Đoàn khai quật gồm cán bộ của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng Đắk Lắk vừa báo cáo kết quả sơ bộ cuộc khai quật di chỉ khảo cổ học Thác Hai (thôn 6, xã Ia Jlơi, huyện Ea Súp, Đắk Lắk). Theo đó, đây là một di chỉ khảo cổ học mới, ẩn chứa nhiều tư liệu, sẽ góp phần làm sáng tỏ lịch sử vùng đất Tây Nguyên thời Tiền - Sơ sử, rất cần được nghiên cứu, thu thập tư liệu và bảo tồn.
Xử lý di tích xuất lộ trong hố khai quật
Đây là một di chỉ xưởng kết hợp cư trú và mộ táng. Trong đó, tính chất xưởng của di chỉ nổi lên một cách rõ rệt thông qua bộ sưu tập hàng nghìn tiêu bản mũi khoan và phác vật mũi khoan. Ngoài là công xưởng chế tác mũi khoan, cư dân cổ Thác Hai còn chế tác cả các công cụ đá như rìu, bôn… Những mảnh gốm xuất hiện rải rác cùng những tàn tích than tro, mộ táng có chôn theo đồ tùy táng... cho thấy cư dân cổ ở Thác Hai ngoài chế tác công cụ cũng đồng thời cư trú và mai táng tại đây, chưa phân tách khu vực cư trú, sản xuất với khu vực mai táng.
Trên cơ sở một số loại hình đồ gốm, đồ án hoa văn trang trí cũng như trình độ tinh xảo của những thợ thủ công chế tác mũi khoan tại đây, các nhà khoa học bước đầu nhận định niên đại của di chỉ Thác Hai khoảng trên dưới 3000 năm cách ngày nay, thuộc trung kỳ thời đại kim khí. Tầng văn hóa dày (2m) cho thấy, giai đoạn cư trú khá dài nhưng tính chất di chỉ khá ổn định. Về chủ nhân ngôi mộ, cư dân cổ ở Thác Hai là những người thợ thủ công có trình độ cao, với các sản phẩm rất tinh xảo. Cụ thể, qua nghiên cứu cấu trúc mộ M1, các nhà khoa học cho rằng, chủ nhân ngôi mộ này có liên quan tới công xưởng chế tác này, có thể là một trong những người thợ trực tiếp chế tác công cụ (rìu, bôn, mũi khoan...) phát hiện trong hố khai quật, thể hiện qua việc tìm thấy những đồ tùy táng, ngoài đồ gốm còn có những công cụ bằng đá. Có thể, ngoài các ngôi mộ đã xuất lộ trong hố đào, trong phạm vi di chỉ còn nhiều ngôi mộ khác có liên quan trực tiếp tới công xưởng chế tác này.
Báo cáo sơ bộ khẳng định, những kết quả nghiên cứu và khai quật tại di chỉ khảo cổ học Thác Hai là một trong những phát hiện mới và rất quan trọng của khảo cổ học Việt Nam. Có thể nói đây là lần đầu tiên ở Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đã phát hiện được một công xưởng chế tác mũi khoan với quy mô lớn, chuyên môn hóa cao, trình độ kỹ thuật tinh xảo. “Ở Việt Nam, loại di chỉ công xưởng chế tác mũi khoan không nhiều, chỉ mới xác định được ở các di chỉ như Bãi Tự (Bắc Ninh), Tràng Kênh (Hải Phòng), Đầu Rằm, Ba Vũng (Quảng Ninh). Song những mũi khoan ở các di chỉ này chỉ được ghè, tu chỉnh, mài thô..., hiện vật tương đối to và thô, chủ yếu dùng để sử dụng trong kỹ thuật khoan tách lõi, còn mũi khoan Thác Hai có rất nhiều hiện vật được mài trau chuốt, đánh bóng toàn thân đạt đến mức độ hoàn mỹ, được sử dụng trong kỹ thuật khoan xuyên tâm để chế tạo đồ trang sức...”, báo cáo sơ bộ cho biết.
Một số loại hình đồ gốm mới cũng lần đầu tiên được tìm thấy ở Đắk Lắk trong di chỉ Thác Hai. Nhiều cụm gốm có khả năng phục dựng rất cao, được đưa về còn khá nguyên vẹn. Sau khi được xử lý, phục dựng lại, đồ gốm Thác Hai cùng với các loại hình hiện vật khác trở thành những tiêu bản hiện vật quý hiếm, độc đáo... bổ sung cho hệ thống trưng bày ở Bảo tàng Đắk Lắk và Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Là một địa điểm khảo cổ học mới phát hiện với nhiều thông tin nghiên cứu quan trọng, nhiều hiện vật tinh xảo, nhiều đồ gốm còn khá nguyên vẹn có thể phục dựng để trưng bày, tuy nhiên, cũng theo các nhà khoa học, di chỉ này nằm sát bờ sông đang đổi dòng, từng ngày, từng giờ đang bị dòng nước xoáy vào địa tầng gây sạt lở nghiêm trọng. Do vậy, các chuyên gia kiến nghị rất cần có những biện pháp bảo vệ di chỉ trước sự tàn phá của thiên nhiên.
THANH MỘC, ảnh: BTLSQG CUNG CẤP
Ngày 11-5, Bảo tàng Đắk Lắk cho biết các nhà khoa học đã khai quật phát hiện một di chỉ khảo cổ lớn, có niên đại hơn 3.000 năm tại xã Ia J’lơi, là công xưởng chế tạo công cụ mũi khoan lớn nhất của người Việt cổ từ trước tới nay.
Đây là phát hiện mới và rất quan trọng của Khảo cổ học Việt Nam.
Đợt khai quật lần này là sự kết hợp giữa Bảo tàng Lịch sử quốc gia và Bảo tàng Đắk Lắk, kéo dài từ ngày 28-3 đến 29-4 tại di chỉ khảo cổ học Thác Hai (xã Ia J’lơi, Ea Súp).
Từ kết quả ban đầu, các nhà khoa học nhận định đây là một di chỉ xưởng kết hợp cư trú và mộ táng với hàng nghìn tiêu bản mũi khoan và phác vật mũi khoan, các công cụ rìu, bôn.
Niên đại của di chỉ Thác Hai khoảng 3.000 năm. Ngoài ra, tầng văn hóa dày (2m) cho thấy giai đoạn cư trú khá dài, tính chất di chỉ khá ổn định.
Ngoài ra, từ những hiện vật thu thập được, các nhà khoa học cũng cho rằng cư dân cổ ở Thác Hai là những người thợ thủ công có trình độ cao, với các sản phẩm rất tinh xảo.
Cụ thể, qua nghiên cứu cấu trúc một ngôi mộ, các nhà khoa học đưa ra nhận định đây là người thợ trực tiếp chế tác công cụ như rìu, bôn, mũi khoan.
Trong ngôi mộ còn tìm thấy những đồ tùy táng như bình gốm, chày đập, hòn ghè, rìu tứ giác và mũi khoan được xếp gọn gàng dưới đáy mộ. Ngoài các ngôi mộ đã xuất lộ trong hố đào, trong phạm vi di chỉ còn nhiều ngôi mộ khác có liên quan trực tiếp tới công xưởng chế tác này...
Cũng theo các nhà khoa học, đây là lần đầu tiên một công xưởng chế tác mũi khoan với quy mô lớn, chuyên môn hóa cao, trình độ kỹ thuật tinh xảo được phát hiện tại VN nói riêng và Đông Nam Á nói chung.
Các nhà khoa học hai bảo tàng cho biết sẽ hoàn thiện hồ sơ khoa học, bảo quản hiện vật, bảo tồn di chỉ...
Ở Việt Nam, loại di chỉ công xưởng chế tác mũi khoan không nhiều, chỉ mới xác định được ở các di chỉ như Bãi Tự (Bắc Ninh), Tràng Kênh (Hải Phòng), Đầu Rằm, Ba Vũng (Quảng Ninh).
Tuy nhiên, những mũi khoan ở các di chỉ này chỉ được ghè, tu chỉnh, mài thô..., hiện vật tương đối to và thô, chủ yếu dùng để sử dụng trong kỹ thuật khoan tách lõi.
Trong khi đó, mũi khoan Thác Hai rất nhiều hiện vật được mài trau chuốt, đánh bóng toàn thân đạt đến mức độ hoàn mỹ, được sử dụng trong kỹ thuật khoan xuyên tâm để chế tạo đồ trang sức (hạt chuỗi...).
Bảo Trâm (Bảo tàng Đắk Lắk)
Nhà xuất bản: Hà Nội - 2019
Tổng số trang: 1099tr
Kích thước: 16 x 24cm
Ở giai đoạn 1 của Dự án Tử sách Thăng Long ngàn năm văn hiến, nhóm nghiên cứu do PGS.TS Phạm Xuân Hằng và PGS.TS. Phan Phương Thảo chủ trì đã tổ chức biên soạn cuốn sách “Biên niên lịch sử Thăng Long - Hà Nội”. Bộ Biên niên lịch sử Thăng Long - Hà Nội (Phần bổ sung) lần này là sự tiếp nối của phần trên.
Nội dung cuốn sách gồm 2 phần lớn:
Phần 1: Các sự kiện lịch sử của vùng đất mới sát nhập vào Hà Nội (tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã của huyện Lương Sơn (Hòa Bình) từ khởi nguồn đến tháng 8-2008.
Phần 2: Các sự kiện lịch sử của Hà Nội theo địa giới mới từ tháng 8-2008 đến hết năm 20144.
Cuốn sách được biên soạn rất công phu, các sự kiện được lựa chọn đảm bảo tuân thủ những tiêu chí hết sức chặt chẽ, phải là những sự kiện tiêu biểu, nổi bật mang tính chất sự kiện mốc trong giai đoạn của Hà Nội mở rộng, được sưu tầm dựa trên các nguồn tài liệu hết sức phong phú đáng tin cậy, có đối chiếu so sánh giữa các nguồn tài liệu có xuất xứ cụ thể.
Xin trân trọng giới thiệu!
Nhà xuất bản: Hà Nội - 2019
Tổng số trang: 843tr
Kích thước: 16 x 24cm
Đây là một Tuyển tập các công trình dịch thuật, có sự chọn lọc kỹ lưỡng, chú ý đến những tiêu chí tiêu biểu và tính chất cân đối. Những công trình có dữ lượng thông tin đậm đặc, cốt lõi, được ưu tiên chọn lọc. Đồng thời nhóm biên dịch cũng chú ý tới việc cân đối trong thời gian, cân đối trong không gian và cân đối giữa các lĩnh vực. Tuyển tập Tư liệu phương Tây trước 1945 phản ánh lịch sử nhưng không sa đà vào những sự kiện chính trị, mà tập trung vào những thiết chế chính trị và các mặt đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa. Tính thực chứng của văn bản, nguồn gốc xuất xứ, tác giả, nơi xuất bản được xác định rõ sẽ là những tư liệu được ưu tiên lựa chọn. Về mặt văn bản đáng tin cậy nhất của tư liệu có lẽ là những tài liệu gốc, “first-hand” của những tác giả đương thời, có thẩm quyền hoặc uy tín. Nhóm biên soạn đã loại bỏ những tư liệu không hội đủ những tiêu chí nói trên. Trong quá trình biên soạn, việc khảo chứng, thẩm định và đánh giá về nội dung, quan điểm của tư liệu được chủ biên chú trọng đầu tư. Nhóm biên soạn đã cố gắng thẩm định về tính chân thực của những tư liệu được chọn dịch, bằng cách đối chiếu qua nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Về phần giá trị và quan điểm tư tưởng, chủ biên có nhận định, phê bình, đánh giá chung về mặt khoa học của tư liệu trong phần Tổng luận, nhưng không đi sâu vào chi tiết của những tư liệu, nhất là không “biên tập” lại, thêm bớt sửa chữa câu chữ của nguyên bản để bảo đảm tính trung thực lịch sử.
Trong cuốn Tuyển tập tư liệu phương Tây trước năm 1945, các tác giả của những tư liệu phương Tây này tuyệt đại đa số là người Pháp, quốc gia từng có nhiều duyên nợ lịch sử với Việt Nam. Ở đây, có một chi tiết thú vị mang tính nghịch lý. Những tác giả trước thời Pháp thuộc, không dính líu gì đến công cuộc chinh phục, “khai hóa” thực dân, thường có những nhận xét khen, chê mang tính khách quan hơn về xã hội và chế độ chính trị Việt Nam truyền thống, thì lại không phải là những nhà nghiên cứu chuyên môn, có một vốn tri thức khoa học phong phú và vững chắc về lịch sử, văn hóa Việt Nam. Ngược lại, những quan chức chính trị trong bộ máy cầm quyền thực dân Pháp thời cận đại, nếu được trang bị một khối lượng khá đủ thông tin dữ liệu chính xác đa diện về đất nước và con người Việt Nam, thì lại thường bị mắc míu vào hệ ý thức thực dân và tư tưởng của “chủ nghĩa khai hóa”, nhiều khi mang những quan điểm thiên vị, ít khách quan, ca tụng hoặc bào chữa cho chế độ thuộc địa.
Trân trọng giới thiệu!
Nhà xuất bản: Dân trí- 2018
Tổng số trang: 133tr
Kích thước: 14,5 x 20,5cm
Hình ảnh thuyền bè đã xuất hiện rất nhiều trong các nền văn hóa cổ của dân tộc Việt Nam. Trên đồ đồng Đông Sơn xuất hiện nhiều hoa văn hình thuyền và người chèo thuyền, hình thuyền cũng được trang trí trong kiến trúc nhà cửa của người Việt, nhiều bộ phận nhà cửa của người Việt có tên gọi xuất phát từ các bộ phận của những chiếc thuyền; nhiều ngôi nhà của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn mô phỏng hình chiếc thuyền. Người Việt từ cổ chí kim đều dùng thuyền để đi lại, vận chuyển, mưu sinh, thậm chí khi chết họ cũng được mai táng trong các quan tài hình thuyền hay trong các ngôi mộ hình thuyền.
Dựa vào các nguồn sử liệu chính thống của Việt Nam và thông tin từ các hồi ký của những người nước ngoài từng đến Việt Nam trong các thế kỷ XVII-XIX, biên khảo này cung cấp một cái nhìn tổng quát về ngành đóng thuyền và tàu thuyền ở Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn và ở Việt Nam trong thời kỳ đầu của vương triều Nguyễn (1802-1945).
Nhà xuất bản: Hồng Đức - 2018
Tổng số trang: 403tr
Kích thước: 14,5 x 20,5cm
Là cuốn sách do dịch giả Nguyễn Hiến Lê dịch của tác giả Will Durant. Cuốn sách là một bức tranh về lịch sử văn minh Trung Hoa. Cuốn sách gồm 5 chương:
Chương 1: Thời đại các triết gia
Chương 2: Thời đại các thi sĩ
Chương 3: Thời đại các nghệ sĩ
Chương 4: Dân tộc và quốc gia
Chương 5: Cách mạng và phục sinh
Khu bảo tồn di tích văn hóa Sa Huỳnh, ở thôn Long Thạnh 2, phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ) là nơi được kỳ vọng trở thành điểm nhấn trưng bày, tái hiện nền văn hóa cổ xưa của người Việt, kết nối với “Con đường di sản miền Trung”, tạo sức hấp dẫn, thu hút du khách, nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế... Tuy nhiên, từ khi đi vào hoạt động vào năm 2017 đến nay, khu bảo tồn di tích này chưa phát huy giá trị một cách xứng tầm.
Xác tàu buôn bằng gỗ sồi dài 24m và rộng 9m bị chôn vùi dưới thành phố Tallinn, nơi từng chìm dưới nước biển hàng trăm năm trước.
Một trong những cảng lớn nhất ở biển Baltic, cảng Tallinn, cũng là một trong những cảng lâu đời nhất Bắc Âu. Hôm 20/4, xác một con tàu 700 tuổi thuộc Liên minh Hanse được phát hiện ở độ sâu 1,5m bên dưới những con phố của Tallinn, thủ đô Estonia. Ở thời kỳ đỉnh cao, Liên minh Hanse gần như độc quyền với toàn bộ việc mua bán hàng hải ở biển Bắc và biển Baltic thời Trung cổ.
Xác tàu buôn của Liên minh Hanse nằm ở độ sâu 1,5 m dưới những con phố của Tallinn, thủ đô Estonia. (Ảnh: Patrik Tamm/ERR)
Đây là xác tàu lớn nhất thuộc loại này từng được phát hiện. Nơi con tàu "an nghỉ" thuộc cửa sông Harjapea cũ, một tuyến đường thủy không còn tồn tại. Người ta tình cờ tìm thấy nó trong quá trình xây dựng một tòa nhà văn phòng trên phố Lootsi, Tallinn. Công việc xây dựng dự kiến bị trì hoãn ít nhất hai tháng để các nhà khảo cổ khai quật.
Xác tàu mới phát hiện được lưu giữ tốt đến mức có thể vượt qua kỷ lục về mức độ bảo quản của tàu buôn Trung cổ Bremen Cog. Tàu Bremen Cog được phát hiện ở Weser, Đức, năm 1962. Các chuyên gia đã mất gần 40 năm để tái tạo nó và trưng bày trong Bảo tàng Hàng hải Đức. Kết quả phân tích niên đại gỗ cho thấy, con tàu của Liên minh Hanse tồn tại từ năm 1298, cổ hơn Bremen Cog 82 năm.
"Xác tàu Tallinn rất tốt so với Bremen Cog. Con tàu dài 24 m và rộng 9 m. Những tấm ván từ đáy tàu lên cao 3 m vẫn còn nguyên vẹn. Con tàu được đóng từ những tấm ván và khúc gỗ sồi lớn. Nó có các lớp ván chồng lên nhau, bịt kín bằng lông động vật và hắc ín", nhà khảo cổ học Mihkel Tammett cho biết.
"Chúng tôi cũng tìm thấy chất liệu len dùng để đóng gói, một số công cụ và các mảnh giày da thời Trung cổ. Công cuộc khai quật đang diễn ra và chúng tôi hy vọng sẽ phát hiện nhiều hơn nữa", Tammett bổ sung.
Xác tàu buôn dài 24m, rộng 9m nằm trong công trường xây dựng ở Tallinn. (Ảnh: Patrik Tamm/ERR)
Năm 2008, cách xác tàu Tallinn hiện tại khoảng 50 m, người ta cũng tìm thấy một xác tàu khác. Xung quanh Tallinn có nhiều xác tàu vì toàn bộ khu vực này từng là biển cho đến cuối thế kỷ 18. Vào thế kỷ 13, nơi đây chìm sâu dưới 2 m nước biển.
Cuối những năm 1930, xung quanh Tallinn ngập tràn tro và rác thải sinh hoạt. Tàu thuyền có thể đã bị đánh chìm ở đây một cách cố ý hoặc vùi lấp dần theo thời gian. "Có lẽ có những dải cát ngầm ở nông hơn, khó lập bản đồ vì chúng thay đổi hình dạng và vị trí do băng trôi và bão. Xác tàu mới phát hiện nằm ở một trong những dải cát như vậy bên dưới lớp trầm tích", Tammett nói.
Dù kích thước cồng kềnh, tàu buôn của Liên minh Hanse được ưa chuộng do đáy phẳng, không gian chứa hàng lớn và dễ vận hành. Tuy nhiên, kích thước lớn khiến các chuyên gia gần như không thể di chuyển nó liền một khối, theo Ragnar Nurk, nhà khảo cổ học của chính quyền thành phố Tallinn. "Hiện có hai giải pháp chính: nó sẽ được đưa đến bảo tàng hàng hải hoặc khu vực bảo quản xác tàu ở vịnh Tallinn, gần đảo Naissaar", ông nhận định.
Theo VnExpress
Một số ngôi mộ và quan tài bí ẩn bằng chì, niên đại có thể từ thế kỷ thứ 14 đã được các nhà khoa học phát hiện sau vụ hỏa hoạn ở Nhà thờ Đức Bà Paris năm 2019.
Công bố mới từ Bộ Văn hóa Pháp cho biết vụ hỏa hoạn đã làm lộ ra các khu chôn cất "có ý nghĩa khoa học đáng chú ý". Các mộ phần đã được khai quật trong quá trình chuẩn bị xây dựng lại ngọn tháp trung tâm của nhà thờ cổ đại.
Theo Science Alert, hiện vật đáng chú ý nhất vừa được khai quật là một chiếc quan tài bằng chì, có hình người, có thể được làm cho một chức sắc quan trọng sống vào những năm 1300.
Cỗ quan tài chì vừa được khai quật - (Ảnh: Julien De Rosa)
Các nhà khoa học tiến hành xem xét quan tài bằng camera nội soi, hé lộ phần trên có một bộ xương, một chiếc gối làm từ lá, vải và những vật thể chưa xác định. Quan tài được chuyển khỏi nhà thờ hôm 12/4, Viện nghiên cứu khảo cổ quốc gia INRAP của Pháp cho biết. Hiện nay, quan tài đang được lưu giữ ở nơi an toàn. Nhà chức trách sẽ sớm chuyển nó tới Viện y học pháp y ở thành phố Toulouse phía tây nam nước Pháp.
Nhóm chuyên gia pháp y và nhà khoa học sẽ mở quan tài sau đó và nghiên cứu bên trong, xác định giới tính và tình trạng của hài cốt. Theo nhà khảo cổ Christophe Besnier, họ có thể xác định niên đại bằng đồng vị carbon. Do nằm dưới mô đất với những đồ đạc từ thế kỷ 14, cỗ quan tài có nguồn gốc từ thời Trung Cổ. Do đó, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu địa vị xã hội của người chết. Dựa theo vị trí và cách chôn cất, họ cho rằng người chết thuộc tầng lớp quý tộc thời đó.
Vị trí tìm thấy cỗ quan tài khá kỳ lạ: trong quá trình chuẩn bị lắp đặt giàn giáo, đội tái thiết phát hiện một hệ thống sưởi ấm dưới lòng đất, và cỗ quan tài nằm giữa những đường ống gạch của hệ thống sưởi này.
Tuy nhiên, Dominique Garcia, người đứng đầu viện INRAP, nhấn mạnh hài cốt sẽ được kiểm tra theo quy định của Pháp. Sau khi hoàn tất nghiên cứu, cỗ quan tài sẽ được chuyển về và viện đang xem xét khả năng đặt quan tài ở nhà thờ Đức Bà Paris.
Theo VNE
Nền văn hóa Óc Eo, biểu trưng cho một vương quốc mang tên Phù Nam xưa tại Đồng bằng sông Cửu Long luôn là điều bí ẩn, kỳ lạ đang được các nhà chuyên môn khám phá, giải mã. Tại xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh có một di tích khảo cổ đã được các nhà khảo cổ khai quật và lên phương án bảo tồn, phát huy giá trị di tích để phát triển du lịch, đó là di tích Bờ Lũy - chùa Lò Gạch.
Nhiều cư dân tại đây cho biết thêm, đây là ngôi chùa Khmer nam tông có nhiều phật tử đến lễ bái thường xuyên và là một trong những ngôi chùa cổ nhất đất Trà Vinh. Năm 2008, trong khi tiến hành đào móng xây dựng lại ngôi chùa, một nhóm thợ xây đã tình cờ phát hiện rất nhiều hiện vật lạ trên bãi đất rộng khoảng 500 mét vuông trong khuôn viên chùa Lò Gạch. Ngay sau đó, các nhà chuyên môn đã đến thám sát, bảo vệ hiện trường và lên phương án dò tìm. Tuy nhiên mãi đến năm 2014, cuộc khai quật mới được tiến hành. Kết quả cho thấy có nhiều dấu tích, hiện vật của một nền kiến trúc hình vuông có nhiều nét tương đồng với các di chỉ văn hóa Óc Eo tại các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long.
Cụ thể, di tích này gồm 2 phần độc lập: thứ nhất là di tích kiến trúc cổ nằm trong khuôn viên chùa; thứ hai là di tích Bờ Lũy bằng đất có quy mô lớn nằm theo hướng Tây - Tây Nam cạnh chùa Lò Gạch. Hiện vật thu được tương đồng với các di chỉ văn hóa Óc Eo tại các điểm khai quật khác của Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là các lá vàng có chạm trổ hình ảnh con voi, hoa sen. Đây là nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo có niên đại vào thế kỷ VIII - IX sau công nguyên. Với những đặc điểm lịch sử khảo cổ trên, di tích trên đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận Di tích văn hóa cấp quốc gia năm 2017.
Đến Trà Vinh tham quan, trải nghiệm văn hóa, du khách đừng quên ghé qua khám phá di tích di tích khảo cổ có tên Bờ Lũy - chùa Lò Gạch, bởi địa điểm này chỉ cách trung tâm TP. Trà Vinh khoảng 6 km và nằm cạnh nhiều di tích lịch sử văn hóa rất nổi tiếng như: chùa Âng, Ao Bà Om, Bảo tàng Văn hóa Khmer Nam bộ…