Sách mới: Sách (23/08/2010)

 

 

Cơ quan soạn thảo: Nxb Thế Giới

Kích thước: 22x 26cm.

Hình thức bìa:

Năm xuất bản: 1992

Số trang: 536

Điểm nổi bật của lần xuất bản này là chùa trong cả nước đã được phủ kín trong cuốn sách, đặc biệt thêm hai dạng chùa mới hiếm thấy xuất hiện là: chùa miền núi và chùa miền hải đảo.

 Điểm nổi bật của lần xuất bản này là chùa trong cả nước đã được phủ kín trong cuốn sách, đặc biệt thêm hai dạng chùa mới hiếm thấy xuất hiện là: chùa miền núi và chùa miền hải đảo.


Kính mừng Đại lễ ngàn năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị  thượng đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Việt Nam, Nhà  xuất bản Thế giới vừa phát hành cuốn Chùa Việt Nam của các tác giả: Hà Văn Tấn – Nguyễn Văn Kự – Phạm Ngọc Long. Biên tập: Lê Văn Lan – Nguyễn Duy Chiếm. Chỉ trong một năm sách sau lần in trước, sách đã được tái bản lần thứ tư với nhiều chỉnh lý bổ sung, khổ sách 22x26cm, dày 536 trang với trên 1000 bức ảnh, bản vẽ, bản đồ. 


Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên. Trong khoảng thời gian đó, các ngôi chùa đã dần mọc lên. Những ngôi chùa cổ nhất ở Việt Nam đã xuất hiện ở những thế kỷ đầu Công nguyên – hai nghìn năm trước. Chùa là trung tâm tâm linh của cộng đồng làng xã Việt Nam, là nơi hội tụ những sinh hoạt văn hóa lễ hội ở các vùng miền đất nước, đồng thời cũng là nơi tinh kết các giá trị kiến trúc nghệ thuật dân gian. Qua lịch sử, ta thấy rõ là ở mỗi thời kỳ, các ngôi chùa, ngọn tháp đều có một kiểu dáng riêng biệt. Bao giờ cái truyền thống cũng gắn liền với cái cách tân. Ngoài chùa của người Kinh, còn có chùa của một số dân tộc anh em khác ở Việt Nam, như chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản, chùa của người Khmer được xây dựng đẹp với bộ mái mang ảnh hưởng của chùa Cămpuchia và chùa Thái Lan. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.


Phần mở đầu sách là bài dẫn luận nghiên cứu công phu của Giáo sư Hà Văn Tấn giúp cho người đọc có thể nắm bắt về toàn cảnh các ngôi chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, và trong đời sống văn hóa dân tộc. Tác giả đã làm rõ những đặc điểm Phật giáo và văn hóa tâm linh của dân tộc được thể hiện ở các ngôi chùa Việt Nam như thế nào. GS Hà Văn Tấn viết: “Khảo sát những ngôi chùa đó, chúng ta không những thấy được đặc điểm của Phật giáo Việt Nam, đặc điểm của tôn giáo và tín ngưỡng Việt Nam mà còn giúp chúng ta hiểu được một mặt quan trọng của lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt Nam” …


Phần tiếp theo, các tác giả đưa bạn đọc đến với 118 ngôi chùa tiêu biểu trên khắp mọi miền đất nước qua các thời kỳ: Từ đầu Công nguyên, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Nguyễn đến những ngôi chùa mới phục dựng gần đây như chùa Non (Hà Nội), chùa đang trong giai đoạn hoàn thiện như chùa Bái Đính (Ninh Bình), chùa Thanh Long (Bình Phước)... Các chùa được sắp xếp từ sớm đến muộn, từ Bắc vào Nam. Mỗi ngôi chùa đều có bài và ảnh về lịch sử hình thành, phát triển, về kiến trúc, cảnh quan, nội thất, tượng Phật, đồ thờ…

Với trên 1000 bức ảnh nghệ thuật rất đẹp của các tác giả: Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long, với sự cộng tác của các tác giả khác, đặc biệt là ảnh của Đại đức Thích Minh Hiền, trụ trì chùa Hương Tích Hà Nội, đưa bạn đọc đến những “ngôi chùa đang sống thật sự giữa các cộng đồng làng xã Việt Nam”


Mở đầu sách là chùa Dâu, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đất này, xưa kia gọi là Luy Lâu. Đó là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Rồi đến những chùa cổ ở bắc sông Đuống (Bắc Ninh): Chùa Tiêu Sơn, Chùa Phật Tích, Chùa Dạm. chùa cổ ở Đại La (Hà Nội): Chùa Trấn Quốc, chùa Kiến Sơ, Chùa Một Cột, chùa Kim Liên, chùa Lý Quốc Sư, chùa Tảo Sách,… Ở vùng Tây Bắc, tỉnh Hòa Bình có chùa Thông huyện Kim Bôi, xây dựng từ đời Trần. Chùa Khánh huyện Cao Phong của người Mường không thờ Phật mà thờ đá. Đó là những tảng đá thiêng, tự nhiên, hình giống người, được cuốn vải đỏ để hở đầu mà theo đồng bào thì đó là Ngọc Hoàng, vợ ông và hai con gái của ông bà được đặt lên những chiếc ngai thờ. Tỉnh Sơn La có chùa Chiền Viện ở huyện Mộc Châu, xây dựng từ thế kỷ XVIII, bị đổ nát năm 1947. Ở đây có nhiều tượng Phật và mang phong cách tượng Lào. Chùa ở Miền Trung với chùa Thiên Mụ, chùa Từ Đàm (ở Huế). Chùa ở các tỉnh Tây Nguyên, chùa ở đảo Lý Sơn, đảo Phú Quốc, chùa Việt, chùa Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, chùa Khmer Nam Bộ... Mỗi ngôi chùa đều có một sắc thái riêng. Phật giáo Việt Nam có lúc thịnh lúc suy, nhưng cho đến nay ngôi chùa vẫn có một vị trí quan trọng trong hoạt động văn hóa của người Việt Nam.


Phần cuối cung cấp cho bạn đọc một danh sách để dễ dàng tra cứu 730 ngôi chùa được Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa (tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009).


Nhận xét về công trình này TS Nguyễn Việt (Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á) viết:
“Cuốn sách “Chùa Việt Nam” ở lần tái bản thứ tư này đã tạo ra một công trình đồ sộ về Phật giáo và kiến trúc Phật giáo Việt Nam, với hơn 500 trang in và hàng ngàn ảnh chất lượng cao. Đây không chỉ là cuốn sách tôn giáo thuần túy dành cho tăng ni, phật tử hay những người mến mộ đạo Phật, mà còn là sách đầu tay cho nhiều đối tượng độc giả khác nữa, từ nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo đến những người yêu mến kiến trúc lịch sử, yêu mến mỹ thuật cổ truyền, giáo viên, sinh viên, học sinh,…Để có một công trình tuyệt vời này,các tác giả đều là những người đã từng lăn lộn gần như cả đời người với chuyên nghành khảo cổ học và đã vượt qua ngưỡng “thất thập”, đã đầu tư một lượng công sức và tiền của rất lớn vào cuộc điền dã đến các chùa ở miền Tây Bắc, Miền Nam Trung Bộ, đồng bằng Nam Bộ, Tây Nguyên,… trong nhiều năm tháng …”.


                                                                                    Ban Biên Tập

 

 

                              Sách “Chùa Việt Nam” tái bản lần thứ 4 -

           Cuộc “hành hương qua 118 ngôi chùa cả nước                                                                                    

                                                                     TS.Nguyễn Việt
                                                                     (Trung tâm Tiền Sử Đông Nam Á)

Trong gian trưng bày đầu tiên của Bảo tàng Khảo cổ học mang tên Giáo sư Viện sĩ Phạm Huy Thông của Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, các bạn dễ dàng nhận ra phần giới thiệu các “Bản thảo công trình khảo cổ học”. Đó là một bàn hộp màu trắng sắp đặt một số hiếm hoi những bản thảo chuyên ngành mà cán bộ bảo tàng này cất công sưu tầm từ gần chục năm nay. Trong đó, chiếm vị trí trang trọng là công trình “ CHÙA VIỆT NAM” của ba tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự và Phạm Ngọc Long. Đây có lẽ là một trong rất ít công trình sách khảo cổ học được tái bản nhiều lần đến như vậy. Bản thảo cuối cùng được trưng bày ở đây là bản thảo dành cho lần tái bản thứ tư do Nxb Thế giới ấn hành, vừa nhận được từ nhóm tác giả vào ngày 5-6-2010, ngày “Môi trường thế giới” , cạnh đó còn các bản thảo lần thứ hai, thứ ba. Và hôm nay, tôi nhận được thông tin từ Ban biên tập :” Sách mới đã chính thức phát hành, rất đẹp, rất dày dặn, trang trọng, in và trình bày đẹp”.

Tôi có may mắn quen biết cả ba tác giả và cũng được đọc “Chùa Việt Nam” từ lần ra mắt đầu tiên, năm 1993 do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành. Các tác giả đều là những người đã từng lăn lộn gần như cả đời người với chuyên ngành khảo cổ học mà số tuổi đời của cả ba cộng lại cũng vượt quá con số 200 năm. Họ đều là những ngòi bút đã vượt qua hoặc vừa bước tới ngưỡng “thất thập”. Giáo sư Hà Văn Tấn vốn là một tên tuổi đã quá quen biết với chúng ta. Ngoài chức danh giáo sư khảo cổ từ khi vừa qua tuổi 40, ông còn làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam gần 20 năm trời (1988 – 2006) và ít người biết rằng ông còn đảm nhiệm công việc của một Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội. Nguyễn Văn Kự bắt đầu những nhát cuốc khảo cổ đầu tiên khi còn rất trẻ, với tư cách thành viên của Đội Khảo cổ học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Là một cử nhân chuyên ngành khảo cổ, ông đã chuyển tải những góc nhìn chuyên môn rất sâu sắc và sống động vào ống kính nhiếp ảnh của mình. Nguyễn Văn Kự còn là tác giả Di sản văn hoá Chăm, đồng tác giả của nhiều chuyên khảo di tích văn hoá rất nổi tiếng, như Điêu khắc Chăm, Đình Việt Nam, Nhà mồ Tây Nguyên, Nhà Rông Tây Nguyên, Người Xơ Đăng ở Việt Nam, Du khảo văn hoá Chăm,…. Và hiện đang sở hữu hàng vạn bức ảnh tư liệu nghệ thuật lịch sử có giá trị. Cùng với nhiếp ảnh gia đã quá cố Phạm Ngọc Long, cũng là đồng tác giả Điêu Khắc Chăm ,Chùa Việt Nam, Du khảo Văn hóa Chăm, ông cũng là người say mê ống kính nhiếp ảnh từ khá sớm. Đặc biệt các tác giả đều là những người làm việc rất cần cù, nghiêm túc và mộ đạo. Họ đã hiến dâng toàn bộ trí tuệ, công sức và cả tiền của cá nhân để tạo nên tác phẩm có giá trị lớn lao này.


Công trình “Chùa Việt Nam” ra mắt lần này là sự tiếp nối mạch đề tài đày hấp dẫn ở một quy mô lớn hơn nhiều lần. Nếu như ở lần in thứ nhất năm 1993 (bằng hai thứ tiếng Việt, Anh),


“Chùa Việt Nam” chỉ giới thiệu được 42 ngôi chùa trên 19 tỉnh (chủ yếu ở đồng bằng bắc bộ và bắc trung bộ), lần in thứ hai bằng tiếng Anh ở NXB Thế giới năm 2008, các tác giả đã bổ sung lên 53 chùa. Đặc biệt lần ra mắt sau đó một năm, năm 2009, tức lần xuất bản thứ 3 cũng do NXB Thế giới, số chùa được khảo cứu, giới thiệu đã gần gấp đôi, với 99 chùa của 51 tỉnh thành. Để có một bứt phá như vậy, nhóm tác giả đầu bạc này đã đầu tư một lượng công sức và tiền của rất lớn vào công cuộc điền dã các chùa miền nam Trung Bộ, đồng bằng Nam Bộ, Tây Nguyên …trong nhiều tháng ròng. Không dừng lại ở đó, nhận thấy “Chùa Việt Nam” còn thiếu vắng ở một số tỉnh miền núi, hải đảo, nhóm tác giả lại quyết tâm đi điền dã, lấy tư liệu để “phủ kín” phạm vi khảo cứu trên toàn bộ lãnh thổ đất nước. Kết quả đã tiếp tục phát hiện, bổ sung thêm ở lần xuất bản thứ tư này 19 ngôi chùa hiếm hoi và hẻo lánh nữa, đưa con số chùa Việt Nam được khảo cứu lên con số 118 ngôi của 61 tỉnh thành (còn hai tỉnh Điện Biên và Lai Châu chưa phát hiện được chùa). Đó chính là một bước tiến vượt bậc so với ba lần xuất bản trước. Các tác giả đã gắng bao quát được kiến trúc Phật giáo ở phạm vi toàn quốc, cập nhật tư liệu phát hiện mới nhất cho đến tận vào hè năm 2010.


Với ý thức luôn cập nhật thông tin và miệt mài bổ sung, sửa chữa như vậy, nhóm tác giả dù cao niên vẫn luôn mang đến nhiều điều mới mẻ, trẻ trung cho cả những độc giả khó tính nhất. Sách Chùa Việt Nam ở lần tái bản này vẫn giữ vững tư thế một công trình khoa học chững chạc với phần mở đầu khảo cứu rất uyên bác, chuyên sâu về lịch trình Phật pháp và kiến trúc Phật giáo. Tuy sách mang giá trị nghiên cứu cao, nhưng nhờ cách trình bày sáng sủa, đặc biệt có nhiều hình ảnh chất lượng cao của chính nhóm tác giả có tay nghề và điều kiện lăn lộn trên mọi nẻo đường tổ quốc và trên nhiều công trường khai quật khảo cổ học từ bốn chục năm nay, đã khiến người đọc không bị cảm giác khô khan nhàm chán, dường như luôn thấy mình trong những cảnh chùa thân quen gần gũi đó. 118 ngôi chùa trong sách được trình bày từ “vùng lõi” Phật giáo Việt Nam (Bắc Ninh, Hà Nội) mở ra xung quanh các tỉnh miền bắc rồi đi vào miền trung đến tận mũi Cà Mau. Ở mỗi ngôi chùa, người đọc dễ dàng tìm thấy vị trí địa lý, lịch sử xây dựng chùa, gốc tích thờ Phật, phân bố và ý nghĩa của các tượng thờ, bia ký, câu đối bên trong cũng như niên đại, giá trị của các tác phẩm nghệ thuật khác trong chùa. Đó không phải chỉ là những mô tả khô khan mang tính liệt kê, mà thực sự là những chỉ dẫn sinh động, sắc gọn,  kèm theo nhiều hình ảnh chi tiết, sinh động.  Để giúp độc giả dễ tra cứu, các tác giả đã rất công phu sưu tầm các bình đồ chung nhất bố trí tượng Phật trong chùa, xây dựng phụ lục tra cứu chùa theo tên tỉnh thành cũng như theo danh mục xếp hạng quốc gia của Bộ Văn hoá, Thể Thao và Du Lịch. “Chùa Việt Nam” vì thế không phải chỉ là cuốn sách tôn giáo thuần tuý dành cho tăng ni phật tử hay những người mến mộ đạo Phật, mà còn là sách đầu tay cho nhiều đối tượng độc giả khác nữa, từ nhà nghiên cứu văn hoá, tôn giáo đến những người yêu mến kiến trúc lịch sử, yêu mến mỹ thuật cổ truyền, giáo viên, sinh viên, học sinh…


Cùng với những công trình mang tính chuyên khảo khác như Đình Việt Nam, Nhà rông Tây Nguyên, Nhà Mồ Tây Nguyên, Điêu khắc Chăm, Du khảo văn hoá Chăm… cuốn sách Chùa Việt Nam mang lại cho người đọc nhiều tư liệu và thông tin có giá trị để hiểu rõ hơn về tâm hồn nghệ thuật kiến trúc tôn giáo đa dạng của các dân tộc trong bề dày lịch sử dân tộc. Cuốn sách “Chùa Việt Nam” ở lần tái bản thứ tư này đã tạo ra một công trình đồ sộ về Phật giáo và kiến trúc Phật giáo Việt Nam, với hơn 500 trang in và hàng ngàn hình ảnh chất lượng cao.

 

Sách Chùa Việt Nam tái bản lần thứ 4

Món quà quý đối với công chúng yêu mến di sản văn hóa Việt Nam

PGS.TS. Tống Trung Tín- Viện khảo cổ học

(Viện khoa học xã hội Việt Nam)

Năm 2010, sách Chùa Việt Nam, in lần thứ tư là món quà quý đối với công chúng yêu mến di sản văn hoá Việt Nam nói chung, giới nghiên cứu chùa Việt Nam nói riêng mà cụ thể ở đây là các ngôi chùa Việt Nam. Đó là chưa kể đến một số lần sách này đã bị “đạo” sách mà tôi từng được nghe. Về phương diện bản quyền tác giả thì đó là chuyện buồn cho các tác giả, nhưng về phương diện phổ cập kiến thức thì âu cũng là một niềm vui, cho dù đó là một niềm vui bất đắc dĩ, niềm vui an ủi. Sách không có giá trị, không hấp dẫn, thì ai người ta “đạo”. Sao chăng nữa, tôi thiển nghĩ rằng: Sách khoa học mà được tái bản nhiều lần và được bạn đọc yêu mến như vậy có thể coi là một hiện tượng trong kho tàng ấn phẩm Khoa học xã hội Việt Nam.

 Sách có kết cấu 2 phần:

Phần 1: là phần khái quát về lịch sử chùa Việt Nam.

Phần 2: là phần giới thiệu những ngôi chùa tiêu biểu ở Việt Nam và ảnh minh hoạ. Hai phần này bổ sung cho nhau một cách hài hoà, cân xứng tạo nên một tác phẩm khoa học và phổ cập khoa học vừa súc tích, vừa quy mô, vừa chuyên sâu, vừa dễ hiểu.

Phần I của Chùa Việt Nam do GS. Hà Văn Tấn – Nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đảm nhận là một bài tổng luận nghiên cứu tuyệt vời gồm 3 phần nhỏ:

 - Phần “Chùa Việt Nam: một cái nhìn chung”: trình bày các kiến thức chung quanh ngôi chùa Việt Nam: từ khái niệm về chùa đến công việc xây chùa, từ việc chọn đất xây chùa đến các kiểu chùa và cách bài trí tượng thờ trong chùa.

 - Phần “Chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”: giải quyết diễn biến của một ngôi chùa Việt Nam theo niên đại. Theo đó, chùa Việt Nam từ lúc khởi đầu từ đầu Công nguyên vốn hãy còn là các giả thiết đến dấu tích tháp Nhạn (Nghệ An) thế kỷ 7 - 9, từ các cột kinh Phật thế kỷ 10 ở Hoa Lư cho đến tình hình xây dựng chùa tháp thời Lý, thời Trần, thời Mạc, thời Trung hưng, từ các ngôi chùa ở phía Bắc cho đến các ngôi chùa ở Trung Bộ, Nam Bộ.

- Phần “Chùa Việt Nam trong đời sống văn hoá cộng đồng” trình bày vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hoá Việt Nam, trong đó mỗi ngôi chùa cổ vừa là một bảo tàng lắng đọng quá khứ, một bảo tàng sống khi nó vẫn hàng ngày tham gia vào đời sống văn hoá cộng đồng, khi mà chùa chiền là nơi siêu độ cho các linh hồn, nơi tiến hành các nghi lễ gắn bó chặt chẽ với việc cầu mưa, nơi diễn ra các lễ hội, các nghi lễ cổ truyền.

Ba phần viết có kết cấu lôgích, chặt chẽ, rõ ràng thể hiện rõ một trình độ học thuật rất cao, một tài năng trác việt khiến người đọc có thể nắm bắt rất nhanh nhiều tri thức cũng như các bước đi quanh ngôi chùa Việt Nam. Vì là dạng sách phổ cập kết quả nghiên cứu khoa học nên tác giả viết đã viết với văn phong hết sức sáng sủa, dễ đọc, dễ hiểu. Và mặc dù chủ yếu là một dạng phổ cập kiến thức nhưng bài viết vẫn hàm chứa chất nội dung khoa học rất cao. Chỉ một đoạn mở đầu ngắn thôi, tác giả đã chỉ ra các biến diễn phong phú, phức tạp của ngôi chùa xoay quanh chỉ độc có từ “Chùa” mà nguồn gốc thực ra đến nay vẫn chưa được làm rõ. Và, cũng chỉ có thế thôi, nếu ai đó mẫn cảm nghề nghiệp một chút sẽ thấy điều đó hé mở một điều là quanh ngôi chùa Việt Nam vẫn còn biết bao các bí ẩn kỳ thú cần được tiếp tục đi sâu khám phá.

Lần lượt như vậy, GS. Hà Văn Tấn tuần tự giải quyết các vấn đề từ giản đơn đến phức tạp, từ các vấn đề dễ hiểu đến các vấn đề rắc rối liên quan ngôi chùa phật Việt Nam bằng khối lượng kiến thức uyên bác. Tôi rất phục việc ông chưa đến chùa Lấm thời Trần ở Quảng Ninh, và chỉ đọc tài liệu của người khai quật nhưng ông đã có các xét đoán chức năng các kiến trúc ở đây rất xác đáng. Ngoài các kiến thức chuyên sâu, thỉnh thoảng tác giả lại hé lộ những chi tiết thật nhỏ nhưng cũng thật bất ngờ mà hết sức thú vị như bi ký chùa Non Nước (Ninh Bình) cho biết chùa ở đây có “bệnh điền” để minh họa cho chùa Việt một chức năng vô cùng quan trọng, nơi trồng thuốc chữa bệnh cho dân. Đọc bia chùa Đông Môn (Hà Nội), tác giả phát hiện ra chi tiết ở Việt Nam có chùa tư (tư tự) để làm rõ thêm tính đa dạng của chùa Phật thế kỷ 17. Những điều này tôi mới chỉ thấy được đề cập ở công trình này.

Những trang viết dung dị về chùa Việt Nam trong đời sống cộng đồng đã gợi lên một không khí lễ hội Phật giáo vô cùng sống động gắn bó chặt chẽ với các làng quê Việt Nam. Người đọc sẽ hiểu và yêu mến ngôi chùa Việt Nam biết bao thì hiểu thêm các giá trị văn hóa phi vật thể ngàn đời gần gũi và thân thương qua phần viết này. Trên hết từ những ngôi chùa Việt Nam, GS. Hà Văn Tấn, và hiển nhiên là cả hai tác giả đồng hành là Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long còn nhận thấy những ngôi chùa Phật Việt Nam phản ánh sự sáng tạo của văn hoá bản địa trên cơ sở sự tiếp biến văn hoá có lợi để làm phong phú thêm các giá trị của văn hoá Việt Nam.

Viết về chùa Việt Nam nói chung, tôi chưa thấy có tài liệu nào viết hay và hấp dẫn như phần viết trong cuốn Chùa Việt Nam. Tôi đã thấy khắp nơi, các nhà nghiên cứu của Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo, các bài giảng Đại học, các sinh viên Đại học và nghiên cứu sinh các cơ sở đào tạo sau Đại học đều tham khảo và trích dẫn ít nhiều từ phần viết của cuốn sách này.

Phần 2: Chùa Việt Nam giới thiệu 118 ngôi chùa tiêu biểu ở Việt Nam qua các thời kỳ ở mọi vùng miền khác nhau.

Mỗi một ngôi chùa có một phần viết tóm tắt lịch sử chùa. Kèm theo đó là các bản ảnh minh hoạ đẹp về di tích và di vật. Các bức ảnh này được tiến hành kiên trì trong nhiều năm ở mọi vùng miền của Tổ quốc là một kỳ công của hai nhà nhiếp ảnh khảo cổ Nguyễn Văn Kự và Phạm Ngọc Long. Nhiều di tích các ông phải đi lại rất nhiều lần, nhiều bức ảnh cũng được chụp đi chụp lại nhiều lần. ảnh của hai ông rất đẹp với nhiều góc độ khác nhau, khi thì toàn cảnh di tích khá hoành tráng, khi cận cảnh từng pho tượng, từng di vật hay bất ngờ là một thành phần trang trí nào đó trong từng ngôi chùa. Xem lịch sử các ngôi chùa với những bức ảnh đẹp này, công chúng nói chung như được tham quan một chuyến du lịch nhanh mà có thể thâu tóm được khá đủ thần thái cơ bản của mỗi ngôi chùa mà các tác giả cần chuyển tải, nhà nghiên cứu chuyên sâu cũng có thể thu được rất nhiều các minh hoạ quý mà trong điều kiện hiện nay không phải lúc nào cũng sẵn có trong tay.

Các tác giả còn cố gắng sưu tầm được thêm một số bản vẽ minh hoạ, sơ đồ làm phong phú thêm cho sách.

Tóm lại Chùa Việt Nam là một công trình khoa học phổ cập kiến thức chùa Việt Nam đạt trình độ cao. Nó vừa khoa học, vừa hấp dẫn, vừa trí tuệ, vừa công phu.

Trước và sau cuốn Chùa Việt Nam cũng có một số công trình về chùa Việt Nam hoặc dưới dạng phổ cập toàn bộ, hoặc dưới dạng chuyên sâu chi tiết, nhưng sách dưới dạng vừa khoa học và phổ cập kiến thức tôi thấy khó có công trình nào thú vị, hấp dẫn như sách Chùa Việt Nam. Đó là cuốn sách mà các nhà nghiên cứu Phật giáo nói chung, các nhà nghiên cứu nghệ thuật Phật giáo nói riêng hẳn sẽ phải mở đi mở lại nhiều lần tựa như một loại sách tham khảo “gối đầu giường” vậy.

Hiểu các giá trị văn hóa vô giá qua các ngôi chùa mà cha ông ta đã để lại. Chùa Việt Nam không quên nhắc nhở các thế hệ con cháu cần cố gắng bảo tồn vốn quý đó trong thời kỳ hội nhập đừng để cho nó hòa tan mất bản sắc dân tộc, một bài học chưa bao giờ cũ trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam. Hiểu và thực hiện được điều đó chúng ta ngày càng thấy không hề dễ dàng chút nào cả trong bối cảnh trùng tu, tôn tạo và xây mới xô bồ như hiện nay.

Khi viết xong, tôi đưa bài viết cho một bạn nghề xem và xin nhận xét. Bạn nói: anh không thấy” Chùa Việt Nam” có “gợn” gì à? Tôi nói: yêu cầu của một nhà nghiên cứu thì vô cùng. ở đây tôi chỉ đánh giá trên phương diện đây là loại sách vừa khoa học, vừa phổ cập khoa học thì như thế là rất tuyệt.

Hiển nhiên tôi cũng tiếc là thiếu chùa Keo (Hành Thiện - Nam Định). Đấy là một trong ba ngôi chùa lớn nhất còn lại của Việt Nam (Keo Thái Bình, Keo Nam Định và Keo Bút Tháp) tiêu biểu cho những ngôi chùa lớn của Việt Nam.

Nếu có lần xuất bản thứ 5, tôi tin chắc ông Nguyễn Văn Kự sẽ bổ sung cho sự thiếu hụt này.

Chắc chắn đây là cuốn sách có sức sống lâu bền trong đời sống khoa học cũng như đời sống tinh thần của những bạn đọc yêu mến văn hóa dân tộc. Chắc chắn đây là cuốn sách có sức sống lâu bền trong đời sống khoa học cũng như đời sống tinh thần của những bạn đọc yêu mến văn hóa dân tộc.

Chùa Việt Nam. Giá sách: 496.000đ/cuốn. Chuyển đến tận nhà miễn phí
Mời quý khách mua sách tại: Ô. Nguyễn Văn Cự, Số 8A, ngách 17, ngõ 378, Đường
Lê Duẩn, Hà Nội. ĐT: 04.38521820. M: 0903265331. Email:
nguyenvanku@gmail.comĐịa chỉ email này đã được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. .

Một số hình ảnh minh họa

                                                                     Nguồn: Sách chùa Việt Nam

 

Chùa Dâu, Bắc Ninh

 

 

Chùa Bửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh

 

 

Chùa Khleang

 

Tượng Phật nghìn tay nghìn mắt, chùa Bút Tháp, Bắc Ninh

 

 

Tìm thấy mảnh khắc bộ luật cổ nhất trên thế giới

 

 

Các nhà khảo cổ học Israel ngày 26/7 cho biết vừa tìm thấy một mảnh đất sét trên đó khắc một bộ luật cổ xưa cách đây 3.700 năm.

Tìm thấy mảnh khắc bộ luật cổ nhất trên thế giới

Bộ luật trên giống với Bộ luật Hammurabi - bộ luật thành văn cổ nhất trên thế giới.

Trưởng đoàn khảo cổ học, tiến sỹ Amnon Ben-Tor thuộc trường Đại học tổng hợp Hebrew, tuyên bố, đây là lần đầu tiên một mảnh đất sét trên đó khắc một bộ luật được phát hiện tại thành phố cổ Hazor, phía Bắc Israel.

Ông Ben-Tor cho biết, mảnh đất sét tìm thấy có chiều dài khoảng 2cm và rộng 1,5cm, trên đó có các ký tự được cho là thuộc hệ ngôn ngữ cổ xưa của người Akkadian.

Bộ luật Hammurabi ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên của vị vua đã ban hành bộ luật, vua Babylon thứ sáu. Đây là bộ luật thành văn cổ xưa nhất của nhân loại và là một trong những thành tựu có giá trị bậc nhất của lịch sử văn minh cổ đại.

Giá trị của Bộ luật này cho đến nay vẫn tiếp tục được nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu, khai thác và kế thừa. Bộ luật được xây dựng rất công phu, điều chỉnh và phản ánh một cách sinh động các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của vương quốc Babylon.

Bộ luật không chỉ có giá trị về nghiên cứu pháp lý mà còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú, quý giá để nghiên cứu nền văn hóa Babylon-Lưỡng Hà cổ đại.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện hóa thạch loài chuột lớn nhất thế giới

 

 

Các nhà khảo cổ của Australia vừa phát hiện hóa thạch của loài chuột cổ có kích thước lớn nhất thế giới từ trước đến nay.

Phát hiện hóa thạch loài chuột lớn nhất thế giới

Theo ước tính, chúng có thể nặng tới 6kg, gấp ba lần trọng lượng của loài chuột to nhất đang có mặt trên Trái Đất.

Theo mạng tin tức Trung Quốc, hóa thạch trên được đoàn công tác của Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Thịnh vượng chung (CSIRO) của Australia tìm thấy trong một hang động tại Timor Leste, một quốc gia tại khu vực Đông Nam Á.

Tại hang động trên, các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu tích của 12 chủng loại chuột khác chưa có tên trong danh sách khoa học, trong đó tám loài có trọng lượng trên 1kg và vẫn tồn tại cách thời đại của chúng ta chỉ khoảng từ 1000-2000 năm trước.

Tiến sỹ Ken Aplin, thành viên đoàn khảo cổ cho biết phát hiện trên cho thấy Timor Leste mặc dù chỉ là một hòn đảo nhỏ, nhưng nơi đây khoảng 5 triệu năm trước chính là vương quốc của loài chuột.

Các nhà khoa học hy vọng hóa thạch cổ về loài chuột lớn ăn cỏ vừa được tìm thấy sẽ có thêm cơ sở để chứng minh chúng không hề bị tuyệt chủng.


 

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện hầm mộ vua người Maya

 

 

Nhóm các nhà khảo cổ học thuộc đại học Brown dưới sự lãnh đạo của Stephen Houston đã phát hiện một hầm mộ của vị vua người Maya cổ xưa.

Phát hiện hầm mộ vua người Maya

Hầm mộ trong tình trạng bảo quản khá tốt, trong chứa nhiều vật điêu khắc (ảnh), đồ gốm, sợi dệt và xương của 8 đứa trẻ mà người ta cho rằng đã bị hiến tế. Niên đại của ngôi mộ được xác định là vào năm 350-400. Vị trí của nó thấp hơn so với kim tự tháp El Diablo gần thành phố El Zotz, Guatemala.

Stephen Houston cho biết, trước khi phát hiện ngôi mộ nhóm của ông đã cảm nhận điều gì đó khác thường. Trước đó, người ta thấy có một đền thờ nhỏ với những sắc màu rực rỡ đặc trưng cho thần mặt trời theo tín ngưỡng Maya. Khi khoan thăm dò vào ngôi đền, lập tức thấy hàng loạt hiện vật đáng giá.  Đó là những cái chén màu đỏ máu chứa bên trong xương các ngón tay và răng người. Nhóm khảo cổ đã đào xuyên qua các lớp đá xen kẽ với bùn đất mới đến được trung tâm ngôi mộ.

Quá trình khảo cứu cho thấy có xương của người lớn và những đứa trẻ. Qua những ký tự tượng hình, các nhà khảo cổ cho rằng có bằng chứng đó là mộ của một vị vua.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện bản sao bằng gỗ của vòng đá Stonehenge

 

 

Các nhà khảo cổ Anh cho hay họ đã phát hiện một vòng tròn cổ đại bằng gỗ giống vòng tròn đá Stonehenge ngay chính tại công trình thời kỳ đồ đồng nổi tiếng thế giới ở Wiltshire, miền nam nước Anh.

Phát hiện bản sao bằng gỗ của vòng đá Stonehenge

Phát hiện trên được giới khảo cổ Anh coi là phát hiện thú vị nhất tại di tích Stonehenge trong 50 năm qua.

Một rãnh sâu hình tròn bao quanh một vòng tròn nhỏ hơn - tạo nên từ những chiếc hố rộng khoảng 1m - đã được phát hiện tại Stonehenge. Các nhà khảo cổ tin rằng những chiếc hố này xưa kia là vị trí của các cột trụ bằng gỗ.

Vòng tròn mới - thuộc thời đồ đồng và đồ đá mới - được tìm thấy cách bãi đá Stonehenge chỉ 900m. Công trình này được cho là được xây dựng vào thời kỳ Stonehenge hoàn thành - khoảng 4.500 năm về trước.

Vòng tròn gỗ có 2 lối vào ở mặt phía tây nam và đông bắc và bao quanh một ngôi mộ cổ, được tin là xuất hiện sau đó rất lâu. Các dữ liệu từ hiện trường đang được thu thập nhằm phác thảo một bức tranh ảo về diện mạo khu vực vào thời điểm Stonehenge được xây dựng.

Các nhà khoa học ngày này vẫn tranh cãi về chuyện vì sao bãi đá Stonehenge được xây dựng, nhưng nhiều chuyên gia tin rằng nơi đó từng được sử dụng như một nghĩa địa trong khoảng 500 năm.

Năm ngoái, một chuyên gia người Anh cho rằng Stonehenge đã được sử dụng làm "vũ trường" để nghe "loại nhạc ma thuật" làm thôi miên người nghe.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện tháp Chăm cổ ở Bình Thuận

 

 

Hôm qua 25.7, Bảo tàng Bình Thuận cho biết, đã tiến hành khai quật một tháp Chăm cổ, được phát hiện cách núi Ông của xã Bình Tân, huyện Bắc Bình khoảng 2 km (ảnh).

Phát hiện tháp Chăm cổ ở Bình Thuận

Theo thạc sĩ Nguyễn Xuân Lý - Giám đốc Bảo tàng Bình Thuận, đây là một tháp Chăm có kiểu dáng đặc biệt, khác với những tháp Chăm truyền thống được phát hiện tại Bình Thuận, mà lại có kiểu dáng và cấu trúc giống với các tháp Chăm ở Mỹ Sơn, Quảng Nam và có “dính dáng” đến nền văn hóa Sa Huỳnh. Cũng theo ông Lý, đây là tháp nằm ngoài danh sách các di tháp do người Pháp phát hiện và công bố ở miền Trung. Khi khai quật phát hiện tháp chính đã bị sụp đổ phần thân; chiều cao đế móng là 3m, đế tháp hình vuông rộng 3m; chiều dài kể cả cửa tháp là 7,05m; độ dài trong lòng tháp là 2,53m. Những vật thờ phụng bên trong tháp đã bị lấy cắp, hiện chỉ còn những vật thần bằng đá có liên quan đến tôn giáo Bà La Môn.

Trước đó Bảo tàng Bình Thuận từng phát hiện một loạt các tháp Chăm cổ ở Hàm Thạnh, Mương Mán (Hàm Thuận Nam) và Hàm Liêm, Thuận Minh (Hàm Thuận Bắc).

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện một tiêu bản gốm kỳ lạ trên 2.000 năm tuổi

 

 

Ngày 14/7, tại khu vực hạ lưu sông Hương, đoạn gần ngã ba Sình, những người chuyên đi trục vớt đồ cổ đã tìm được một tiêu bản gốm có hình dáng rất kỳ lạ - hiếm khi xuất hiện trong các tài liệu nghiên cứu.

Phát hiện một tiêu bản gốm kỳ lạ trên 2.000 năm tuổi

Được bảo quản dưới tầng nước sâu và cát sạch, tiêu bản gốm này gần như nguyên vẹn với màu đỏ gạch hơi nhạt, hình khối chóp, trong rỗng ruột, cao 20cm. Đường kính tại đoạn ruột rộng nhất đo được là 8cm. Tiêu bản gốm này gồm có một đầu tròn, một đầu có dạng hình nấm, trên thân có hoa văn tròn cách đều.

Theo nhà nghiên cứu chuyên về đồ cổ dưới đáy sông, ông Hồ Tấn Phan cho biết: Nhận định bước đầu, đây là một hiện vật khảo cổ có khả năng thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cách đây trên dưới 2.500 năm.

Đây là mẫu vật chưa từng có với những chức năng, công dụng chưa thể xác định được. Thậm chí phần đầu và phần đáy cũng không thể biết được vì chưa có một sách vở nào tại Việt Nam mô tả. Dự đoán tiêu bản gốm cổ này có thể là hình tượng một Linga, hay đỉnh một công trình xây dựng hay là đồ tự khí thờ cúng.

Được biết, ảnh của mẫu gốm này đã được gửi ra Bộ môn Khảo cổ học (Khoa Lịch Sử, trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội)n để nghiên cứu, xác định.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện 2 ngôi mộ cổ độc đáo ở Đà Nẵng

 

 

Các nhà khảo cổ mới đây đã phát hiện ra 2 lăng mộ tại khu nghĩa địa cổ Saqqara gần thủ đô Cairo với những hình vẽ mô tả hai cha con.

alt

Trong 2 đợt khảo sát vào cuối tháng 5 và đầu tháng 7/2010, nhóm nghiên cứu trẻ thuộc Phân viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại TT-Huế đã tìm ra 2 mộ cổ cùng và nhiều văn bia rất độc đáo tại TP Đà Nẵng.

Ngôi mộ thứ nhất được tìm thấy trong khu dân cư xóm 10/53 đường Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu.

Mộ thứ hai nằm trên đường Nguyễn Hoàng, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê.

Chủ nhân ở 2 ngôi mộ này đều có gốc tích là tầng lớp giàu có lúc xưa. Cả 2 văn bia chính trên mộ đều có chữ “Việt cố” – là chữ có gốc tích thời chúa Nguyễn. Điều này được khẳng định qua nghiên cứu của nhiều nhà sử học và khảo cổ học ở 2 lăng người vợ chúa Nguyễn tại huyện Duy Trinh và Duy Xuyên (Quảng Nam) - trên tấm bia mộ cũng có chữ “Việt cố” thể hiện tình cảm nhớ về đất Bắc của cả dòng họ Chúa khi di cư, mở đất về phương Nam.

Văn bia ở mộ thứ nhất có ghi năm Bính Dần. Theo giả thiết các nhà nghiên cứu đặt ra là mộ được xây dựng nằm 1 trong 3 mốc: 1626, 1686 hay 1746 (theo niên kỷ 60 năm).
Trên văn bia tại ngôi mộ thứ 2, theo các nhà nghiên cứu, mộ này thuộc niên đại từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên đến chúa Nguyễn Phúc Khoát (1679 hay 1739).

Hình dáng 2 ngôi mộ cổ được đắp nổi, gò mộ nhô lên theo hình lưng ngựa. Hoa văn trang trí trên bia bằng đá sa thạch được khắc rất sâu nhằm giữ được lâu theo thời gian. Đỉnh bia có hình mặt trời và hoa lửa – là hệ ký hiệu rất đặc trưng vào thời đầu chúa Nguyễn. Diềm bia có nhiều đường nổi và sự phổ biến mô-tip hoa sen tượng trưng cho tư tưởng Phật giáo dưới thời chúa Nguyễn.


Được biết, trong 8 năm nay, nhóm đã tìm ra gần 40 ngôi mộ cổ và nhiều vật dụng bằng vải, đồng, gỗ thời chúa Nguyễn từ Quảng Trị đến Thừa Thiên Huế. Những chi tiết mỹ thuật đặc trưng trên mộ tại 2 tỉnh này là hình trứng, trái đào, lá sen, kèo ngựa và yên ngựa.

Theo anh Nguyễn Phước Bảo Đàn, trưởng nhóm nghiên cứu, Phân viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại TT-Huế: “Nhiều mộ cổ thời chúa Nguyễn xuất hiện liên tiếp từ khu vực Bắc Hải Vân đến Nam Hải Vân là minh chứng rõ ràng cho con đường khai hoang, lập đất mở rộng đất nước của các chúa trong hành trình Nam tiến. Điều này củng cố cho nhận định về sự tồn tại có một giai đoạn mỹ thuật trang trí đặc sắc thời chúa Nguyễn đã bị lãng quên bởi chiến tranh giữa 2 triều Trịnh – Nguyễn, chúa Nguyễn – Tây Sơn từ hơn nửa thập kỷ nay”.

Song song với việc khảo sát tiếp tục các mộ cổ chúa Nguyễn, cả nhóm đang gấp rút để hoàn thành bản thảo cho cuốn sách - ảnh dày 250 trang “Nghệ thuật tạo hình thời chúa Nguyễn”, dự định sẽ xuất bản vào cuối năm 2010 với nhiều dữ liệu từ ảnh, bản vẽ, sơ đồ, các bản dập bia mộ và tư liệu điền dã quý.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Ai Cập phát hiện cặp lăng mộ hơn 4.200 năm tuổi

 

 

Các nhà khảo cổ mới đây đã phát hiện ra 2 lăng mộ tại khu nghĩa địa cổ Saqqara gần thủ đô Cairo với những hình vẽ mô tả hai cha con.

Ai Cập phát hiện cặp lăng mộ hơn 4.200 năm tuổi

Ngay sau khi phát hiện ra 2 lăng mộ cổ này, các nhà khảo cổ Ai Cập đã tiến hành khai quật và thu được những kết quả là có những bức họa trên tường rất động. Những người làm công tác khảo cổ cho biết, đây có thể là sự khởi đầu cho việc khai quật một nghĩa địa lớn trong khu vực Saqqara gần Cairo.

Lăng bộ mà các nhà khảo cổ phát hiện ra còn bao gồm 2 chiếc cửa giả được trang trí với những hình chạm khắc màu sắc như mô phỏng việc có 2 người đã được chôn tại đó. Đó là người cha Shendwas và con trai Khonsu – những người từng có vai trò là người ghi chép trong hoàng gia.

Theo ông Abdel-Hakim Karar - nhà khảo cổ uy tín tại Saqqara cho hay thì: “Màu của một cánh cửa giả trông còn rất mới như thể nó vừa được vẽ xong”.

Tuy nhiên, 2 lăng mộ này đã không còn nguyên vẹn. Chính độ ẩm cao đã phá hủy quan tài của người cha Shendwas, còn lăng mộ của người con trai Khonsu đã bị bọn “mộ tặc” đào bới để tìm cổ vật và châu báu.

Các nhà khảo cổ còn phát hiện ra trên cánh cửa giả mộ của người cha có cái tên Pepi II - người đã trị vì 90 năm và được cho là một trong những người trị vì lâu nhất trong các pharaong.

Còn những chữ được chạm khắc khác cho thấy 2 lăng mộ này có từ triều đại thứ 6 - triều đại khởi đầu cho sự suy tàn của Vương quốc Cổ (Old Kingdom) và cũng là thời đại của các kim tự tháp.

Zahi Hawass – trưởng ban bảo tồn cổ vật của Ai Cập cho biết, đây là những phát hiện vô cùng mới mẻ và “đây là những lăng ngôi mộ đặc sắc được tìm thấy từ trước tới nay bởi sự nguyên vẹn của màu sắc. Nếu được khai quật cả khu vực này có thể sẽ hé mở ra nghĩa địa lớn nhất của Ai Cập cổ đại”.

Trong lăng mộ, các nhà khoa học còn tìm thấy rất nhiều bình nhỏ được làm bằng đá vôi hình con vịt và một tháp nhỏ cũng được làm bằng đá vôi. Chúng được chôn cùng người chết vào triều đại thứ 5 và thứ 6 nhằm chứng tỏ sự tôn sùng thần Mặt trời Ra. Sở dĩ có kết luận này là vì “những cổ vật này được phát hiện chôn ở dưới đáy của ngôi mộ với độ sâu 18 m”, ông Hawass nói.

Theo các nhà khoa học thì cho tới nay mới chỉ có 6 lăng mộ có niên đại từ giai đoạn cuối của Vương quốc Cổ được tìm thấy. Còn 2 lăng mộ cha con nằm ở phía Tây kim tự tháp bậc thang của Vua Djoser – kim tự tháp cổ nhất Ai Cập xây dựng từ năm 2650 trước Công nguyên là một phát hiện vô cùng quý giá.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Thổ Nhĩ Kỳ: Phát hiện nhà thờ 900 năm tuổi

 

 

Hãng tin Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ cho biết, một nhà thờ 900 năm tuổi theo phong cách Byzantine vừa được các nhà khảo cổ phát hiện ở miền Nam nước này.

Theo giáo sư Engin Akyurek thuộc khoa Lịch sử Nghệ thuật, Đại học Istanbul, ngôi nhà thờ trong tình trạng bảo quản tốt này bị chôn vùi 6m dưới lòng đất ở thành phố cổ Myra thuộc thị trấn Demre, tỉnh Antalya bên bờ Địa Trung Hải. Phần mái vòm của nhà thờ rộng 5m, cao 10m bị hư hại một phần nhưng ngói lát trên mái vẫn còn nguyên vẹn. Ông  Akyurek cho biết, có thể nhà thờ này được xây dựng từ thế kỉ 12. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ chỉ có thể xác định niên đại chính xác sau khi vào bên trong. Theo ông Akyurek, tất cả các công trình có từ thời Byzantine còn tồn tại đến ngày nay đều trải qua quá trình trùng tu hoặc phần mái đã bị thay đổi. Tuy nhiên, ngôi nhà thờ Byzantine được phát hiện tại Myra vẫn giữ được kiến trúc ban đầu.
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9021935
Số người đang online: 25