nằm nghiêng, đầu gối lên đá, chân duỗi thẳng. Căn cứ vào lớp trầm tích đá vôi cứng và công cụ ghè đẽo thô sơ được chôn theo người chết, ông Chung nhận định di tích Phia Vài mang đặc trưng của văn hóa Hòa Bình giai đoạn sớm niên đại 12.000 năm. Đặc biệt, xung quanh di cốt còn phát hiện dấu tích bếp lửa hình tròn và những tảng đá rất to, có lẽ đã được người nguyên thủy dùng làm ghế ngồi trong các sinh hoạt cộng đồng.

Để giúp bộ hài cốt được nguyên vẹn, các nhà khảo cổ đã quyết định để họa sĩ Nguyễn Đình Hiển dùng thủ thuật bó thạch cao ngôi mộ để đưa ra nghiên cứu. Dựa vào độ mòn của răng, độ gắn liền của đường khớp sọ, góc của xương cánh chậu, xương hàm dưới…, các nhà khảo cổ kết luận đây là di cốt của một người đàn bà có địa vị trong cộng đồng người nguyên thủy, khoảng 45-50 tuổi. Vì xương cánh tay trái còn tương đối nguyên vẹn nên đoàn khảo cổ cũng tính được chiều cao của người này là 1,56 m. Đặc biệt, hộp sọ gối lên một thềm đá và có độ hóa thạch khá cao. Ở hàm trên răng cối nhỏ, cối lớn và răng nanh còn nguyên vẹn, chỉ thiếu bộ răng cửa.

kc

Hai con ốc đặt trong hốc mắt người chết.


Theo PGS.TS Trình Năng Chung, hài cốt Phia Vài có hộp sọ còn khá nguyên vẹn nhưng do bị cột đá nén ép nên bị bẹp ở phần xương đỉnh và chấm bên phải làm cho hai mỏm chũm và má bên phải bị lệch. Khi các nhà khảo cổ dùng thủ thuật nghề nghiệp để khám phá đã làm lộ dần hai con ốc nằm gọn trong hốc mắt của người đàn bà này.

Theo GS. Nguyễn Lân Cường, đây là loại ốc biển có tên khoa học Cyprea arabica. Con ốc nằm ngửa trong hốc mắt bên trái dài 27,23 mm, rộng 16 mm. Con ốc trong hốc mắt bên phải dài 21,61mm, rộng 13,13mm. Theo ông Cường, thời người phụ nữ này còn sống, người ta dùng loại ốc biển này để trao đổi hàng hóa giống như một loại tiền tệ. Trong lúc mai táng, người ta đã đặt lên mỗi mắt một con ốc để khi phần da thịt tiêu đi, con ốc sẽ tụt xuống hốc mắt như thay cho con ngươi.

Dựa vào vị trí của xương tay, xương sườn và chậu hông, GS. Nguyễn Lân Cường cho rằng, đây là di cốt chôn nguyên dạng, chưa qua cải táng. Di cốt thuộc nền văn hóa Hòa Bình, chưa từng được phát hiện. Những hộp sọ có niên đại tương tự phát hiện ở Đông Nam Á cũng không thấy cách khâm liệm đặt ốc vào hốc mắt như ở Phia Vài.

“Di chỉ hài cốt người nguyên thủy ở hang Phia Vài có giá trị rất lớn đối với ngành khảo cổ. Đó là một phát hiện lớn, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Tuy nhiên, bảo tồn di cốt xương người không đơn giản nên phải có sự vào cuộc của các cấp ngành”, PGS.TS Trình Năng Chung cho biết.

Theo An ninh thủ đô

 

Phát hiện Gò Ngục trong Di sản Thành nhà Hồ

 

 

Gò Ngục cùng nhiều di vật được phát hiện cách Hoàng thành 150 m về phía Tây - Nam thuộc Di sản Thành nhà Hồ được các cơ quan chức năng tiến hành khai quật, nghiên cứu.

Phát hiện Gò Ngục trong Di sản Thành nhà Hồ

Trung tâm bảo tồn Di sản Thành nhà Hồ phối hợp với Viện khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật di tích Gò Ngục (hay còn gọi là Góc Ngục) thuộc Di sản Thành nhà Hồ.

Kết quả khai quật bước đầu của các nhà khảo cổ học cho thấy, đã xuất lộ nền móng hệ thống sân nền lát gạch, cống thoát nước bằng đá và hàng nghìn di vật như: ngói mũi vát, gạch bìa, gốm men, đồ sành...

Theo phát hiện của các nhà khảo cổ học, Gò Ngục có chiều rộng 1.288 m2, thuộc thôn Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, cách Hoàng thành 150 m về phía Tây - Nam.

Nhận định của các nhà khảo cổ thì Gò Ngục có sự phát triển liên tục trong hai giai đoạn gồm, giai đoạn thời Trần - Hồ (thế kỷ 14 - 15) thì đây có thể là khu vực nhà ngục của triều đình và giai đoạn thứ hai là thời Lê Sơ (thế kỷ 15 - 16), đây có thể là đồn binh hoặc trại lính bảo vệ vòng ngoài của kinh thành.


Theo các chuyên gia UNESCO nhận định, đây là phát hiện rất quan trọng, góp phần khẳng định trung tâm kinh thành Tây Đô có sự phát triển liên tục, nối tiếp về văn hóa qua các giai đoạn lịch sử và các triều đại khác nhau, chứ không chỉ tồn tại và phát triển trong giai đoạn Trần - Hồ.

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện thành phố cổ trong Tam giác quỷ Bermuda

 

 

Ngày 24/10, nhóm các nhà khoa học Canada đã bất ngờ phát hiện ra một thành phố cổ với 4 kim tự tháp chìm trong Tam giác quỷ Bermuda, cách bờ biển phía Đông của Cuba 700 mét.

Phát hiện trên là một bất ngờ thú vị đối với giới khảo cổ nói riêng và thế giới nói chung.

Nhóm nghiên cứu do hai nhà khoa học Paul Vayntsveyg và Polina Zalittski dẫn đầu đã phát hiện ra thành phố chìm với nhiều tòa nhà hoành tráng và 4 kim tự tháp, trong đó có một kim tự tháp được xây dựng bằng thủy tinh đẹp lấp lánh.

Kiểu kiến trúc của thành phố cổ làm cho giới nghiên cứu Canada liên tưởng tới nền văn hóa “cấp tiến” cổ xưa của Mỹ Latinh thời kỳ Teotihuacan, giai đoạn tiền sử cổ điển của Trung Mỹ và vùng Caribean.

Ngoài ra, họ cũng tìm thấy cả Sphinx và một số cấu trúc nguyên khối, những nét khắc họa tường nhà của cư dân thuộc nền văn minh tiên tiến, tương tự văn hóa Teotihuacan.

Vào đầu những năm 2000, công ty của Vayntsverg và Zalittski đã thực hiện bản đồ mô tả đáy đại dương theo đơn đặt hàng của chính phủ Cuba.

Trong thời gian làm việc, cặp vợ chồng đã chú ý tới những hình khối kỳ lạ dưới đáy biển, mà theo họ là những cấu trúc nhân tạo và đó chính là manh mối dẫn tới phát hiện thú vị trên.

Tam giác Bermuda là một vùng biển "nguy hiểm" có diện tích khoảng 400 nghìn km2 ở phía bắc Đại Tây Dương, khu vực này được giới hạn bởi quần đảo Bermuda, thành phố Miami trong bang Florida và đảo Puerto Rico thuộc Mỹ.

Tam giác Bermuda được gắn với biệt danh "Tam giác quỷ" trước hết vì vô số vụ mất tích kỳ bí xảy ra tại đây.

Thống kê cho thấy, hàng trăm máy bay và các tàu thuyền đã bị "nuốt chửng" một cách bí ẩn trong khu vực, trong đó phải kế đến một số tàu thủy khổng lồ như tàu vận tải USS Cyclops của Mỹ (mất tích không để lại dấu vết cùng 306 thành viên thủy thủ đoàn và hành khách vào năm 1918) hay tàu chở nhiên liệu SS Marine Sulphur Queen (biến mất bí ẩn cùng 39 thành viên thủy thủ đoàn và 15.000 tấn lưu huỳnh lỏng năm 1963).

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Kho vàng 2.400 tuổi ở Bulgaria

 

 

Các nhà khảo cổ học vừa phát hiện kho vàng khoảng 2.400 tuổi trong một ngôi mộ Thrace, miền bắc Bulgaria.

Kho báu này tìm thấy hôm thứ năm khi các chuyên gia tiến hành khai quật gần ngôi làng Sveshtari, cách thủ đô Sofia khoảng 400 km về phía đông bắc, Telegraph dẫn lời trưởng nhóm khảo cổ Diana Gergova nói với AP.

Trong số hiện vật bao gồm các trang sức bằng vàng, vương miện, phù điêu sư tử và các loài động vật tưởng tượng, bốn vòng tay và một chiếc nhẫn.

Người Thracia từng sống tại nơi là Bulgaria ngày nay và một vài phần ở Hy Lạp, Romania, Macedonia và Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 4.000 trước Công nguyên tới thế kỷ 8 sau Công nguyên. Sau đó họ bị người Slavs đồng hóa.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Công trình khoa học đầy đủ nhất về di tích Óc Eo

 

 

Những nguồn tư liệu lịch sử và khảo cổ học liên quan đến di sản văn hóa tiền sử - cổ sử ở An Giang vừa được tập hợp một cách hệ thống và đầy đủ nhất bởi công trình khoa học mang tên "Những di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở An Giang" đoạt Giải thưởng Trần Văn Giàu 2009.

An Giang là mảnh đất được biết đến nhiều bởi những khám phá về thời kỳ lịch sử gắn với tên gọi "nền văn hóa Óc Eo" nổi tiếng vùng Đông Nam Á - đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới tiếp tục quan tâm tìm hiểu. Qua tiếp xúc và trao đổi với PGS-TS Phạm Đức Mạnh, chủ nhiệm đề tài trên, chúng tôi biết, văn hóa Óc Eo được nêu lên bởi BS Gore từ năm 1879, L.Malleret từ năm 1937 và đợt khai quật đầu tiên tiến hành năm 1943. Đến nay số lượng các tài liệu về Óc Eo rất nhiều. Bên cạnh yêu cầu phải hệ thống hóa toàn bộ các tài liệu đó là việc phải bổ sung cập nhật thêm bằng các nghiên cứu thực địa, nên PGS-TS Phạm Đức Mạnh cùng các nhà khảo cổ như Phạm Thị Ngọc Thảo, Đỗ Ngọc Chiến, Nguyễn Công Chuyên đã trực tiếp mở 3 đợt điền dã từ năm 2006 đến 2008, tập trung vào những vùng đất quanh các dòng chảy lớn của An Giang, bao gồm những khu vực gò, giồng nổi, những vùng viền chân núi thấp. Ông nói: "Chúng tôi ưu tiên khai đào di chỉ khảo cổ học Gò Tư Trâm thuộc huyện Thoại Sơn nhằm khảo cứu thêm về địa tầng cư trú điển hình thời văn hóa Óc Eo qua tài liệu gốm, cũng như di tích khảo cổ học Gò Cây Tung thuộc huyện Tịnh Biên nhằm khảo cứu rõ hơn về địa tầng và cả các di tồn nhân cốt rất hiếm quý ở đây. Kết quả mới nhất đó, cùng các tư liệu trước kia, đã nêu rõ trong công trình nghiên cứu và biên soạn mà các bạn đã biết gồm 6 phần, trong đó phần trình bày về Di tích văn hóa cổ và sưu tập di vật văn hóa tiêu biểu thời tiền sử và cổ sử An Giang chiếm dung lượng lớn nhất và là trọng tâm của đề tài".

* Vậy ông có thể nêu một vài nét nổi bật trong các di vật văn hóa trên?

"Những tư liệu được hệ thống đầy đủ của công trình là kết quả thống kê các loại hình di tích, di vật được phát hiện qua toàn bộ nhiều cuộc điều tra, điền dã, khai quật khảo cổ học một thế kỷ qua trên vùng đất An Giang. Các tư liệu đã cập nhật được những thông tin mới nhất thời gian qua. Đây là nguồn tài liệu tin cậy, có giá trị khoa học cao".
Nhà nghiên cứu Tô Bửu Giám (Chủ tịch UBGT Trần Văn Giàu)

- Đó là các di vật thời tiền sử sưu tầm ngẫu nhiên tại nhiều địa điểm vùng Thoại Sơn. Như cuốc đá có vai, rìu bôn tứ giác ở Đá Nổi; rìu bôn tứ giác và có vai, nạo, vòng đĩa lớn, thẻ đeo ở Óc Eo, ở hang Núi Sập, ở Vọng Thê; các công cụ đục, dao đá, bàn mài, chày nghiền, đá trang sức ở Ba Thê. Vùng Châu Đốc tìm thấy ở Phước Cô Tự, gốm vỡ, xương cốt động vật ở Vĩnh Đông. Vùng Tịnh Biên tìm thấy cuốc và rìu bôn tứ giác ở Thới Sơn... Chúng tôi giới thiệu toàn bộ kết quả giám định thạch học mẫu đá và quang phổ mẫu gốm, kim khí, giám định răng người và động vật ở Gò Cây Tung, ghi nhận kết luận của Nguyễn Lân Cường và Nguyễn Kim Thủy rằng sọ cổ Gò Cây Tung "rất gần gũi với các sọ của cư dân Thái Lan, Việt và cư dân Đông Sơn cổ (nhóm loại hình Đông Nam Á), nhưng khác biệt hẳn với người Thượng và người Khmer".

* Công trình biên soạn trên có hệ thống, phân tích và giới thiệu giá trị của nhiều di vật có hình khỉ, voi, dê, heo, bò, ngựa, đầu sư tử, rùa bằng đá, mã não, tượng phụ nữ và "người tôi đòi" Phù Nam bằng đồng; các tấm khắc bằng thiếc trang trí hình phụ nữ đứng, hình sao biển, hình vỏ trai và phù điêu đất nung trang trí hình người, sư tử, thủy quái, viên ngói có đắp nổi hình rắn hổ mang, rùa... và đặc biệt là di vật vàng lá?

- Vâng, có đến hàng ngàn phiến vàng lá Óc Eo rất đa dạng, đặc biệt 819 trong số 1.166 mảnh vàng thống kê có hình chạm khắc, hoặc dập cắt tạo hình mang nhiều đề tài như "Người - thần và nhân thần", hình các vị Brahma, Siva, Vishnu và bàn chân của ngài, Vishnu và các bà vợ của ngài, các thần Indra và Syrya cưỡi trên lưng ngựa, Rahma cưỡi trên khỉ Hanuman, các hộ pháp, tu sĩ, mẫu thần và nhân sư... Các lá vàng trang trí vật thể, hình hình học và đặc biệt gò nổi - chạm miết văn tự cổ với số lượng lớn nhất, gồm 445 tiêu bản chiếm tới 54,4% tổng số lá vàng có trang trí.

* Ông cho biết thêm về các tượng thờ và linh vật sưu tầm đã được khảo cứu?

- Nhóm tượng thờ Phật giáo bao gồm sưu tập tượng Phật bằng gỗ và bằng đá, hay bằng đồng ở các tư thế đứng hoặc ngồi kiết già, phù điêu Phật đồng mạ vàng... Nhóm tượng thờ Hindu giáo bằng đá hay đồng gồm các vị thần Brahma, Shiva cưỡi Nandin, Vishnu cưỡi Garuda, cùng sưu tập khá lớn tượng các nữ thần và nam thần khác. Nhóm linh vật gồm Linga, Linga-Yoni với các loại hình và kích thước khác nhau, bằng nhiều loại chất liệu như đá granite, sa thạch, diệp thạch, đá thủy tinh, hay đất nung. Đáng kể là các Yoni và áng thiên, bồn rửa, hay chậu tắm lễ, rất phong phú bằng đá hoa cương, sa thạch, hay đá phiến trải khắp đồng bằng Óc Eo, các vùng núi Ba Thê, Núi Sam, Bảy Núi. Đó còn là các bệ thờ, bánh xe luân hồi bằng đá, nhiều vật thờ bằng đồng thau vừa sưu tầm ở Châu Phú. Đặc biệt gây chú ý là những "dòng sử" bằng Phạn ngữ khắc ghi trên đá và trên vàng - bạc, góp thêm cứ liệu rất quan trọng để tìm biết về đời sống văn hóa vật chất - tinh thần "có chữ" Phù Nam xưa, bên cạnh không ít "minh văn Nam Bộ" từng được giải mã, với những thông tin rất thú vị về chính thời văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở cuối nguồn Mê Kông.

* Sau phần hệ thống toàn bộ tư liệu hiện biết về văn hóa Óc Eo trên đất An Giang, cùng các phân tích và nhận định khoa học, hẳn ông và các nhà khảo cổ của công trình đã rút ra một số kết luận?

- Từ 1975 đến nay, giới khảo cổ Việt Nam phối hợp với đồng nghiệp Pháp, Nhật, Nga, Anh, Mỹ, Đức, Trung Quốc triển khai nhiều chương trình nghiên cứu điền dã tổng hợp về chuyên đề vùng "đất hứa" châu thổ. Họ khai đào hơn 110 di tích, sơ kết tới 386 điểm trong các chuyên khảo lớn, làm sáng tỏ thêm nhiều điều nhận thức về một truyền thống văn hóa đặc sắc của Óc Eo. Đó là nền văn hóa đầm lầy ven biển cổ, gắn với lục địa "miệt trên" vốn là bán bình nguyên phát triển phồn thịnh "vang bóng một thời", về sau chìm dần trong quên lãng, đi đến chỗ "mất dấu" trong sử sách trung cổ và cả trong bia ký nữa, vì nguyên cớ gì? Vì hải xâm hay hồng thủy? Vì sụt lún hay dịch họa? Vì sao mất hẳn vai trò "thị cảng" mậu dịch quốc tế - thế mạnh tỏa hào quang khắp bờ biển Thái Bình trong nhiều thế kỷ? Chưa thật vững tin vào một nguyên cớ duy nhất nào nêu trên. Nên theo chúng tôi, hãy cứ tiếp tục tìm hiểu về tất cả nguyên cớ, tiếp tục lần theo vết tích con người "hậu Óc Eo" dần vắng bóng trên miền trũng thấp tây sông Hậu. Cũng như cần nghiên cứu, tìm kiếm thêm tài liệu và chứng cứ về thành cổ bị vùi sâu, tháp bị sập đổ, lung lạch cạn dần, đền đài - cung điện - lăng tẩm bị mưa nắng, gió bụi, cỏ cây phủ lấp. Sau ngày tàn lụi kia, phải chờ đến các lớp cư dân Việt đi mở nước, vốn thật xa xưa có cùng "dạng sống Đông Sơn" với chủ nhân phức hệ văn hóa Đồng Nai, hợp cùng nhiều nhóm tộc người bản địa khác, mới hoàn tất công cuộc khai phá miền đồng bằng châu thổ ngút ngàn nhất Việt Nam, trở lại phồn vinh hơn với dạng sống xã hội "trọng điểm lúa" trong "cấu trúc kinh tế nông - công - thương nghiệp" toàn Nam Bộ ngày nay.

* Cám ơn ông.

Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu với quỹ ban đầu (do GS Trần Văn Giàu đưa ra) là 1.000 lượng vàng do nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng (đã mất) làm chủ tịch đầu tiên. Hiện nay, Ủy ban gồm các vị: 1. Nhà nghiên cứu Tô Bửu Giám (chủ tịch), 2. GS-TS Nguyễn Phan Quang (phó chủ tịch), 3. PGS-TS Nguyễn Văn Lịch (phó chủ tịch thường trực, phụ trách nội dung), 4. Ông Nguyễn Thiện Chiến (tổng thư ký), 5. GS-TS Ngô Văn Lệ, 6. PGS Hà Thúc Minh, 7. Nhà nghiên cứu lão thành Võ Sĩ Khải. Ủy ban còn có 3 cán bộ văn hóa. Tất cả 10 vị.

Giải thưởng trao cho tác phẩm có giá trị và chưa công bố (hoặc mới công bố trong vòng 1 năm) trên hai lĩnh vực: Lịch sử (mỗi năm một giải) và Lịch sử tư tưởng (mỗi năm một giải) nhưng trong 5 năm đầu (từ 2003 - 2008) chỉ chọn và trao được 3 lần và cả 3 đều thuộc lĩnh vực lịch sử (chưa có tác phẩm về lịch sử tư tưởng nào được trao giải). Năm nay 2009, công trình "Những di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở An Giang" do PGS-TS Phạm Đức Mạnh và nhóm các nhà khảo cổ thực hiện nhận giải cũng thuộc lĩnh vực Lịch sử và được đánh giá: "Đây là những đóng góp mới có giá trị khoa học lịch sử cao, góp phần tìm hiểu sâu hơn và toàn diện hơn về vùng đất Nam Bộ".

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nghê cổ 3kg mới tìm thấy được làm bằng gì?

 

 

Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên (thuộc Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho biết: Tượng nghê vừa được người dân phát hiện ở Hải Phòng mới đây không phải bằng đá xanh mà là bằng đất nung.

Nghê cổ 3kg mới tìm thấy được làm bằng gì?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên, từ những gì quan sát được cho thấy, hiện vật mới được phát hiện (tượng nghê) là một trang trí trên mái ngói của một kiến trúc cổ. Chất liệu của trang trí này làm bằng đất nung. Tuy nhiên do độ nung cao nên đã biến thành sành. Hiện vật trên không phải làm bằng đá xanh.

Trước đó, như một số báo đã đưa tin, trong lúc đào móng xây nhà, gia đình anh Nguyễn Văn Ngọc (trú xóm 7, xã Tam Cường, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) tình cờ đào được một con nghê cổ bằng đá xanh. Con nghê nặng khoảng 3 kg, dài 35cm, rộng 30cm với những hoa văn và đường nét chạm trổ hết sức độc đáo.
Việc anh Ngọc phát hiện cổ vật khiến rất nhiều người dân hiếu kỳ kéo đến xem. Anh Ngọc mong cơ quan chức năng giúp anh xác định chính xác niên đại cũng như giá trị của cổ vật này.

Một số người cao tuổi trong làng thì cổ vật trên có thể mang niên đại từ thời nhà Lý.

Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên, niên đại của các hiện vật tương tự như tượng nghê nói trên thường là thuộc vào thế kỷ XVIII (thời nhà Nguyễn).

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện côn trùng 500 triệu tuổi đã có não

 

 

Các nhà khoa học vừa phát hiện hóa thạch loài côn trùng với cấu tạo não phức tạp lâu đời nhất thế giới, có niên đại khoảng 500 triệu năm tuổi.

Hóa thạch được phát hiện trong đá bùn ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc là loài Fuxianhuia protensa, tổ tiên cổ xưa của loài chân đốt ngày nay. Chúng xuất hiện ở kỷ Cambri có niên đại cách đây 520 triệu năm.

Phát hiện này đã thay đổi suy nghĩ của các nhà khoa học về sự tiến hóa bộ não của loài này, cho thấy não của chúng phát triển phức tạp sớm hơn so với chúng ta nghĩ, đồng thời làm sáng tỏ về lịch sử tiến hóa của loài động vật chân đốt.

Tiến sĩ Nicholas Strausfeld, tác giả của nghiên cứu thuộc Trường đại học Arizona (Mỹ), cho biết: “Không ai nghĩ rằng một động vật có cấu tạo não phức tạp lại xuất hiện sớm đến như vậy trong lịch sử của các loại động vật đa bào”.

Nghiên cứu hứa hẹn sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong nghiên cứu về quá trình tiến hóa của côn trùng thành những loài động vật mà chúng ta thấy ngày nay.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9907729
Số người đang online: 12