Vòng ống chân, vòng ống tay, khuyên tai hay nhẫn được chế tác từ nhiều chất liệu của người Việt cổ thời văn hóa Đông Sơn cách nay 2500-2000 năm lần đầu tiên được trưng bày tại Nghệ An.

Trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 126 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-2016), Bảo tàng Nghệ An tổ chức trưng bày triển lãm Nghệ An thời tiền sử đến buổi đầu dựng nước, tinh hoa cổ vật xứ Nghệ. Các hiện vật trong bộ sưu tập đồ trang sức của người Việt cổ thời kỳ văn hóa Đông Sơn (cách nay 2500-2000 năm) là phần đặc biệt của triển lãm.

 

Vòng ống chân, hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc, huyện Nghĩa Đàn (nay là thị xã Thái Hòa) năm 1981. Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Ở vành miệng và thân vòng được gắn nhạc đồng. Vòng ống chân, hay ống tay ngoài chức năng trang sức còn có nhiệm vụ chống đỡ, làm vật cản khi những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân...

 

Vòng ống tay, hiện vật thu được tại huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Theo nghiên cứu, những vòng ống tay, vòng ống chân hoa văn đẹp, đeo đầy những quả lục lạc tìm thấy không thể là của người dân Đông Sơn bình thường mà phải của tầng lớp quý tộc giàu có mới đủ khả năng và được quyền đeo. Điều này cho thấy xã hội thời cổ đã có sự phân hóa giàu - nghèo.

 

Vòng tay, hiện vật thu được tại di chỉ Đồng Mô, xã Hưng Thắng, huyện Hưng Nguyên. Theo tài liệu, người Việt cổ chọn lọc các chất liệu làm đồ trang sức rất đơn giản, dễ kiếm tìm và giàu màu sắc. Bắt đầu từ nguồn nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như đá đến nguyên liệu do con người tạo ra như đồng và thủy tinh.

 

Một loại vòng tay khác thu được tại di chỉ Đồng Trương, huyện Anh Sơn năm 2000. Thông qua bộ sưu tập đồ trang sức cho thấy cư dân Đông Sơn trước hết sử dụng đồ trang sức đeo vào tai, cổ, ngón tay, cổ tay, cánh tay, bắp tay, cổ chân để làm đẹp...

 

Hầu hết hiện vật đồ trang sức văn hóa Đông Sơn thu được tại các di chỉ mộ táng. Trong các di chỉ mộ táng, các nhà khảo cổ tìm được vị trí của thân thể người chết như đúng chức năng của nó, gồm vòng tay ở tay, khuyên tai ở tai, hạt chuỗi ở cổ hay cổ tay. Điều này chứng tỏ người xưa giữ nguyên đồ trang sức khi chết, sống đeo đồ trang sức gì thì chết đeo đồ trang sức đó, nguyên vị trí.

 

Bộ nhẫn đeo tay, thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1990. Ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn, nhẫn dùng để đeo vào các ngón tay, chất liệu bằng đồng, màu xanh rỉ đồng, rộng bản với đường kính dao động 1,5-1,6 cm.

 

Chuỗi hạt này thu được tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973. Trong sưu tập tại bảo tàng, có 34 hiện vật chuỗi hạt gồm các loại chất liệu như đá, thủy tinh và đất nung. Hiện vật gồm một hạt hoặc nhiều hạt kết thành chuỗi, có lỗ xuyên suốt ở giữa để xâu dây dùng đeo cổ, đeo cổ tay và có thể ở cổ chân.

 

Bộ sưu tập khuyên tai tìm thấy tại di chỉ khảo cổ học Làng Vạc (huyện Nghĩa Đàn) năm 1973 và 1981. Tại bảo tàng có 65 hiện vật khuyên tai với chất liệu đá và thủy tinh. Các hiện vật cho thấy khuyên dùng để đeo tai, hình tròn, có khe hở, một mặt phẳng, một mặt có hai khớp với các màu sắc như xanh nhạt, màu xanh đậm, màu xanh lá cây.

 

Bà Nguyễn Thị Mai, Trưởng phòng Nghiên cứu kiểm kê bảo quản Bảo tàng Nghệ An cho biết, bộ sưu tập đồ trang sức văn hóa Đông Sơn tại bảo tàng có 495 hiện vật được chia thành 4 nhóm dựa vào tiêu chí chất liệu, bằng đá, đất nung, đồng và thủy tinh.

 

Cùng với các hiện vật là đồ trang sức thuộc văn hóa Đông Sơn, Bảo tàng còn trưng bày hàng trăm hiện vật quý giá khác được tìm thấy tại Nghệ An cùng niên đại thuộc văn hóa Đông Sơn. Nổi bật là chiếc trống đồng thu được tại xã Đồng Hợp huyện Quỳ Hợp tìm thấy năm 2006. Trống có đường kính 90 cm, đang được ghi nhận là chiếc trống đồng to và giá trị nhất tại Nghệ An đến nay.

Ngày 18/5, tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định đã khai mạc Triển lãm chuyên đề: “Di sản văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Định”. Đây là hoạt động thiết thực kỷ niệm Ngày Quốc tế Bảo tàng 18/5 và Kỷ niệm 126 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2016) gắn với sự kiện 105 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911-05/6/2016).

trien-lam-vhdt

Đại biểu cắt băng khai mạc triển lãm

Bình Định là vùng đất trầm tích, có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời đang lưu giữ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị. Triển lãm lần này trưng bày hơn 180 hình ảnh, tài liệu hiện vật nổi bật những nét đặc trưng về di sản văn hóa của các dân tộc trên địa bàn tỉnh.

Nội dung triển lãm được thể hiện qua 3 phần: phần 1 giới thiệu về những nét văn hóa độc đáo, phong phú của cộng đồng các dân tộc tại Bình Định như kiến trúc, điêu khắc, làng nghề truyền thống…; phần 2 giới thiệu những loại hình nghệ thuật nổi tiếng ở Bình Định và phần 3 nói lên sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với di sản văn hóa của Bình Định.

trien-lam-vhdt-1

Ông Nguyễn Văn Ngọc-GĐ Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định phát biểu khai mạc triển lãm

Đây cũng là dịp để các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ tìm hiểu, nâng cao hiểu biết về di sản văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh, bản sắc văn hóa của từng dân tộc, tính cộng đồng, tính đa dạng và độc đáo. Đặc biệt cùng với hệ thống trưng bày trong nội thất Bảo tàng, người xem có thể tìm hiểu về truyền thống lịch sử văn hóa, đất nước con người Bình Định, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc. Đây cũng là nguồn tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu, khách tham quan trong nước và quốc tế.

trien-lam-vhdt-2

Đại biểu tham quan triển lãm

 Các sinh viên tham quan triển lãm

Triển lãm sẽ diễn ra từ ngày 18/5 đến hết ngày 05/6/2016.

Bùi Tuyết

Gặp mặt kỷ niệm ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5)

 

 

Sáng ngày 17/5, Viện Khảo cổ học tổ chức gặp mặt các nhà khoa học hiện đang công tác tại Viện nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5). Buổi gặp mặt có sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo và đông đảo các cán bộ hiện đang công tác tại Viện Khảo cổ học.

Phát biểu tại buổi gặp mặt, PGS. TS. Bùi Văn Liêm - Phó viện trưởng thay mặt lãnh đạo Viện Khảo cổ học đã nhấn mạnh ý nghĩa của ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Đây là sự kiện thể hiện sự quan tâm và coi trọng của Đảng và Nhà nước đối với khoa học công nghệ, với ý nghĩa nhằm tôn vinh các nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nói chung.

 

 Phát biểu của PGS. TS. Bùi Văn Liêm – Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học

Tại buổi gặp mặt, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm và truyền thống xây dựng và phát triển của Viện trong gần 50 năm qua, cũng như chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra những đề xuất với các đồng chí lãnh đạo Viện nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của Viện trong thời gian tới.

Phát biểu của các nhà khoa học và cán bộ Viện

Tiếp đó, PGS. TS. Nguyễn Giang Hải - Viện trưởng đã ghi nhận những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học và các cán bộ Viện. Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Viện, PGS. TS. Nguyễn Giang Hải cũng gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc đến các thế hệ cán bộ đã và đang góp sức xây dựng Viện Khảo cổ học ngày càng lớn mạnh.

Phát biểu của PGS. TS. Nguyễn Giang Hải – Viện trưởng Viện Khảo cổ học

Kết thúc buổi gặp gỡ, thay mặt lãnh đạo Viện, PGS. TS. Bùi Văn Liêm một lần nữa nhấn mạnh những đóng góp to lớn của đội ngũ các nhà khoa học của Viện trong lĩnh vực khảo cổ học, và mong muốn các nhà khoa học có nhiều sức khỏe để tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học nói chung, cũng như sự phát triển của Viện Khảo cổ học nói riêng.

Khổng Thiêm

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin cũ hơn:

Tạp chí Khảo cổ học số 1 - 2016

Thứ năm, 19 Tháng 5 2016 15:38

Tạp chí Khảo cổ học số 1 – 2016

Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm

 Trong số này gồm 10 bài viết về tổng quan Khảo cổ học ở Việt Nam

Xin giới thiệu tóm tắt sơ lược về các bài đã đăng trên tạp chí số 1 - 2016

MỤC LỤC

STT

 

Tr

1

Tư liệu mới về địa tầng và phương thức cư trú của người tiền sử ở Sủa Cán Tỷ (Hà Giang)

NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG

“Di chỉ Sủa Cán Tỷ nằm ở thôn Sủa Cán Tỷ, xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, được phát hiện vào năm 2000 và khai quật năm 2013 gồm 3 hố với diện tích 100m2. Địa tầng hố khai quật có hai lớp đất phân biệt: lớp bồi tích ở bên trên và lớp sét ở dưới. Di vật phân bố hoàn toàn trong lớp bồi tích nên khả năng chúng được trôi từ trên sườn núi xuống vào một thời điểm nào đó. Di vật thu được gần 200 chiếc, đều là đồ đá với các công cụ cuội ghè đẽo chủ yếu là chopper kiểu kỹ nghệ Sơn Vi, mảnh tước, chỉ có một số nhỏ là công cụ kiểu Hòa Bình. Đây là di tồn văn hóa của nhóm cư dân hậu kỳ Đá cũ với phương thức cư trú di động để khai thác các nguồn thức ăn”.

3

2

Di cốt người cổ hang Diêm (Thanh Hóa)

TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN

“Hang Diêm thuộc bản Sánh, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, được phát hiện năm 2012 và được đoàn khảo cổ học hợp tác Việt-Nga khai quật năm 2013 - 2014. Địa tầng hố khai quật dày 1,8m, xuất lộ tầng văn hóa gồm ba lớp, mỗi lớp có một di tích mộ táng. Hai di tích mộ táng thuộc tầng văn hóa trên và giữa thuộc về 5 cá thể, di cốt trong tình trạng bị vỡ nát, một số mảnh bị đốt cháy; chúng có thể là mộ cải táng.

 Di cốt của di tích mộ táng thuộc lớp văn hóa sớm nhất còn khá nguyên vẹn. Vị trí các bộ phận di cốt còn nguyên trong tư thế giải phẫu cho thấy người chết được chôn trong tư thế chân co gập (flexed leg). Thành phần nhân chủng của di cốt này sơ bộ được xác định có những yếu tố thuộc đại chủng Mongoloid nhưng lại có yếu tố Australoid hay Melanesian. Đây là một trong số ít di tích mộ táng thuộc dạng quý hiếm trong giai đoạn cuối hậu kỳ Pleisstocene ở Việt Nam”.

11

3

Di chỉ Huổi Han (Lai Châu) - Tư liệu và nhận thức

LÊ HẢI ĐĂNG

“Di chỉ  Huổi Han thuộc thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu được phát hiện năm 2012 và khai quật năm 2014. Địa tầng di chỉ dày trên 1m trong dó tầng văn hóa dày khoảng 55-65cm còn khá nguyên vẹn. Các di tích phát hiện được trong các hố khai quật gồm bép lửa, khu vực chế tác đá. Di vật thu được đều là đồ đá, trong đó chủ yếu là công cụ ghè đẽo, mảnh tước, chày nghiền, hòn ghè, chỉ có một rìu mài toàn thân, một phác vật vòng tay và một số bàn mài. Khung niên đại dự đoán cho di chỉ vào khoảng 4.500 - 4.000 năm BP thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới - sơ kỳ thời đaik Kim khí. Đây là di tích có đặc trưng tương đồng với hệ thống di tích phân bố trong khu vực với sự bảo lưu đậm nét truyền thống công cụ ghè đẽo trong bối cảnh hậu kỳ thời đại Đá mới trong khu vực Tây Bắc”.

22

4

Phân loại và định niên đại trống đồng tỉnh Khánh Hòa

NGUYỄN PHÚC CẦN

“Sưu tập trống đồng phát hiện được ở tỉnh Khánh Hòa gồm 5 chiếc còn khá nguyên hình dạng để có thể nghiên cứu. Dựa vào hình dáng, hoa văn trang trí, di vật chôn theo trống và cách phân loại trống đồng của những nhà nghiên cứu trước, các tác giả đã phân loại các trống ở Khánh Hòa thành các nhóm, kiểu và xác định niên đại của chúng như sau:

- Nhóm trống A1 (Heger I) là trống Đông Sơn, gồm 3 trống: trống Đại Cát I, trống Đại Cát II và trống Đại Mỹ, có niên đại từ TK VI đến TK III BC.

Nhóm trống B2 gồm 2 trống: trống Nha Trang I và trống Nha Trang II, có niên đại từ TK IV BC đến TK I AD”.

30

5

Khảo cổ học biển ở Quảng Nam và Quảng Ngãi

BÙI VĂN LIÊM, BÙI VĂN HIẾU

Tiềm năng khảo cổ học dưới nước nói riêng và khảo cổ học biển nói chung ở Quảng Nam, Quảng Ngãi là rất lớn. Hệ thống sông ngòi ở hai tỉnh này khá dày đặc, dọc bờ biển đều có những cửa, vùng biển thuận lợi cho tàu thuyền ra vào và cũng nằm trong tuyến thương mại biển của khu vực với những thương cảng nổi tiếng trong lịch sử. Ở đây, có đầy đủ những loại hình di tích chính và đối tượng nghiên cứu của khảo cổ học biển như:  Thương cảng cổ, tàu đắm, xưởng đóng tàu thuyền và các cộng đồng ngư dân biển với lịch sử phát triển hàng nghìn năm.

 Tuy nhiên, khảo cổ học biển ở đây vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của nó và đang phải đối diện với các nguy cơ bị xâm hại. Do vậy, xác định  việc nghiên cứu hệ thống những di tích khảo cổ học dưới nước, các di tích bị chìm ngập và mối liên hệ lịch sử với các di tích trên đất liền ở các khu vực này trong phạm vi không gian và thời gian rộng hơn là việc làm hết sức cần thiết để làm cơ sở cho việc đề xuất những phương án bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng”.

37

6

Khảo cứu bia miếu Đào Hoàng

(Nghè thôn Thanh Hoài, Thuận Thành, Bắc Ninh)

PHẠM LÊ HUY

“Tại Miếu Đào Hoàng (nay thuộc thôn Thanh Hoài, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có một tấm bia cổ đã được phát hiện và khảo cứu từ năm 2013. Bia Miếu Đào Hoàng được xác định có niên đại Kiến Hưng 2 (314). Đến năm Nguyên Gia thứ 27 (450), khi hậu duệ của Đào Hoàng là Đào Trân Chi cho xây dựng lại miếu theo lệnh của Giao Châu thứ sử ( Jiaozhou governor) Tiêu Cảnh Hiến, người ta đã cho khắc thêm minh văn thứ hai ở mặt sau.

 Qua khảo cứu minh văn ở mặt sau bia cũng như đối chiếu với các tư liệu lịch sử, tác giả đã hiệu đính nội dung văn bia, qua đó làm rõ một số nhân vật, địa danh và sự kiện lịch sử Việt Nam trong thế kỷ IV - V.

Các minh văn trên bia Miếu Đào Hoàng là một nguồn tư liệu lịch sử vô cùng quan trọng. Theo đó, gợi ý khả năng di tích thành cổ Lũng Khê chính là thành Long Biên do Thứ sử (governor) Đào Hoàng cho xây dựng vào cuối thế kỷ III”.

48

7

Về một số hệ thống dẫn/thoát nước ở 18 Hoàng Diệu, thuộc khu Trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long

NGUYỄN HỒNG KIÊN, NGUYỄN VĂN MẠNH

“Bài báo đề cập đến hệ thống dẫn/thoát nước thời Tiền Thăng Long và thời Lý đã được phát hiện tại khu vực 18 Hoàng Diệu thuộc khu trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long.

Qua đó, các tác giả cho rằng các dấu tích của hệ thống rãnh dẫn/thoát nước xung quanh một công trình giúp chúng ta có thể nhận diện được quy mô mặt bằng của các di tích. Các hệ thống cống, "đường nước" đều có công năng chính là dẫn/thoát nước, còn công năng phòng thủ quân sự nếu có chỉ là công năng phụ vì hệ thống cống này đều được phát hiện trong Cấm thành, việc phòng thủ quân sự không có nhiều ý nghĩa.

Trên thực tế, chúng ta có thể thấy khu vực Hoàng thành Thăng Long là một vùng trũng thấp, đang bồi lấp dở dang. Bởi vậy, nếu không có các hệ thống dẫn/thoát nước thật tốt, con người sẽ không thể sinh sống tại đây. Các nhà kiến trúc/xây dựng xưa đã có tư duy "thích ứng tự nhiên" khi dựa vào hệ thống sông/hồ, để xây dựng các hệ thống cống và rãnh dẫn/thoát nước”.

60

8

Móng cột thời Trần qua tài liệu khảo cổ học

BÙI VĂN HIẾU

Dưới góc độ kỹ thuật học, kiến trúc cổ truyền Việt là các công trình có hệ chịu lực bằng khung kết cấu gỗ, với cấu kiện cơ bản là hệ thống cột.

Trên cơ sở nghiên cứu những dấu vết móng cột thời Trần chúng ta có thể thấy mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật là kiểu mặt bằng phổ biến nhất của các công trình kiến trúc thời kỳ này.

Tương tự như móng cột thời Lý, trong thành phần vật liệu cấu tạo của móng cột thời Trần cũng thấy sự có mặt của các loại vật liệu như đất sét, gạch, ngói, sỏi, sành, gốm, bao nung. Ngoài ra, người thời Trần cũng đã sử dụng phổ biến hơn đá cuội và bắt đầu đưa đá khối vào móng cột.

Thời Trần cũng tồn tại các kỹ thuật cơ bản tạo móng kiến trúc đó là đổ-đầm, xếp móng. Đối với loại hình móng cột, các lớp vật liệu về cơ bản vẫn được đầm thành lớp nhưng không được đầm chặt, quy chỉnh như móng cột thời Lý

 

71

9

Giá trị văn hóa khảo cổ học Tây Yên Tử và một vài định hướng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị

NGUYỄN VĂN ĐÁP

Hệ thống di tích chùa thời Lý - Trần khu vực Tây Yên Tử thuộc địa bàn các huyên Lục Nam và Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang bao gồm: chùa chùa Hồ Bấc, chùa Cao và chùa Đám Trì chùa Am Vãi, chùa Hòn Tháp, chùa Bình Long, chùa Khám Lạng, chùa Đồng Vành...

Các cuộc khảo sát khai quật khảo cổ học gần đây tại các di tích chùa này đã cung cấp thêm nhiều thông tin cho việc nghiên cứu, phục dựng các giá trị lịch sử, văn hóa liên quan đến Phật giáo và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.

Dựa trên thực trạng các di tích, tác giả đề xuất các phương án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị cho các di tích này”.

82

10

Sự chuyển biến của tháp mộ thời Lê Trung hưng sang thời Nguyễn

MAI THÙY LINH

Tháp là một loại hình kiến trúc đặc biệt phản ánh phong tục chôn cất và là nơi tiến hành các nghi thức tế lễ, thờ cúng các bậc cao tăng trụ trì trong các chùa. Việc nghiên cứu loại hình di tích này không chỉ đóng góp vào việc tìm hiểu về kiến trúc mà còn cung cấp những thông tin quan trọng về lịch sử, văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng.

Bài viết tiến hành nghiên cứu so sánh tháp mộ thời Lê Trung hưng với tháp mộ thời Lý - Trần trước đó và tháp mộ thời Nguyễn sau này. Từ đó tìm hiểu sự chuyển biến trên các khía cạnh về vật liệu xây dựng, cấu trúc, nghệ thuật trang trí tháp mộ cũng như các bối cảnh xã hội và tôn giáo của các thời kỳ lịch sử trên.

93

CONTENTS

No

 

Page

1

New data of stratigraphy and settlement patterns at Sủa Cán Tỷ prehistoric site (Hà Giang province)

NGUYỄN TRƯỜNG ĐÔNG

“The Sủa Cán Tỷ site, located at Cán Tỷ hamlet, Cán Tỷ commune, Quản Bạ district, Hà Giang province, was found in 2000 and excavated in 2013. It included 3 excavated trenches in 100m2 area. Its stratum consists of two separated layers: the upper deposited layer and the power clay layer. The artifacts lied completely in the deposited layer, which probably mean they had fallen down from the mountain cliff some time. The found artifacts include nearly 200 items, all of which are chopped pebbles mainly of Sơn Vi style, flakes, and a small number of Hòa Bình-styled tools.
This is a cultural remain of the late Neolithic inhabitants with the mobile living model to exploit food source
”.

3

2

Ancient human bones at Diêm cave (Thanh Hóa province)

TRƯƠNG HỮU NGHĨA, NGUYỄN ANH TUẤN

“Diêm Cave, located at Sánh village, Thành Yên commune, Thạch Thành district, Thanh Hóa province was found in 2012 and excavated in the group of Vietnamese – Russian cooperation. The stratum of the excavated trench was 1.8m thick, including three cultural layers, which of which consisted of a burial. The two burials from the upper and the middle cultural layers belonged to 5 individuals whose remained bones were badly broken; some were burnt, they might have been secondary burials.

 The human bones from the earliest cultural layer remain fairly intact. The positions of the skeletons remain in the surgical postures, which demonstrate that the deceased had been buried in the posture of the flexed leg. The anthropological components have been preliminarily identified with Mongoloid factors but containing Australoid or Melanesian factors. This is one of a few burial sites of rare style from the ending stage of the late Pleistocene in Việt Nam”.

11

3

Huổi Han site (Lai Châu province) – Data and perception

LÊ HẢI ĐĂNG

“The Huổi Han site (Mường Tè town, Mường Tè district, Lai Châu province) was found in 2012 and excavated in 2014. The site stratum was over 1m thick, in which the cultural layer was fairly intact, about 55cm - 65cm thick. The relics found in the excavated trenches include fireplaces and places for stone making. The found artifacts consist of stone tools, mainly including chopped tools, flakes, pestles, choppers, a wholly-polished axe, a pre-formed bracelet and some grinding stones. The estimated date of the site is c. 4,500 BP – 4,000 BP, belonging to the Neolithic – early Metal Age. This site’s characteristics are similar to those of the system of site distribution in the area with the reservation of chopping tradition in the late Neolithic context in the northwestern part of Northern   Viet Nam”.

22

4

Classification and dating of bronze drums from Khánh Hòa province

NGUYỄN PHÚC CẦN

               “The collection of bronze drums found from Khánh Hòa province consists of 5 fairly intact drums that are possible to be studied. From the forms, decorative designs, accompanied objects and the classification of the bronze drums by the previous researchers, the authors have classified the drums from Khánh Hòa into some following groups, types and dates:

              - The group A1 (Heger I) includes Đông Sơn-culture drums, with 3 items: Đại Cát I, Đại Cát II and Đại Mỹ drums, dated from the sixth century to the third century BC.

              -  The group B2 includes 2 drums: Nha Trang I and Nha Trang II drums, dated from the fourth century BC to the first century AD”.

30

5

Maritime archaeology in Quảng Nam and Quảng Ngãi

BÙI VĂN LIÊM, BÙI VĂN HIẾU

“Potentiality of underwater archaeology in particular and maritime archaeology in Quảng Nam and Quảng Ngãi is extremely great. The system of rivers, canals and arroyos in these two provinces is fairly dense; along the sea coast, there are many seaports and bays, which are favorable for ships and boats to travel and they also lie in the trade route on sea in the regions with famous seaports in the history. They include enough main types of relics and research objects for maritime archaeology such as ancient trade ports, sunken ships, and workshops for making ships and boats and the communities of fishers with their development history through thousands of years. 

However, the maritime archaeology in this area has not developed as well as its potentiality and it is even facing the dangers of vandalism. Therefore, the systematic research into underwater or flooded sites and the relationships between them and the inland sites in these areas in the larger space and time is a vital task to set up a base for possible plans of protection, conservation and valorization of their values”.

 

37

6

Research on the stele of Đào Hoàng shrine (Thanh Hoài commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province)

PHẠM LÊ HUY

“At the Đào Hoàng shrine (Thanh Hoài commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province today), there is an ancient stele that has been found and studied since 2013. It has been dated to Kiến Hưng 2 preriod (314). In Nguyên Gia the twenty-seventh  (450), when  Đào Trân Chi, the descendent of Đào Hoàng, had the shrine built, following the order of the Giao Châu Jiaozhou governor Tiêu Cảnh Hiến, who had inscribed the second epigraphical characters at its back.

From the study on these second epigraphical characters and the comparison with the historical data, the author has edited the stele content, from which he has clarified some human characters, locations and historical events in Việt Nam during the fourth century to the fifth century.

The epigraphical characters on the Đào Hoàng shrine are invaluable historical source. This source suggests a possibility that the ancient Lũng Khê citadel was itself the Long Biên citadel built by the governor Đào Hoàng at the end of the third century”.

48

7

About some systems of water drainage at 18 Hoàng Diệu, the centre of Thăng Long Imperial Citadel

NGUYỄN HỒNG KIÊN, NGUYỄN VĂN MẠNH

“The paper refers to the system of water drainage from pre-Thăng Long and the Lý periods found at 18 Hoàng Diệu Street, the centre of the Thăng Long Imperial citadel.

Therefrom, the authors suppose that the traces of the drainage system around the construction enable us to identify the plan scales of its sites. The systems, "water flows" all mainly served as water drainage, whereas the defensive function, if there was, was just militarily secondary as these systems were all found in the forbidden Citadel, the military defense was not much significant.

In fact, we can see that the area of the Thăng Long Imperial citadel is low, not completely deposited. Therefore, without a good drainage system, people could not live there. The ancient architects/builders were "adaptable to the nature" in their thinking when they were based on the systems of rivers/ponds to build their systems of sewers and water drainage”.

 

60

8

Pillar bases of Trần period on the basis of archaeological data

BÙI VĂN HIẾU

“Under the technical angle, the traditional Vietnamese architecture includes constructions with wooden supporting frames that were mainly supporting pillars.

From the research on the traces of pillar bases from the Trần period, we can see that the rectangular architectural plans are most popular for the architectural constructions in the Trần period.

Similar to the Lý-period pillar bases, in the materials of the Trần’s ones, there are clay, bricks, tiles, gravels, stoneware and sagas. In addition, gravels were more popularly used and blocks of rocks were started to be used for building pillar bases.

Some basic techniques for building architectural bases also existed in the Trần period such as loading-ramming and arranging techniques. In terms of pillar-base type, the material layers were basically rammed to form but not as tightly and standardized as those of the Lý period”. 

 

71

9

Archaeological values of western Yên Tử sites and some orientations of preservation, endorsement, and valorization

NGUYỄN VĂN ĐÁP

“The system of the pagoda sites from the Lý - Trần period in the western Yên Tử area in the locations of the Lục Nam and Lục Ngạn districts, Bắc Giang province includes: the Hồ Bấc, Cao,  Đám Trì, Am Vãi, Hòn Tháp, Bình Long, Khám Lạng, Đồng Vành pagodas, etc.

The resent archaeological investigations and excavations at these pagodas provide more information for the research and restoration of the historical and cultural values related to Buddhism and the Trần-period Zen school of Trúc Lâm Yên Tử.

Based on the current statuses of these sites, the author proposes plans for preservation, endorsement and valorization of these sites”.

82

10

Changes of burial stupas from Lê Trung hưng period to Nguyễn period

MAI THÙY LINH

“Stupas are special architecture reflecting burial customs and serve as places for running sacrifices and worship by the eminent monks managing the pagodas. The research into these sites not only contributes to further understanding of their architecture but also provides important historical, cultural, religious and superstitious information.

The paper refers to the comparative research into the burial stupas of the Lê Trung Hưng period and those from the Lý - Trần period before it and the Nguyễn period after it. Therefrom, the author studies the changes in building materials, structure, decorative art on burial stupas as well as the social and religious backgrounds of the historical periods”.

93

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

61- Phan chu trinh - Hà Nội

Tel: 04. 9330732, Fax: 04. 9331607

Email: 

Viện trưởng Viện Khảo cổ học gửi thư chúc mừng tới cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam18/5

 

 

THƯ CHÚC MNG

 

            Kính gửi: Cán bộ công chức, viên chức và người lao động Viện Khảo cổ học

 

            Nhân dịp ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5, tôi xin được gửi lời tri ân đến tất cả cán bộ công chức, viên chức và người lao động Viện Khảo cổ học, những người hiện đang làm việc và đã nghỉ hưu, các cộng tác viên trong nước và nước ngoài, các tổ chức và cá nhân đã có những hành động thiết thực, cụ thể trong những năm qua đối với sự phát triển của Viện Khảo cổ học.

          Những thành tựu mà Viện Khảo cổ học có được ngày hôm nay đều in dấu ấn của các thế hệ những người làm công tác khảo cổ học, các nhà nghiên cứu, các chuyên viên, quay phim viên, họa sĩ, biên tập viên, thư viện viên,..đó là thành quả, là niềm tự hào chung của tất cả chúng ta.

          Thay mặt Lãnh đạo Viện Khảo cổ học, xin kính chúc toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động các thế hệ của Viện sức khỏe, hạnh phúc, may mắn và thành công trong mọi công việc của mình.


                                                                                               Viện trưởng Viện Khảo cổ học

                                                                                                      Nguyễn Giang Hải

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện bộ xương có thể làm sáng tỏ bí mật Cánh đồng Chum

 

 

Trong nhiều thập kỷ, các nhà sử học và khảo cổ cố gắng tìm ra bí mật ẩn sau di chỉ, nơi hàng nghìn chum đá nằm rải rác dọc cao nguyên Xieng Khouang của Lào, theo International Business Times. Các nhà khoa học tiến gần đến mục tiêu lý giải sự tồn tại của Cánh đồng Chum, một trong những địa điểm khảo cổ bí ẩn nhất ở châu Á khi phát hiện nơi mai táng cổ đại trong khu vực.

 Cánh đồng Chum ở Xieng Khouang, Lào.
Cánh đồng Chum ở Xieng Khouang, Lào. (Ảnh: ANU).

Phát hiện mới nhất của nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Quốc gia Australia (ANU) nằm trong dự án khai quật toàn diện đầu tiên tại khu vực từ thập niên 1930. Nhóm nghiên cứu đứng đầu là tiến sĩ Dougald O`Reilley, tìm thấy nhiều bộ xương 2.500 năm tuổi ở một trong 90 vị trí tạo nên Cánh đồng Chum. Nhóm của O`Reilley hy vọng phát hiện sẽ giúp làm sáng tỏ mục đích ra đời của những chiếc chum.

Vào những năm 1930, nhà khảo cổ học người Pháp Madeleine Colani, người đầu tiên phát hiện Cánh đồng Chum, cho rằng di chỉ thời đồ sắt này gắn liền với tập tục mai táng của người tiền sử. Những chum đá với số lượng từ 1 đến 400 ở mỗi vị trí và chiều cao 1 - 3 mét, nhằm lưu giữ hài cốt hỏa táng. Phát hiện mới củng cố giả thuyết của Colani và các nhà khảo cổ hy vọng nó có thể mở rộng hiểu biết của họ về tập tục chôn cất cổ đại tại khu vực.

Nhóm của O`Reilley nhận thấy ba kiểu mai táng khác nhau trong quá trình khai quật. "Có những hồ chất đầy xương người với một phiến đá vôi lớn đặt bên trên. Ở kiểu khác, bộ xương được đặt trong vại gốm. Công tác khai quật cũng hé lộ lần đầu tiên về kiểu chôn cất cơ bản ở một vị trí, trong đó có một người chết nằm trong ngôi mộ", O`Reilley nói.

Bằng chứng đầu tiên về cách chôn cất cơ bản ở Cánh đồng Chum.
Bằng chứng đầu tiên về cách chôn cất cơ bản ở Cánh đồng Chum. (Ảnh: ANU).

"Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của phát hiện mới. Đây sẽ là khởi đầu cho kỷ nguyên mới, làm sáng tỏ bí mật Cánh đồng Chum", Lia Genovese, nhà nghiên cứu về Cánh đồng Chum, nhận định.

"Những bộ xương tìm thấy trong cuộc khai quật chứng thực chức năng nghĩa địa của cánh đồng, nhưng chức năng của các chum đá vẫn còn là điều bí ẩn. Chum nặng nhất tạc từ đá sa thạch liền khối nặng khoảng 32 tấn theo ước tính của nhà địa chất học người Anh Jeremy Baldock", Genovese, giảng viên di sản văn hóa Đông Nam Á, cho biết.

Một giả thuyết do O`Reilly đưa ra là những chiếc chum đá thực chất dùng cho quá trình phân hủy. Vị giáo sư cho rằng sau khi kết thúc quá trình, bộ xương được chôn cất gần đó.

"Phân tích trong phòng thí nghiệm, bao gồm xác định niên đại bằng đồng vị carbon, sẽ mở rộng đáng kể hiểu biết của chúng ta về khu vực này, về cộng đồng cổ đại và phong tục của họ, trong đó có tập tục chôn cất. Tôi tin chắc kết quả phát hiện sẽ cũng cố vị trí của Cánh đồng Chum trong khảo cổ học Đông Nam Á", Genovese chia sẻ.

Theo VnExpress

 
 

Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung

Cuốn sách Đi tìm dấu tích  Cung điện Đan Dương – sơn lăng  của Hoàng đế Quang Trung  của tác giả Nguyễn Đắc Xuân - Hội viên hội nhà văn Việt Nam, Hội khoa học lịch sử, Nhà nghiên cứu văn hoá Huế, ông đã xuất bản hơn 50 tựu sách về nghiên cứu lịch sử, văn hoá triều Nguyễn và Huế xưa xuất bản năm 2007 và lần này được tái bản lại năm 2015.

Trong lần tái bản này, tác giả đều dựa chủ yếu vào cuốn sách đã xuất bản nên không có gì mới. Do đó tác giả không đưa thêm những bài ấy vào cuốn sách tái bản lần này, tác giả giữ nguyên bản in lần trước, chỉ rút bớt những bài nghiên cứu về Nguyễn Huệ - Quang Trung không liên quan trực tiếp đến việc đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương đã đăng, cụ thể là các bài:

- Chiến dịch giải phóng Thuận Hoá – Phú Xuân diễn ra đúng vào ngày tháng nào trong năm 1786.

- Sự đóng góp của nhân dân Thuận Hoá – Phú Xuân cho phong trào Tây Sơn.

- Chân dung Nguyễn Huệ - Quang Trung qua một số thư tịch cổ.

Cuốn sách được xem như một đóng góp, một giải pháp mới cho một vấn đề lịch sử, không những là sự thao thức của giới nghiên cứu mà còn của dân tộc Việt trong và ngoài nước hơn nửa thế kỷ qua.

-Nxb: Thế Giới

-Số trang: 219 trang

-Khổ: 14,5x20,5 cm

Xin trân trọng giới thiệu !

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Hoa văn gốm văn hoá Đồng Đậu

 

 

Văn hoá Đồng Đậu có niên đại từ 3.500 đến 3000 năm cách nay, thuộc trung kỳ thời đại đồng thau, là một mắt xích không thể thiếu trong phổ hệ văn hoá Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng.

Cuốn sách Hoa văn gốm văn hoá Đồng Đậu của Bùi Hữu Tiến. Tác giả đã tập trung khảo cứu chuyên sâu về hoa văn trên đồ gốm văn hoá Đồng Đậu. Để xuất bản được cuốn sách này tác giả đã mất nhiều năm tâm huyết, say mê, làm việc nghiêm túc với tư liệu không chỉ di tích Đồng Đậu mà còn cả văn hoá Đồng Đậu. Về mặt không gian thì mở rộng ra toàn bộ văn hoá Đồng Đậu, nhưng đối tượng nghiên cứu chỉ hạn chế trong hoa văn trang trí trên đồ gốm.

Trong công trình này tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề về hoa văn trang trí trên gốm văn hoá Đồng Đậu, từ kỹ thuật sáng tạo đến phân loại các đồ án hoa văn cùng ý nghĩa của chúng, từ giá trị kinh tế đến ý thức tôn giáo được phản ánh qua các loại hoa văn. Tác giả còn so sánh hoa văn gốm văn hoá Đồng Đậu với hoa văn gốm loại hình Thạch Lạc, loại hình Gò Mả Đống – Gò Con Lợn, văn hoá Hoa Lộc, văn hoá Hạ Long, văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá Gò Mun, nêu lên những cái giống và khác nhau giữa hoa văn các loại gốm đó cùng mối quan hệ giữa chúng.

Nội dung cuốn sách gồm 3 phần:

Phần 1: Nhìn lại hành trình 50 năm nghiên cứu hoa văn gốm văn hoá Đồng Đậu

Phần 2: Nghiên cứu hoa văn gốm văn hoá Đồng Đậu tiếp cận từ khía cạnh loại hình và kỹ thuật trang trí

Phần 3: Khám phá những giá trị bí ẩn của hoa văn gốm văn hoá Đồng Đậu

Đây là một công trình rất bổ ích và lý thú cho những ai muốn tìm hiểu lịch sử thời dựng nước đầu tiên của dân tộc: thời Văn Lang của các vua Hùng và Âu Lạc của An Dương Vương.

-Tác giả: Bùi Hữu Tiến

- nxb: Thế giới

- Số trang: 221 trang

- Khổ: 15 x 20,5 cm.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Đồ đồng Thời Nguyễn

Thứ tư, 30 Tháng 3 2016 14:08

 Trong những di sản thuộc thời Nguyễn (1802-1945) còn lưu lại, sản phẩm bằng đồng là loại hiện vật phong phú, đa dạng với nhiều kiểu loại và nhiều cách chế tác độc đáo. Sản phẩm chất liệu đồng thời Nguyễn được các cơ quan chuyên môn thuộc triều đình hoặc các cơ sở đúc đồng sản xuất ra theo lệnh vua, phục vụ nhu cầu của vua, hoàng gia, hoàng tộc và triều đình, còn nhân dân và quan lại từ cấp cao đến cấp thấp cũng tự chế tác đồ đồng từ các lò địa phương để sử dụng trong sinh hoạt hoặc trong thờ tự. Như vậy, đã tồn tại hai dòng đồ đồng dưới thời Nguyễn: dòng thuộc nhà nước và dòng trong dân gian.

 

Dòng đồ đồng thuộc nhà nước có nhiều loại hình với đặc điểm khác nhau, từ loại có ý nghĩa đặc biệt đến những vật dùng trong trang trí kinh thành, cung điện, những vật dụng trong tế tự, các loại vũ khí .v.v… đồ đồng dòng này còn lại ngày nay chủ yếu tập trung ở Huế: một số trong Bảo tàng cung đình Huế, trong các lăng tẩm vua Nguyễn.

Đồ đồng trong dân gian thời Nguyễn cũng rất phong phú, đó là những loại dùng trong tôn giáo, trong sinh hoạt hay mục đích mỹ thuật.

Nội dung cuốn sách gồm 2 phần lớn là: dòng đồ đồng thuộc nhà nước và dòng đồ đồng trong dân gian.

Đồ đồng Thời Nguyễn được hình thành trên cơ sở luận án Phó Tiến sĩ “Cửu Đỉnh và cổ khí đúc thời Minh Mạng (1820-1840)” của tác giả. Có thể  xem là công trình bước đầu hệ thống đồ đồng thời Nguyễn và là tài liệu học tập, tham khảo cho sinh viên Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – ĐHQG TP Hồ Chí Minh.

- Tác giả: Đặng Văn Thắng - Phạm Hữu Công

- Nxb: Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh

- Số trang: 564 trang.

- Khổ sách: 14,5x 20,5cm

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Mối quan hệ Văn hóa Đông Sơn với các nền văn hóa thời đại Kim Khí ở Nam Trung Quốc

 

 

- Tác giả: PGS. TS. Trình Năng Chung (Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)

-Nxb: Khoa học xã hội

- Năm xuất bản: 2015

- Số trang: 363 trang

- Khổ sách: 16x 24cm

Văn hóa Đông Sơn đã trải qua 90 năm được phát hiện và nghiên cứu, việc nghiên cứu về Văn hóa Đông Sơn đã đạt được những thành tựu to lớn. Các nhà khảo cổ học Việt nam đã giải quyết nhiều vấn đề nhưng có những vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ hoặc chưa được giải quyết một cách toàn diện và sâu sắc. Đó là vấn đề mối quan hệ giữa Văn hóa Đông Sơn với các văn hóa Kim Khí cùng thời ở miền Nam Trung Quốc.

Quyển sách chuyên khảo Mối quan hệ Văn hóa Đông Sơn với các nền văn hóa thời đại Kim Khí ở Nam Trung Quốc của PGS. TS. Trình Năng Chung là một công trình rất công phu, đã cập nhật và hệ thống hóa các tư liệu mới nhất các kết quả nghiên cứu về Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh tác giả đã chọn trình bày một số địa điểm tiêu biểu, hội đủ các tài liệu địa tầng, với những bộ sưu tập đặc trưng, tiêu biểu được xác định niên đại chuẩn xác như địa điểm Thạch Trại Sơn, Lý Gia Sơn, Ngân Sơn Lĩnh, Phổ Đà Tây Lâm .v.v… làm những trường hợp nghiên cứu điển hình từ đó khái quát nên những đặc trưng văn hóa của từng khu vực Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Quý Châu và nhiều vùng khác ở Nam Trung Quốc.

Quyển sách là tổng kết các công trình nghiên cứu nhiều năm của tác giả về đề tài này (gồm 46 công trình đã được công bố). Tác giả đã nhiều lần đến các tỉnh miền Nam Trung Quốc, trực tiếp nghiên cứu các di tích, di vật. Ở trong nước, tác giả đã tiến hành nhiều cuộc điền dã trong nhiều năm ở nhiều vùng, đã phát hiện nhiều di tích, di vật ở thời đại Kim Khí.

Nội dung cuốn sách gồm 6 chương:

Chương 1: Tổng quan về văn hóa Đông Sơn

Chương 2: Mối quan hệ giữa văn hóa Đông Sơn với văn hóa thời đại Kim Khí ở Vân Nam.

Chương 3: Mối quan hệ giữa văn hóa Đông Sơn với văn hóa thời đại Kim Khí ở Quảng Tây.

Chương 4: Mối quan hệ giữa văn hóa Đông Sơn với văn hóa thời đại Kim Khí ở Quảng Đông.

Chương 5: Mối quan hệ giữa văn hóa Đông Sơn với văn hóa Khả Lạc ở Quý Châu

Chương 6: Vị trí của văn hóa Đông Sơn trong văn hóa tiền - sơ sử khu vực

Đây là một công trình có giá trị của tác giả, xin trân trọng giới thiệu đến độc giả, những ai đang quan tâm đến vấn đề mối quan hệ văn hóa tiền - sơ sử Việt Nam với các văn hóa cùng thời ở khu vực Nam Trung Quốc.

 Xin trân trọng giới thệu!

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9026611
Số người đang online: 12