
Nhà xuất bản: Hà Nội
Năm xuất bản: 2019
Số trang: 88 trang
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Thăng Long - Hà Nội là mảnh đất thiêng, nơi hội tụ những tinh hoa của đất nước. Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội đã có lịch sử từ hàng trăm năm, có làng trên dưới 1000 năm, là một tài sản đặc biệt quý giá của thủ đô Hà Nội. đã có lịch sử từ hàng trăm năm, có làng trên dưới 1000 năm, là một tài sản đặc biệt quý giá của thủ đô Hà Nội.
Đất Thăng Long xưa là nơi hội tụ nhiều nghệ nhân, thợ giỏi vùng châu thổ sông Hồng về đây lập nghiệp, chế tác ra nhiều sản phẩm tinh hoa phục vụ nhu cầu của nhân dân đất kinh kỳ và của triều đình.
Hà Nội cũng có những nét đặc sắc riêng về các phường nghề - nơi các thợ thủ công, các nghệ nhân làng nghề nổi tiếng ở khắp nơi hội tụ về lập nghiệp sau khi vua Lý định đô ở Thăng Long, hình thành những tên “Phố hàng..” được lưu giữ đến ngày nay như Hàng Bạc, Hàng Thiếc, Hàng Đồng ...
Xin trân trọng giới thiệu!

Nhà xuất bản: Hà Nội
Năm xuất bản: 2019
Số trang: 86 trang
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Chúng ta hãy nhìn vào cách ăn uống của con người nơi đây. Ăn uống đối với người Hà Nội nhiều khi còn đòi hỏi không gian và thời gian thích hợp. Mùa hè, sướng nhất là lên hồ Tây, thưởng thức món bánh tôm giòn tan, ngọt ngào vị tôm tươi với những đĩa rau ghém và nước chấm vô cùng hấp dẫn. Vừa ăn vừa hưởng những làn gió mát rượi, phả lên từ những làn sóng ì oạp vỗ bờ. Mùa lạnh, thú vị nhất là cùng bạn bè, người thân quây quần bên bộ sập gụ, trong căn phòng ấm cúng, vừa cụng li vừa thưởng thức món chả cá Lã Vọng. Ăn uống đối với người Hà thành quả thật không chỉ là nhu cầu duy trì cuộc sống mà còn là một thú vui, hạnh phúc, tận hưởng những món ăn ngon, quà ngon mà chính bàn tay, khối óc của họ đã nâng lên tầm nghệ thuật và khoa học!
Sự sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa ẩm thực của người Hà thành vô cùng phong phú. Theo thời gian, trong danh sách dài của các món quà ngon mà ta đương thưởng thức chắc chắn sẽ còn được ghi thêm nhiều, bổ sung rất nhiều các món ngon, quà ngon khác mà người Hà thành sẽ sáng tạo ra.. Tuy nhiên, thời gian cũng là liều thuốc thử khắc nghiệt đối với sự tồn tại và phát triển của ẩm thực Hà Nội. Không ít những món ngon, quà ngon đã thất truyền hoặc có nguy cơ thất truyền vì những nguyên nhân chủ quan và khách quan: Đất nước cùng với Hà Nội đã trải qua nhiều năm chiến tranh dài và khốc liệt khiến nền kinh tế kiệt quệ. Lương thực, thực phẩm thiếu thốn. Nhiều nghệ nhân ẩm thực phải bỏ nghề. Nhiều vị tổ nghiệp, thày nghề già cả viên tịch không kịp truyền lại các kinh nghiệm, bí quyết cho hậu thế.
Với tâm huyết và niềm say mê văn hóa tinh hoa và phong phú của Thăng Long - Hà Nội, nhất là văn hóa ẩm thực; các tác giả của cuốn sách đã lựa chọn 10 món ngon Thăng Long - Hà Nội hiện còn đang thịnh hành, 10 món ngon Thăng Long đã thất truyền và 10 món quà đặc sắc nhất trong số những món ngon, quà ngon của Thăng Long - Hà Nội để giới thiệu trong tập sách này, theo các tiêu chí dưới đây:
- Cách chế biến công phu, độc đáo, cách trình bày có tính thẩm mỹ cao.
- Cách ăn, cách thưởng thức tinh tế của người Hà thành.
- Đánh giá của giới ẩm thực học, của các nhà văn hóa Hà thành xưa và nay như Thach Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân vv…được phản ánh trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu được nhiều người biết đến.
- Qua cách đánh giá khách quan và khoa học của các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước có uy tín như: Discovery, CNN, Huffington Post, Buffalo tour..v.v
Cách nhìn nhận và cách tiếp cận của các tác giả về đề tài 10 món ăn ngon và 10 món quà ngon trong cuốn sách này không chỉ giới hạn trong việc chỉ ra những thức ăn “ngon”, “ăn không biết chán” mà còn gợi lên tài năng của những người làm bếp. Bằng đôi bàn tay khéo léo trong chế biến, với bộ óc thông minh trong cách lựa chọn nguyên liệu và quy trình chế biến đầy sáng tạo như những người nghệ sỹ, họ đã thổi hồn vào tác phẩm của mình khiến cho các thực khách, trước tiên là người Hà thành khi thưởng thức nó, cảm thấy cần phải có văn hóa ứng xử sao cho đúng mà tạo cho mình một phong cách ăn lịch thiệp, tao nhã, hợp lý khi trước mắt mình là những tuyệt phẩm ẩm thực. Còn những người đi xa Hà Nội thì bồi hồi, nhớ nhung, thèm muốn khi nghĩ đến nó vì nó (phở, nem, bún thang …) đã trở thành quốc hồn, quốc túy của các con dân Việt nói chung và dân Hà thành nói riêng.
Xin trân trọng giới thiệu!
Diễn họa dựa trên dữ liệu sưu tập từ Bảo tàng Lịch sử Chile + Bộ sưu tập Khảo cổ Bắc Carolina
Các loại công cụ chặt bằng đá. Diễn họa dựa trên dữ liệu sưu tập từ Bảo tàng Lịch sử Chile + Bộ sưu tập Khảo cổ Bắc Carolina...
Đầu rồng tìm thấy ở khu di tích Lam Kinh (Thanh Hóa)
Thần Shiva trong điệu múa "Sáng tạo và Hủy diệt", bằng đồng đúc cách đây hơn 1000 năm. Diễn họa dựa trên dữ liệu di sản Ấn độ của Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland
Nhận thấy nhiều hiện vật trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Nguyên đang dần bị mai một, hơn 40 năm qua, Thượng tá Đặng Minh Tâm (64 tuổi, nguyên cán bộ công an tỉnh Lâm Đồng), đã không quản ngại bỏ ra công sức, tiền bạc miệt mài sưu tầm, lưu giữ nhiều hiện vật gắn với phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa của đồng bào Tây Nguyên.

Là lính Tiểu đoàn 1 - Tiểu đoàn tăng cường thuộc Bộ Công an lên Tây Nguyên năm 1978, ông Đặng Minh Tâm có thời gian làm việc và sinh hoạt cùng đồng bào DTTS tại các tỉnh Tây Nguyên. Ông ấn tượng bởi cuộc sống bà con nơi đây giản dị, chân chất thật thà cùng với những nét văn hóa đặc sắc.
Ông Tâm trải lòng, để bà con tin yêu, thì mình phải nói đi đôi với làm, cũng như hiểu được phong tục tập quán, nói được ngôn ngữ của họ, thì mới dễ dàng tiếp cận, hiểu được nét đẹp, giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào. Trải qua những tháng năm làm việc, sinh hoạt trong vùng đồng bào DTTS; cùng đồng đội bảo vệ cuộc sống bình yên cho đồng bào, nhiều ngôn ngữ của người Cơ ho, Ba Na, Jrai, Churu... đã được ông sử dụng thành thạo.

“Mỗi lần chuyển sang địa bàn khác công tác, trước lúc chia tay, bà con tặng tôi nhiều nhạc cụ, vật dụng sinh hoạt gắn bó với đời sống của họ. Xuất phát từ tình cảm đó, tôi bắt đầu cảm nhận được cái đẹp, cái giá trị, ý nghĩa của mỗi hiện vật gắn với đời sống, phong tục, tập quán của đồng bào, nên tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu, sưu tầm những hiện vật và cất giữ cẩn thận”, ông Tâm kể.

Trong quá trình sưu tầm, tìm hiểu, ông Tâm thường khuyên bà con nên giữ lại các hiện vật truyền thống của dân tộc. Đối với những gia đình do hoàn cảnh khó khăn, buộc phải bán các hiện vật như ché, cồng chiêng... thì ông mua lại và lưu giữ từng món một.
Đến bộ sưu tập hơn 30.000 hiện vật
Sau hơn 40 năm, rong ruổi khắp các buôn làng ở các tỉnh Tây Nguyên, giờ đây ông Đặng Minh Tâm sở hữu bộ sưu tập hiện vật khá đồ sộ về đời sống sinh hoạt, tôn giáo, tín ngưỡng của các dân tộc với hơn 30.000 hiện vật. Ông dành một phần lớn diện tích căn nhà trên đường Lương Thế Vinh, phường 3, TP. Đà Lạt (Lâm Đồng) để làm nơi lưu giữ.
Chỉ tay về phía chiếc ché cổ được xếp vị trí trên cao, bên cạnh ché là những chiếc chum của người Chăm cổ, ông Tâm cho biết, đó là chiếc ché thế mạng của người Ba Na được chế tác từ thế kỷ 13. Lúc bấy giờ, giá trị chiếc ché tương đương khoảng 15 con trâu. Chiếc ché này quý hiếm đến mức, nếu chẳng may xảy ra sự cố gây chết người, muốn dung hòa và không bị đền mạng, thì chỉ cần đem chiếc ché này đền cho gia đình, hoặc cộng đồng nơi có người bị chết, là mọi chuyện đương nhiên được hóa giải.

“Để có được những hiện vật này, tôi phải đi xa hàng trăm km, đến các bản làng sưu tầm và mua lại. Có những thứ không đáng giá, nhưng đó là những kỷ niệm trong những năm tháng sống cùng đồng bào các dân tộc”, ông Đặng Minh Tâm nói.

Được biết, nhiều hiện vật của ông Đặng Minh Tâm đang sở hữu có giá trị cao, nhiều du khách đến tham quan ngỏ ý muốn mua và trả giá rất cao nhưng ông nhất quyết không bán. Việc ông sưu tầm các hiện vật này để thỏa lòng đam mê văn hóa và cũng muốn bảo tồn, gìn giữ cho thế hệ mai sau.
Hiện nay, “bảo tàng” lưu giữ hơn 30.000 hiện vật, tại gia đình ông Tâm còn là nơi tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu của sinh viên các trường đại học, cao đẳng, nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu đời sống văn hóa vật chất, tinh thần, phong tục tập quán của các dân tộc ở Tây Nguyên.
Ban tổ chức Hội nghị kính mời các tổ chức, cá nhân làm công tác Khảo cổ học và các ngành có liên quan gửi bài viết tham dự hội nghị (Chi tiết xin xem file đính kèm).
Nội dung bài viết: Những phát hiện, nghiên cứu mới về khảo cổ học từ tháng 11/2021 đến nay.
Hình thức: Mỗi bài viết tối đa 03 trang đánh máy khổ A4 và không quá 03 tên tác giả; phông chữ thống nhất Unicode - Time New Roman cỡ chữ 13. Ban tổ chức không chấp nhận các bản text định dạng Pdf.
Thời hạn nhận bài: đến hết ngày 15/10/2022.
Địa chỉ nhận bài: Viện Khảo cổ học, số 61 - Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: hoinghitbkch@gmail.com
Chúng tôi hy vọng với sự quan tâm và hợp tác của quý cơ quan và quý vị, Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 57 sẽ thành công tốt đẹp.
Viện Khảo cổ học xin trân trọng thông báo!
TM. Ban Tổ chức Hội nghị
Q.ViệnTrưởng
Nguyễn Gia Đối đã ký.
Ngày 27/5, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia phối hợp Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội nghị báo cáo sơ bộ kết quả khai quật Di tích khảo cổ học Thác Hai lần thứ 2 (năm 2021 - 2022).

Di tích khảo cổ học Thác Hai thuộc địa bàn thôn 6, xã Ia Jlơi, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, được phát hiện vào đầu năm 2020 và khai quật lần thứ nhất vào tháng 3/2021. Kết quả khai quật đã thu được rất nhiều di tích, di vật, cho thấy Di tích khảo cổ học Thác Hai là một di chỉ cư trú - mộ táng - công xưởng rất quan trọng. Bên cạnh công cụ lao động như: rìu bôn đá, đồ gốm và các mộ táng, các nhà khảo cổ còn thu được hơn 1.000 mũi khoan bằng các loại đá, cùng hàng vạn mảnh tước nhỏ.
Nhận thức tầm quan trọng của Di tích khảo cổ học Thác Hai đối với việc nghiên cứu lịch sử Tây Nguyên nói riêng, Việt Nam nói chung, UBND tỉnh Đắk Lắk đã giao Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh tiếp tục phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia khai quật khẩn cấp di chỉ quan trọng này nhằm thu thập thêm các thông tin khoa học giá trị, kịp thời đưa lên khỏi lòng đất những di tích, di vật quý giá nhằm bảo quản, lưu giữ, phát huy giá trị lịch sử, văn hóa thời đại Tiền - Sơ sử ở Tây Nguyên.

Từ tháng 11/2021 -tháng 5/2022, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia phối hợp Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk khai quật Di tích khảo cổ học Thác Hai lần thứ hai. Kết quả khai quật, các di tích xuất lộ trong hố khai quật gồm có mộ táng, cụm gốm, hố đất đen và nền đất cháy. Về mộ táng, phát hiện 16 mộ táng, phong tục mai táng khá thống nhất, một số mộ chôn theo công cụ đá như rìu, đục, bàn mài, bàn đập vải vỏ cây; có mộ chôn theo đồ tùy táng là 42 hạt chuỗi thủy tinh màu xanh.

Di vật thu được ở di tích khảo cổ học Thác Hai gồm đồ đá, đồ gốm và đồ thủy tinh. Đồ đá là loại di vật chủ đạo ở Thác Hai, nhiều nhất là mũi khoan với 1.596 tiêu bản. Đáng chú ý, hầu hết mũi khoan đều chưa có dấu vết sử dụng. Đồ gốm di chỉ Thác Hai có các loại hình bình, nồi, chum, vò, bát bồng… với nhiều kích cỡ khác nhau. Đồ thủy tinh tìm được chủ yếu là loại hình hạt chuỗi với 1.244 hạt chuỗi thủy tinh… Qua tổng thể di tích và di vật cho thấy, Thác Hai là một di tích phức hợp, vừa có tính chất cư trú, vừa là khu mộ táng, vừa là một công xưởng chế tác mũi khoan đá quy mô lớn.

Tại hội nghị, các đại biểu đã đề xuất cần tiếp tục khai quật di chỉ Thác Hai càng sớm càng tốt, trên quy mô lớn, nhằm thu thập các di tích, di vật quý giá còn ẩn chứa trong lòng đất. Các sở, ngành hữu quan cần sớm lập đề án Quy hoạch khảo cổ học trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk để quản lý hiệu quả các di sản văn hóa. Nhiều đại biểu cho rằng cần đẩy mạnh hợp tác giữa Bảo tàng Lịch sử Quốc gia với Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk theo chương trình nghiên cứu dài hạn, bài bản nhằm đưa các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh đến gần hơn với công chúng trong và ngoài nước.
Đoàn khai quật gồm cán bộ của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng Đắk Lắk vừa báo cáo kết quả sơ bộ cuộc khai quật di chỉ khảo cổ học Thác Hai (thôn 6, xã Ia Jlơi, huyện Ea Súp, Đắk Lắk). Theo đó, đây là một di chỉ khảo cổ học mới, ẩn chứa nhiều tư liệu, sẽ góp phần làm sáng tỏ lịch sử vùng đất Tây Nguyên thời Tiền - Sơ sử, rất cần được nghiên cứu, thu thập tư liệu và bảo tồn.
Xử lý di tích xuất lộ trong hố khai quật
Đây là một di chỉ xưởng kết hợp cư trú và mộ táng. Trong đó, tính chất xưởng của di chỉ nổi lên một cách rõ rệt thông qua bộ sưu tập hàng nghìn tiêu bản mũi khoan và phác vật mũi khoan. Ngoài là công xưởng chế tác mũi khoan, cư dân cổ Thác Hai còn chế tác cả các công cụ đá như rìu, bôn… Những mảnh gốm xuất hiện rải rác cùng những tàn tích than tro, mộ táng có chôn theo đồ tùy táng... cho thấy cư dân cổ ở Thác Hai ngoài chế tác công cụ cũng đồng thời cư trú và mai táng tại đây, chưa phân tách khu vực cư trú, sản xuất với khu vực mai táng.
Trên cơ sở một số loại hình đồ gốm, đồ án hoa văn trang trí cũng như trình độ tinh xảo của những thợ thủ công chế tác mũi khoan tại đây, các nhà khoa học bước đầu nhận định niên đại của di chỉ Thác Hai khoảng trên dưới 3000 năm cách ngày nay, thuộc trung kỳ thời đại kim khí. Tầng văn hóa dày (2m) cho thấy, giai đoạn cư trú khá dài nhưng tính chất di chỉ khá ổn định. Về chủ nhân ngôi mộ, cư dân cổ ở Thác Hai là những người thợ thủ công có trình độ cao, với các sản phẩm rất tinh xảo. Cụ thể, qua nghiên cứu cấu trúc mộ M1, các nhà khoa học cho rằng, chủ nhân ngôi mộ này có liên quan tới công xưởng chế tác này, có thể là một trong những người thợ trực tiếp chế tác công cụ (rìu, bôn, mũi khoan...) phát hiện trong hố khai quật, thể hiện qua việc tìm thấy những đồ tùy táng, ngoài đồ gốm còn có những công cụ bằng đá. Có thể, ngoài các ngôi mộ đã xuất lộ trong hố đào, trong phạm vi di chỉ còn nhiều ngôi mộ khác có liên quan trực tiếp tới công xưởng chế tác này.
Báo cáo sơ bộ khẳng định, những kết quả nghiên cứu và khai quật tại di chỉ khảo cổ học Thác Hai là một trong những phát hiện mới và rất quan trọng của khảo cổ học Việt Nam. Có thể nói đây là lần đầu tiên ở Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đã phát hiện được một công xưởng chế tác mũi khoan với quy mô lớn, chuyên môn hóa cao, trình độ kỹ thuật tinh xảo. “Ở Việt Nam, loại di chỉ công xưởng chế tác mũi khoan không nhiều, chỉ mới xác định được ở các di chỉ như Bãi Tự (Bắc Ninh), Tràng Kênh (Hải Phòng), Đầu Rằm, Ba Vũng (Quảng Ninh). Song những mũi khoan ở các di chỉ này chỉ được ghè, tu chỉnh, mài thô..., hiện vật tương đối to và thô, chủ yếu dùng để sử dụng trong kỹ thuật khoan tách lõi, còn mũi khoan Thác Hai có rất nhiều hiện vật được mài trau chuốt, đánh bóng toàn thân đạt đến mức độ hoàn mỹ, được sử dụng trong kỹ thuật khoan xuyên tâm để chế tạo đồ trang sức...”, báo cáo sơ bộ cho biết.
Một số loại hình đồ gốm mới cũng lần đầu tiên được tìm thấy ở Đắk Lắk trong di chỉ Thác Hai. Nhiều cụm gốm có khả năng phục dựng rất cao, được đưa về còn khá nguyên vẹn. Sau khi được xử lý, phục dựng lại, đồ gốm Thác Hai cùng với các loại hình hiện vật khác trở thành những tiêu bản hiện vật quý hiếm, độc đáo... bổ sung cho hệ thống trưng bày ở Bảo tàng Đắk Lắk và Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Là một địa điểm khảo cổ học mới phát hiện với nhiều thông tin nghiên cứu quan trọng, nhiều hiện vật tinh xảo, nhiều đồ gốm còn khá nguyên vẹn có thể phục dựng để trưng bày, tuy nhiên, cũng theo các nhà khoa học, di chỉ này nằm sát bờ sông đang đổi dòng, từng ngày, từng giờ đang bị dòng nước xoáy vào địa tầng gây sạt lở nghiêm trọng. Do vậy, các chuyên gia kiến nghị rất cần có những biện pháp bảo vệ di chỉ trước sự tàn phá của thiên nhiên.
THANH MỘC, ảnh: BTLSQG CUNG CẤP