Các công nhân xây dựng tình cờ tìm thấy một loạt ngôi mộ từ thời La Mã cổ đại ở thành phố Beit Lahia, phía bắc Dải Gaza.
Công trường xây dựng nơi phát hiện hàng chục mộ cổ ở Dải Gaza. (Ảnh: AFP)
Trong một tuyên bố vào hôm 21/2, các nhà chức trách cho biết 31 ngôi mộ có niên đại từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên được phát hiện khi những chiếc xe ủi tiến hành xúc đất tại một dự án nhà ở do Ai Cập tài trợ trong thành phố Beit Lahia.
Bộ Du lịch và Cổ vật Dải Gaza đã cử một nhóm chuyên gia đến địa điểm để lập danh mục và nghiên cứu các ngôi mộ cũng như đồ tạo tác. Phân tích ban đầu cho thấy chúng có thể là một phần của nghĩa trang liên kết với khu khai quật La Mã gần đó ở Balakhiya.
Bên trong các ngôi mộ, nhóm khảo cổ đã tìm thấy nhiều quan tài, đồ gốm và chữ khắc gợi ý rằng nghĩa trang tồn tại từ Đế chế La Mã cổ đại đến thời kỳ Byzantine hay Đế quốc Đông La Mã.
Một số ngôi mộ được khai quật tại công trường. (Ảnh: AFP)
Mặc dù nghĩa trang chỉ bao phủ một khu vực nhỏ, nó cho thấy sự hiện diện của các di tích khác hoặc toàn bộ khu vực lân cận. Vào thời Byzantine, nghĩa trang thường được xây dựng gần với cộng đồng để họ có thể giữ liên lạc với những người đã khuất - những người được coi trọng theo tín ngưỡng và văn hóa thời đó.
Dải Gaza là một trong những nơi sinh sống lâu đời nhất trên Trái Đất và là quê hương của khoảng 18 nền văn minh trong suốt lịch sử. "Khu vực này chứa đầy những cổ vật chưa được khám phá, nhưng đòi hỏi các dự án với nguồn kinh phí khổng lồ, cũng như các công cụ đặc biệt để khai quật", nhà sử học người Palestine Ghassan Wishah, người đứng đầu Khoa Lịch sử và Khảo cổ học tại Đại học Hồi giáo Gaza nói với Al-Monitor.
Theo VNE
Trong quá trình san gạt, xây bờ kè, gia đình bà Nguyễn Thị Huệ ở thôn Lưỡng Kỳ, xã Thống Nhất, TP Hạ Long, đã phát hiện một chiếc trống đồng nằm vùi lấp dưới mặt đất hơn 1m. Bảo tàng Quảng Ninh và các nhà Khảo cổ học đã tiến hành nghiên cứu chiếc trống này.
Trống đồng phát lộ tại thôn Lưỡng Kỳ, xã Thống Nhất, TP Hạ Long, là chiếc trống đồng thứ 2 được phát hiện tại Quảng Ninh.
Trống đồng phát lộ tại vị trí bên bờ trái của dòng suối chảy qua vườn nhà bà Nguyễn Thị Huệ, dưới lớp đất mặt, cách di tích danh thắng quốc gia Núi Mằn khoảng 400m về phía Đông.
Trống đồng cao 42cm, đường kính mặt 69,5cm, đường kính chân 66cm. Khi phát lộ, trống ở tư thế nằm ngửa, trong địa tầng đất có màu xám đen, xung quanh và bên trong lòng trống không có đồ vật khác. Hiện trạng, trống có mặt còn nguyên, trên mặt có 6 khối tượng cóc; trong đó có 3 tượng cóc đơn, 3 tượng cóc con cái (lớn) cõng con đực (nhỏ). Phần tang trống bị vỡ, còn lại khoảng 2/3 diện tích.
Mặt trống còn nguyên vẹn, có 6 khối tượng cóc.
Tang trống còn lại khoảng 2/3 diện tích.
Sau khi phát lộ hiện vật, gia đình bà Nguyễn Thị Huệ đã báo cáo chính quyền xã Thống Nhất và Bảo tàng Quảng Ninh. Trên cơ sở nghiên cứu và tham vấn ý kiến chuyên gia, bước đầu Bảo tàng Quảng Ninh xác định: Trống được phát hiện tại Lưỡng Kỳ là Trống đồng loại II (H2) trong hệ thống phân loại trống đồng của Heger niên đại khoảng thế kỷ XIV-XV. Loại trống này thường được dùng trong nghi lễ và có nhiều nét tương đồng với trống của người Mường ở Hòa Bình.
Khảo sát vị trí phát hiện trống đồng
Tới nay, đây là chiếc trống đồng thứ 2 được phát hiện tại Quảng Ninh sau trống đồng Quảng Chính được phát hiện năm 1981 tại huyện Hải Hà và đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Hiện trống đang được bảo quản tại Bảo tàng Quảng Ninh theo đúng quy định, tiến hành bảo quản sơ bộ và đề xuất hướng nghiên cứu, xác định giá trị và phát huy trong thời gian tới.
BTQN
Nhà xuất bản: Hồng Đức - 2018
Tổng số trang: 374tr
Kích thước: 14x22 cm
Tâm thức nguyên thủy không tách biệt mà hỗn hợp, coi thế giới vô hình, siêu nhiên và thế giới hữu hình, tự nhiên chỉ là một.
Nội dung cuốn sách gồm 2 phần:
Phần 1: Dẫn luận gồm 4 chương: 1/May rủi và ma thuật; 2/ Điều bất thường, kinh nghiệm thần bí; 3/ Những giấc mơ và những ảo ảnh; 4/ Sự hiện diện của những người chết
Phần 2: Những biểu tượng của người nguyên thủy, gồm 3 chương:
1/Bản chất và những chức năng của các biểu tượng; 2/ Các kiểu hành động mang tính tượng trưng; 3/ Việc dự báo trước tượng trưng.
Xin trân trọng giới thiệu!
Nhà xuất bản: Văn hóa dân tộc - 2018
Tổng số trang: 135tr
Kích thước: 13x20,5cm
Cuốn sách giới thiệu một số di tích khảo cổ học tiêu biểu trên đất nước Việt Nam, đặc biệt là các di tích đã được xếp hạng.
Nhà xuất bản: Phương Đông
Năm xuất bản: 2014
Tổng số trang: 1221tr
Kích thước: 14,5x20,5cm
Cuốn sách gồm 5 chương:
Chương 1: Khái luận về bộ loại kinh điển
Chương 2: 9 phần giáo và 12 phần giáo
Chương 3: Quá trình tập thành tương ứng giáo nguyên thủy
Chương 4: 4 bộ A-Hàm
Chương 5: Tiểu bộ và tạp tạng
Chương 6: Kết luận
Xin trân trọng giới thiệu!
Đây là thông tin được Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo (tỉnh An Giang) công bố vào ngày 17/1/2022.
Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ nổi tiếng ở Nam Bộ - Việt Nam, là nền văn hóa gắn liền với lịch sử của Vương quốc Phù Nam, một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc Việt Nam. Những dấu vết vật chất thuộc nền văn hóa này được các học giả người Pháp phát hiện từ cuối thế kỷ 19. Dấu mốc quan trọng đánh dấu lịch sử phát hiện và nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo là cuộc khai quật khảo cổ tại cánh đồng Óc Eo, dưới chân núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, do Louis Malleret thực hiện vào năm 1944.
Từ sau cuộc khai quật lịch sử này, Malleret chính thức định danh tên gọi là Văn hóa Óc Eo. Kể từ khi đó đến nay, Óc Eo - Ba Thê đã trở thành di chỉ khảo cổ học nổi tiếng không chỉ ở vùng Nam Bộ - Việt Nam mà cả khu vực Đông Nam Á.
Trong nhiều thập kỷ qua, các cuộc khai quật ở đây đã đưa ra ánh sáng khối lượng lớn di tích, di vật minh chứng lịch sử hình thành, phát triển của nền văn hóa Óc Eo, minh chứng Óc Eo - Ba Thê là một trung tâm đô thị lớn, sầm uất và nổi tiếng nhất của Vương quốc Phù Nam. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức thực hiện Đề án "Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (Văn hóa Óc Eo Nam Bộ)".
Mục tiêu quan trọng của Đề án là khai quật, nghiên cứu khảo cổ học khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) và Nền Chùa (Kiên Giang), nhằm làm rõ giá trị của Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ, cung cấp cơ sở khoa học cho công tác qui hoạch, bảo tồn và xây dựng Hồ sơ đề cử UNESCO công nhận Khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê là di sản văn hóa thế giới. Tham gia thực hiện Đề án là 3 đơn vị khoa học hàng đầu về khảo cổ học của Việt Nam: Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu Kinh thành và Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
Sau gần 4 năm thực hiện, Đề án đã hoàn thành và đã thu được nhiều thành tựu khoa học mới rất quan trọng, minh chứng và làm sáng rõ những giá trị nổi bật của khu di tích Óc Eo - Ba Thê trong lịch sử. Đây là một trung tâm dân cư, trung tâm đô thị, trung tâm kinh tế, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo lớn và quan trọng của Vương quốc Phù Nam. Trong đó, Óc Eo đóng vai trò là một "đô thị" hay là một "thành phố ven biển" kết nối với Biển Tây Nam thông qua "cửa ngõ" giao thương là Nền Chùa và các tuyến thủy lộ trong vùng. Ba Thê đóng vai trò là một trung tâm tôn giáo lớn của Vương quốc Phù Nam, và là một cấu trúc chung không thể tách rời của không gian đô thị Óc Eo.
Nhiều loại hình di vật quý có nguồn gốc từ nước ngoài như tiền và Huy chương vàng La Mã, đèn đồng Ba Tư, gương đồng nhà Hán… thu thập được trong các hố khai quật chính thức và không chính thức đã hé lộ những bí ẩn của mạng lưới thương mại hàng hải thời bấy giờ.
Nguyễn Thơ Đình
I. Các dấu tích kiến trúc thời Trần Hồ
Đã phát hiện được nhiều di tích kiến trúc thời Trần Hồ tại các hố khai quật ở khu vực Trung tâm (Nền Vua), khu vực Đông Nam và Tây Nam.
1. Cụm di tích Trung tâm Nền Vua đã phát hiện được 10 kiến trúc, tính từ phía Nam lên Bắc dài 200m, rộng 80m.
(Vị trí Khu vực Trung tâm Thành Nhà Hồ)
Nhận định bước đầu về cụm kiến trúc Trung tâm: với dấu tích nhiều cổng, hành lang bao quanh, nhiều kiến trúc lớn ở phía Bắc kết nối với nhau cho thấy đây có thể là không gian trung tâm, không gian CHÍNH ĐIỆN của Thành Nhà Hồ.
2. Cụm kiến trúc phía Đông Nền Vua
Hiện đang xuất hiện 02 cụm dấu tích kiến trúc nhiều gian phía Bắc và phía Nam.
- Cụm kiến trúc phía Bắc đã xuất lộ kiến trúc nhiều gian, nhiều vì, mỗi vì 2 cột, phạm vi cụm kiến trúc chiều Bắc – Nam là 60m.
- Cụm kiến trúc phía Nam đã xuất lộ kiến trúc nhiều gian, nhiều vì, mỗi vì 2 cột, phạm vi cụm kiến trúc chiều Bắc – Nam là 50m.
3. Cụm kiến trúc phía Tây Nền Vua:
Hiện đang xuất hiện dấu tích kiến trúc nhiều gian và xác định được 01 kiến trúc nhiều gian, nhiều vì, mỗi vì 4 cột.
4. Tổ hợp kiến trúc khu vực Đông Nam
Tổ hợp kiến trúc ở đây đã phát hiện khá đầy đủ các kiến trúc tạm xác định gồm có 06 đơn nguyên: Kiến trúc Chính điện, Tiền điện, Hậu điện, Tả vu, Hữu vu, Hành lang Đông Tây, có thể còn có kiến trúc cổng ở phía trước được bố trí khá cân xứng, hài hòa.
Quy mô của tổ hợp kiến trúc này hiện tại là khoảng: 60m x 80m
II. Các dấu tích kiến trúc thời Lê sơ và Lê Trung Hưng
Ngoài ra cuộc khai quật đã phát hiện 04 dấu tích kiến trúc thời Lê sơ đặc điểm xây bằng gạch vồ, ngói âm dương, kích thước móng cột nhỏ khoảng 0,7mx0,8m, được xây dựng bằng gạch ngói vụn. 02 dấu tích kiến trúc thời Lê Trung Hưng với đặc điểm xây bằng gạch vồ, ngói âm dương, kích thước móng cột trung bình 1,3mx1,4m được xây dựng bằng gạch ngói vụn.
III. Đánh giá giá trị bước đầu
Cuộc khai quật đã bước đàu thu được kết quả hết sức khả quan:
- Đã xác định dấu tích kiến trúc độc đáo, có quy mô lớn vào loại nhất cho đến nay trong lịch sử nghiên cứu kiến trúc cổ truyền Việt Nam ở khu vực Trung tâm Thành Nhà Hồ (hay còn gọi là Nền Vua). Theo sự tính toán ban đầu cộng với địa danh Nền Vua, các nhà khảo cổ học dự đoán đó có thể là dấu tích Chính điện của thành Tây Đô. Nếu đúng như vậy đây là dấu tích Chính điện cổ nhất trong lịch sử Kinh đô Việt Nâm được phát hiện cho tới ngày hôm nay.
- Đã xác định được một tổ hợp kiến trúc hoàn chỉnh được tương truyền đó là Đông Thái Miếu thờ tổ tiên của nhà Hồ. Nếu xác định điều này là chính xác thì đây cũng là một dấu tích Tổ miếu thuộc loại cổ nhất trong lịch sử Kinh đô Việt Nam.
- Cuộc khai quật cũng bộc lộ lòng đất thành Nhà Hồ đang còn tiềm ẩn rất nhiều các di tích tích kiến trúc khác. Tất cả đều được quy hoạch, bố trí hết sức quy củ, bài bản, tòa ngang, dãy dọc, nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều loại hình kiến trúc, vật liệu xây dựng… Điều đó góp phần và làm sâu sắc thêm các giá trị nổi bật toàn cầu đã được Thế giới khẳng định và tôn vinh năm 2011.
Bộ sưu tập nghệ thuật châu Á của bảo tàng được coi là một trong những sản phẩm tốt nhất ở Đông Nam Bộ và bộ sưu tập gốm sứ Việt Nam là một trong những sản phẩm tốt nhất trên thế giới. Một số điểm nổi bật khác của bộ sưu tập thường trực của bảo tàng là bộ sưu tập tranh Koque và Phục hưng, nghệ thuật trang trí và điêu khắc, nghệ thuật trang trí châu Âu thế kỷ 18 và bộ sưu tập Wedgwood nổi tiếng thế giới.
Bảo tàng Nghệ thuật Birmingham bắt đầu sưu tập các hiện vật gốm Việt Nam từ những năm 1970 để có được bộ sưu tập lớn nhất về gốm Việt Nam phục vụ cho nhu cầu tham quan và nghiên cứu của các đối tượng khác nhau, từ trẻ em đến trường cho đến các nhà sưu tập nghệ thuật và các nhà tài trợ. Trong số những hiện vật gốm Việt Nam tại Bảo tàng Birmingham, chúng tôi đặc biệt xin giới thiệu một số hiện vật gốm với biểu tượng của nghệ thuật Phật giáo. Đó là hoa sen (lotus).
Phật giáo là một tôn giáo ở Việt Nam. Hoa sen, mọc trong nước và hoa nở ra khỏi bùn, tượng trưng cho sự thuần khiết của Phật giáo ở Nam, Đông và Đông Nam Á. Hoa sen hoặc cánh hoa - được đúc, khía, chạm khắc - là một hình thức trang trí gốm sứ cực kỳ phổ biến, và đài sen là trung tâm của một chiếc bát tráng men nâu, một họa tiết hoa sen trang trí bất kỳ mảnh gốm nào cho thấy rằng nó đã được sử dụng trong một ngôi chùa hoặc tu viện.
(Nguồn: John Stevenson and et al)
(Đặng Hồng Sơn và nnk)
Mộ M1 có mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật, chia thành 2 gian tiền thất và hậu thất. Mộ M2 có mặt bằng hình chữ nhật, chia thành ba gian tiền thất, trung thất và hậu thất. Gạch xây mộ gồm gạch bìa và gạch múi bưởi, có trang trí hoa văn ở một cạnh với các mô típ: chữ S, ô trám đơn, ô trám lồng, xương cá, hình tiền đồng… Di vật thu được gồm đồ đồng, đồ gốm men và đồ sành mang đặc trưng của thời Đông Hán. Kết quả khai quật xác định 2 ngôi mộ Gia Thủy có niên đại thế kỷ I-II. Nghiên cứu mộ gạch Gia thủy góp phần làm rõ giá trị lịch sử văn hóa của vùng đất Ninh Bình trong khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên, là minh chứng rõ ràng cho biết vùng đất Ninh Bình có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với chính quyền phong kiến phương bắc. Đồng thời, nhóm đồ tùy táng ở hai ngôi mộ là nguồn tư liệu quý góp phần nghiên cứu đời sống xã hội của tầng lớp quan lại phong kiến đương thời cũng như về phong tục, lễ tiết thờ cúng người đã chết.
(Nguyễn Ngọc Quý và nnk)