Tạp chí Tiếng anh Khảo cổ học số 9/2014

 

 

 
 

Tạp chí Khảo cổ học số 2/2015

 

 

 

 

 

   

 

   

 

KHẢO CỔ HỌC

Mục Lục

 

6 số một năm – số 2/2015 (194)

Trang

 
TỔNG BIÊN TẬP
Bùi Văn Liêm
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP

Nguyễn Gia Đối

 

 

 

 

 

TRÌNH BÀY BÌA

Thân Thị Hằng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

61 - Phan Chu Trinh – Hà Nội

Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607

Email: tapchikhaoco@gmail.comĐịa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó.

ĐINH HỒNG HẢI, BÙI HUY VỌNG

Từ mộ Pộ Mo đến biểu tượng người có sừng ở hang Đồng Nội: Một nghiên cứu "khảo cổ học nhân văn"

3

NGUYỄN NGỌC QUÝ, TRẦN QUÝ THỊNH

Đặc trưng phân bố các di tích khảo cổ tiền sử và sở sử ở Khánh Hòa

15

TRẦN QUÝ THỊNH, NGUYỄN NGỌC QUÝ

Không gian phân bố các di tích thời tiền sử và sơ sử ở tỉnh Đồng Nai

27

TRÌNH NĂNG CHUNG

Thạp đồng Đông Sơn trong mối quan hệ với thạp đồng ở Nam Trung Quốc

35

HOÀNG THÚY QUỲNH, BÙI VĂN LIÊM

Loại hình mộ chum Việt Nam qua nghiên cứu các giai đoạn phát triển và khu vực phân bố

47

NGUYỄN MINH KHANG

Một số phế tích kiến trúc và hiện vật của nhóm Đền tháp ở Hòa Lai ở Ninh Thuận

58

TRẦN ANH DŨNG

Khai quật chùa Lang Đạo lần thứ nhất

66

TRẦN VĂN BẢO

Những mộ cổ ở Lâm Đồng và vấn đề chủ nhân

85

Thông tin hoạt động Khảo cổ học

Giới thiệu sách

 

97

98

 

 

 

 

VIETNAM ACADEMY OF SOCIAL SCIENCES

 

 

INSTITUTE OF ARCHAEOLOGY

 

 

 

Archaeology

contents

 

6 Editions p.a - 2/2015 (194)

Page

EDITOR-IN-CHIEF
Bùi Văn Liêm
DEPUTY EDITOR
Nguyễn Gia Đối

 

 

 

 

COVER PRESENTATION
Thân Thị Hằng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

EDITORIAL BOARD

61-Phan Chu Trinh – Hà Nội

Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607

Emai: tapchikhaoco@gmail.comĐịa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó.

 

ĐINH HỒNG HẢI, BÙI HUY VỌNG

From Pộ Mo’s hat to the symbol of human face with horn at Đồng Nội Cave: A study of “humane archaeology”

3

NGUYỄN NGỌC QUÝ, TRẦN QUÝ THỊNH

15

Distributive characteristics of pre/protohistoric sites in Khánh Hòa province

 

TRẦN QUÝ THỊNH, NGUYỄN NGỌC QUÝ

Distributive space of pre/protohistoric sites in Đồng Nai province

27

TRÌNH NĂNG CHUNG

Đông Sơn-culture bronze tubular jars (thạp) in relation to those from south China

35

HOÀNG THÚY QUỲNH, BÙI VĂN LIÊM

Types of jar burials in Việt Nam from the research into various development stages and distributive areas

47

 

NGUYỄN MINH KHANG

Some architectural ruins and artifacts of Hòa lai stupa/temple group in Ninh thuận province

58

TRẦN ANH DŨNG

The first excavation of Làng Đạo Pagoda site

66

TRẦN VĂN BẢO

Ancient cemeteries in Lâm Đồng province and the problem of their owners

85

 

 

R Information of Archaeological Activities

R Book Recommendation

97

98

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nho giáo đạo học trên đất Kinh Kỳ

 

 

Đạo học là một thuật ngữ bao hàm những ý nghĩa kép. Có một ý nghĩa là đạo và một ý nghĩa là học. Đạo theo nghĩa chữ hán là con đường, song đồng thời cũng lại là một từ ám chỉ tâm linh mang ý nghĩa của một tôn giáo. Học là học nhân cách, học lễ nghĩa, học để sống. Đạo học được đề cập ở đây là vấn đề giáo dục.

Mặc dù cuốn sách Nho giáo đạo học trên đất Kinh Kỳ của nhóm tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Thị Hồng Hà đề tài viết về Đạo học trên đất Kinh kỳ (Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội) nhưng tác giả không chỉ khoanh gọn mang tính giới hạn của một địa phương mà còn coi mảnh đất Kinh kỳ này là một trung tâm giáo dục đào tạo tiêu biểu cho cả nước và một khu vực lớn nên có nhiều người tuy không phải sinh ra ở đây mà chỉ là bằng nhiều cách, có thể là con nuôi, có thể là theo gia đình lên học và đỗ đạt tại mảnh đất này nên vẫn tính là người thuộc đất Kinh kỳ.

Nội dung cuốn sách gốm 8 chương trình bày về các vấn đề nho giáo, đạo học ở Việt Nam trước những cú huých của lịch sử, vụ nghi án hồ Dâm Đàn, cải cách Hồ Quý Ly hay con đường định mệnh của Nho giáo, về Văn Miếu Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, về chế độ thi cử nho giáo trên đất Kinh Kỳ, các tiến sĩ nho học còn lưu danh trên đất Kinh Kỳ, và đề cập đến vấn đề đào tạo sau đại học.

Nxb: Văn hóa-Thông tin

Khổ:14,5x20,5

số trang: 496 trang

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn

 

 

Miền Trung có vị trí quan trọng hàng đầu trong lịch sử Việt Nam thống nhất dưới thời Nguyễn. Triều Nguyễn nhận ra được vị thế đó nên đã sớm xây dựng một chiến lược quốc phòng để bảo vệ an ninh ở các tỉnh miền Trung. Bởi vì có bảo vệ được các tỉnh miền Trung mới đảm bảo sự an toàn cho Kinh đô Huế, cho vương triều Nguyễn.

Để đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước, mà sống còn là bảo vệ Kinh đô Huế, triều Nguyễn xây dựng hệ thống phòng thủ cảng biển và biển đảo, hệ thống các doanh điền và sơn phòng miền núi ở các tỉnh miền Trung rất đặc trưng và đã gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc qua nhiều sự kiện nổi bật vào nửa sau thế kỷ XIX.

Cuốn sách Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn của PGS.TS Đỗ Bang thuộc đề tài cấp bộ: Hệ thống công trình phòng thủ các tỉnh miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885) trong năm 2009-2010 của tác giả.

Nhà Lý, nhà Trần bảo vệ đất nước, bảo vệ kinh đô Thăng Long đã xây dựng các phòng tuyến phòng thủ từ Lạng Sơn đến Sông Cầu. Triều Nguyễn muốn bảo vệ đất nước, bảo vệ Kinh đô Huế và vương triều thì phải biết tăng cường phòng thủ hai mặt biển và núi. Nếu biết ứng xử với biển và núi đúng đắn, thích nghi không những sẽ mang lại hiệu quả trong phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng mà còn phát huy giá trị văn hóa, lịch sử.

Nội dung cuốn sách làm rõ quá trình xây dựng hệ thống phòng thủ cửa biển, bảo vệ vùng biển đảo, xây dựng các đồn lũy, căn cứ quân sự ở vùng núi các tỉnh miền Trung của triều Nguyễn từ đầu thế kỷ XIX đến thời kỳ khởi phát phong trào Cần Vương.

Xin trân trọng giới thiệu đến đông đảo bạn đọc quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề này !

Ngô Thị Nhung

 
 

Thành cổ Chămpa - những dấu ấn của thời gian

 

 

Như các quốc gia cổ khác trong khu vực Đông Nam Á, có thể nói, lịch sử gần hai chục thế kỷ của vương quốc Chămpa là lịch sử hình thành và phát triển liên tục của các đô thị. Không phải ngẫu nhiên mà cái tên đầy đủ của Chăm pa (Chămpapura) có nghĩa là “thành thị Chămpa” mà người Trung Quốc và người Việt thường gọi là Chiêm Thành, theo các nhà nghiên cứu vương quốc Chămpa được hình thành trên cơ sở liên hiệp của các “tiểu quốc” theo cấu trúc Mandala. Mà, mỗi thành viên của Mandala đều có đô thành riêng của mình. Vì vậy, dấu tích mà các đô thị cổ Chămpa để lại cho chúng ta hôm nay không phải là ít.

Là một nhà khoa học, một người đã nghiên cứu lịch sử và văn hóa Chămpa trong nhiều năm, tác giả Ngô Văn Doanh muốn giới thiệu đến bạn đọc công trình Thành cổ Chămpa - những dấu ấn của thời gian, thông qua cuốn sách tác giả muốn trình bày một cách tương đối và đầy đủ và có hệ thống về những dấu tích và hiện trạng của các tòa thành cổ Chămpa cũng như những di sản vật chất và tinh thần mà những tòa thành này để lại

 

Các di tích thành cổ không chỉ có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu lịch sử và văn hóa của vương quốc cổ Chămpa, mà còn là những di tích kiến trúc dân sự quan trọng mà người Chăm xưa đã để lại cho chúng ta hôm nay. Bên cạnh và cùng với các đền tháp, các tòa thành cổ là những chứng nhân thầm lặng, trung thực và cô đúc cho lịch sử và văn hóa của vương quốc Chămpa.

Để thuận tiện cho bạn đọc theo dõi, tác giả phân cuốn sách thành hai phần: phần viết và giới thiệu về các quốc đô và phần viết, giới thiệu về các đô thị cấp vùng miền.

 - Nxb: Thế giới

- Khổ: 14x20,5

- Số trang:317 trang

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Tháp Dương Long – Kiến trúc và điêu khắc

 

 

Trong hệ thống kiến trúc tháp Chàm ở Việt Nam, hệ thống tháp Chàm Bình Định được định danh thành một phong cách kiến trúc riêng. Với tổng số 8 cụm tháp trên tổng số 14 tháp hiện còn, được xem là một gia tài vô giá của quá khứ để lại cho vùng đất này.

Trong 14 tháp Chăm hiện còn của Bình Định, Tháp Dương Long không chỉ là tháp gạch cao của Đông Nam Á mà còn có vị trí khá đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Chăm ở Việt Nam.

Cuốn sách Tháp Dương Long – Kiến trúc và điêu khắc của tác giả Đinh Bá Hòa là kết quả nghiên cứu trong nhiều năm và những lần chủ trì và trực tiếp khai quật khảo cổ học tại các ngôi tháp ở vùng này của tác giả.

Về tổng thể kiến trúc và điêu khắc của Tháp Dương Long , cái chính là yếu tố Chăm, nhưng đã mang nhiều nét của yếu tố ngoại sinh. Cái độc đáo trong kiến trúc và điêu khắc Tháp Dương Long , đó là sự kết hợp tài tình giữa hai chất liệu gạch và đá.

Tháp Dương Long được xây dựng theo một tín ngưỡng thống nhất, tháp chính giữa thờ thần Shiva, hai tháp hai bên thờ hai vị thần Visnu và Brahma. Thần Siva là một trong tam vị nhất thể của đạo Bà La Môn tượng trưng cho sự sáng tạo và hủy diệt, thần Brahma tượng trưng cho sự sinh thành, và Visnu tượng trưng cho sự bảo tồn, cả ba nằm trong sự luân chuyển không ngừng trong vũ trụ.

Cuốn sách được trình bày dưới dạng catolo ảnh, rất nhiều hình ảnh về tháp, và các biểu tượng trang trí của tháp, nội dung cuốn sách gồm 4 chương: 1/ tháp Dương Long - cái nhìn qua thời gian; 2/ Kiến trúc Tháp Dương Long; 3/ Tháp Dương Long nghệ thuật và điêu khắc; 4/ Tháp Dương Long qua tư liệu khảo cổ học.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nghệ thuật chạm gỗ và tạc tượng đồng bằng sông Hồng

 

 

Nghề mộc xuất hiện cách ngày nay hàng ngàn năm, nhưng cho tới thế kỷ XIV-XV, các làng nghề mộc vùng châu thổ sông Hồng mới dần được hình thành và phát triển.

Mặc dù xuất hiện muộn hơn các nghề có niên đại từ thời tiền, sơ sử (như nghề chế tác đá, nghề đan, nghề làm đồ gốm, nghề chế tác kim loại …) song nghề mộc ở nước ta vẫn được coi là một nghề nảy sinh và phát triển sớm, bởi nó phải đáp ứng một trong những nhu cầu thiết yếu của con người khi bước chân ra ngoài hang động, đó là nhu cầu tạo dựng nơi ở.

Cuốn sách Nghệ thuật chạm gỗ và tạc tượng đồng bằng sông Hồng của nhóm tác giả Trương Duy Bích và Trương Minh Hằng là thành quả nhiều năm khảo sát thực địa của nhóm nghiên cứu. Trong hệ thống các làng nghề thủ công mỹ nghệ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, với mục đích là lựa chọn 4 làng có các nghề tương đối giống nhau và sử dụng nguyên liệu gỗ là nghề đóng đồ mộc, nghề chạm gỗ, nghề chế tác tượng Phật hoặc tượng các con rối … thuộc 4 xứ “Đông, Nam, Đoài, Bắc” của châu thổ sông Hồng, nhóm nghiên cứu đã thực hiện các đề tài: Làng nghề chạm gỗ La Xuyên, Làng nghề Chàng Sơn, Làng nghề chạm gỗ Phù Khê … Đây là những công trình thuộc hệ thống các đề tài “tiềm năng” của Viện.

Nội dung của cuốn sách bao gồm 2 phần lớn:

Phần 1: Đặc trưng nghệ thuật chạm gỗ và tạc tượng đồng bằng sông Hồng

Phần 2: Giới thiệu một số làng nghề tiêu biểu vùng đồng bằng sông Hồng

Với công trình này, nhóm tác giả tìm hiểu những vấn đề cốt lõi của nghệ thuật chạm khắc gỗ và tạc tượng với mục đích làm rõ những đặc trưng riêng biệt và sự đóng góp của dòng nghề này trong đời sống vật chất và tinh thần xã hội Việt xưa và nay.

-Nxb: Văn hóa - Thông tin

- Số trang: 390 trang

- khổ sách: 14,5x20,5

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung

 

 

Cuốn sách Đi tìm dấu tích  Cung điện Đan Dương – sơn lăng  của Hoàng đế Quang Trung  của tác giả Nguyễn Đắc Xuân - Hội viên hội nhà văn Việt Nam, Hội khoa học lịch sử, Nhà nghiên cứu văn hoá Huế, ông đã xuất bản hơn 50 tựu sách về nghiên cứu lịch sử, văn hoá triều Nguyễn và Huế xưa xuất bản năm 2007 và lần này được tái bản lại năm 2015.

Trong lần tái bản này, tác giả đều dựa chủ yếu vào cuốn sách đã xuất bản nên không có gì mới. Do đó tác giả không đưa thêm những bài ấy vào cuốn sách tái bản lần này, tác giả giữ nguyên bản in lần trước, chỉ rút bớt những bài nghiên cứu về Nguyễn Huệ - Quang Trung không liên quan trực tiếp đến việc đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương đã đăng, cụ thể là các bài:

- Chiến dịch giải phóng Thuận Hoá – Phú Xuân diễn ra đúng vào ngày tháng nào trong năm 1786.

- Sự đóng góp của nhân dân Thuận Hoá – Phú Xuân cho phong trào Tây Sơn.

- Chân dung Nguyễn Huệ - Quang Trung qua một số thư tịch cổ.

Cuốn sách được xem như một đóng góp, một giải pháp mới cho một vấn đề lịch sử, không những là sự thao thức của giới nghiên cứu mà còn của dân tộc Việt trong và ngoài nước hơn nửa thế kỷ qua.

-Nxb: Thế Giới

-Số trang: 219 trang

-Khổ: 14,5x20,5 cm

Xin trân trọng giới thiệu !

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nghề luyện kim văn hoá Đồng Đậu

 

 

Việc phát minh ra nghề luyện kim, mà trước hết là luyện kim đồng đã đánh dấu một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử kỹ thuật của nhân loại. Với những tác động to lớn, nghề luyện kim đã thúc đẩy xã hội tiến đến thời đại văn minh. Ở khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nghề luyện kim đã xuất hiện từ giai đoạn Phùng Nguyên (4.000-3.500 BP), nhưng thực sự có sự phát triển mang tính dột phá như “cuộc cách mạng” từ giai đoạn Đồng đậu (3.500-3.000 BP), sau đó nó tiếp tục được phát triển lên một bước cao hơn trong giai đoạn Gò Mun (3.000-2.700 BP), và đạt đến đỉnh cao vào giai đoạn văn hoá Đông Sơn (2.700-1.800 BP).

Chuyên khảo “Nghề luyện kim văn hoá Đồng Đậu của tác giả Bùi Hữu Tiến được hoàn thiện dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn tài trợ kinh phí. Công trình là một tổng quan khoa học rất lý thú về một vấn đề mang tính then chốt trong nghiên cứu về khảo cổ học giai đoạn văn hoá Đồng đậu nói riêng và thời tiền sơ sử ở miền Bắc Việt Nam nói chung.

Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện, hoàn thiện nhất về nghề luyện đúc đồng văn hoá Đồng Đậu, qua đó đã tái dựng lại bức tranh toàn cảnh, đầy sức cuốn hút về nghề luyện kim trong một giai đoạn phát triển bứt phá mạnh mẽ.

Trong công trình này, tác giả không những giới thiệu đầy đủ các nét đặc trưng về di tích và di vật cùng công nghệ sản xuất đồ đồng thau giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, mà đặc biệt còn dùng các lý thuyết, cách tiếp cận mới ít được sử dụng trong nghành khảo cổ học ở Việt Nam như lý thuyết hệ thống, lý thuyết khan hiếm, lý thuyết mạng xã hội … để đi sâu phân tích, đánh giá, làm rõ tác động của nghề luyện kim đối với sự phát triển của kinh tế xã hội từ nông nghiệp, các nghề thủ công, mua bán, trao đổi đến đánh cá, săn bắn, thu lượm cũng như sự phân tầng xã hội, sự phân công lao động cùng vai trò của người đàn ông và các “thủ lĩnh luyện kim” trong đời sống xã hội lúc đó.

Với nguồn tư liệu phong phú, cách nhìn nhận đa chiều, sự phân tích cẩn thận, chu đáo và một tinh thần làm việc rất nghiêm túc, say mê, nhiệt huyết, sau 10 năm nghiên cứu, Bùi Hữu Tiến đã giới thiệu đến đông đảo bạn đọc, một ấn phẩm khoa học công phu với nhiều ý tưởng và nhận thức mới. Tác giả cho rằng nghiên cứu về nghề luyện kim chính là chìa khoá quan trọng nhất trong hành trình đi soi tìm, khám phá và khai mở những mảnh ghép lịch sử bí ẩn, để từ đó phác dựng lại bức tranh của thời kỳ văn hoá Đồng Đậu nói riêng và bức tranh lịch sử kinh tế của thời kỳ Tiền Đông Sơn nói chung.

Nxb: Thế Giới

Số trang: 219 trang

Khổ: 14,5x20,5 cm

Xin trân trọng giới thiệu !

Ngô Thị Nhung

 

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Đồ đồng Thời Nguyễn

 

 

 Trong những di sản thuộc thời Nguyễn (1802-1945) còn lưu lại, sản phẩm bằng đồng là loại hiện vật phong phú, đa dạng với nhiều kiểu loại và nhiều cách chế tác độc đáo. Sản phẩm chất liệu đồng thời Nguyễn được các cơ quan chuyên môn thuộc triều đình hoặc các cơ sở đúc đồng sản xuất ra theo lệnh vua, phục vụ nhu cầu của vua, hoàng gia, hoàng tộc và triều đình, còn nhân dân và quan lại từ cấp cao đến cấp thấp cũng tự chế tác đồ đồng từ các lò địa phương để sử dụng trong sinh hoạt hoặc trong thờ tự. Như vậy, đã tồn tại hai dòng đồ đồng dưới thời Nguyễn: dòng thuộc nhà nước và dòng trong dân gian.

 

Dòng đồ đồng thuộc nhà nước có nhiều loại hình với đặc điểm khác nhau, từ loại có ý nghĩa đặc biệt đến những vật dùng trong trang trí kinh thành, cung điện, những vật dụng trong tế tự, các loại vũ khí .v.v… đồ đồng dòng này còn lại ngày nay chủ yếu tập trung ở Huế: một số trong Bảo tàng cung đình Huế, trong các lăng tẩm vua Nguyễn.

Đồ đồng trong dân gian thời Nguyễn cũng rất phong phú, đó là những loại dùng trong tôn giáo, trong sinh hoạt hay mục đích mỹ thuật.

Nội dung cuốn sách gồm 2 phần lớn là: dòng đồ đồng thuộc nhà nước và dòng đồ đồng trong dân gian.

Đồ đồng Thời Nguyễn được hình thành trên cơ sở luận án Phó Tiến sĩ “Cửu Đỉnh và cổ khí đúc thời Minh Mạng (1820-1840)” của tác giả. Có thể  xem là công trình bước đầu hệ thống đồ đồng thời Nguyễn và là tài liệu học tập, tham khảo cho sinh viên Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – ĐHQG TP Hồ Chí Minh.

- Tác giả: Đặng Văn Thắng - Phạm Hữu Công

- Nxb: Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh

- Số trang: 564 trang.

- Khổ sách: 14,5x 20,5cm

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9912932
Số người đang online: 8