Chủ quyền quần đảo Trường Sa qua tư liệu khảo cổ học

 

 

PGS.TS Bùi Văn Liêm, Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học và PGS.TS Lại Văn Tới, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu Kinh thành khẳng định những dấu tích khảo cổ qua 4 đợt khảo sát và khai quật (năm 1994, 1995, 1999, 2014), kết hợp với tư liệu Hán Nôm, tư liệu lịch sử là bằng chứng về thực thi chủ quyền liên tục của người Việt với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và Biển Đông.

Tại "Khảo cổ học Biển đảo Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng" diễn ra ngày 7/5/2015 tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, PGS.TS Lại Văn Tới, Phó giám độc Trung tâm nghiên cứu Kinh thành đã chia sẻ kết quả các chuyến thám sát, khai quật ở một số đảo trong quần đảo Trường Sa các năm năm 1994, 1995, 1999, 2014 do Viện Khảo cổ kết hợp với nhiều cơ quan trong cả nước thực hiện.

Các cuộc thám sát khai quật năm 1994, 1995, 1999 đã phát hiện tổng số 498 hiện vật gồm các loại: gốm thô, gốm sứ, đồ sành, mũi ngói, tiền kim loại. Gốm thô phát hiện ở đảo Trường Sa Lớn, gốm màu xám, xốp, được làm từ đất sét pha cát, xương thô, nhẹ, tương tự như đồ gốm văn hoá Sa Huỳnh, có niên đại tương đương với văn hoá Đông Sơn ở Bắc Bộ và văn hoá Dốc Chùa ở Nam Bộ. Đồ gốm sứ có nhiều loại gốm tráng men của Việt Nam nằm trong khung niên đại từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20. Đồ sành cả hai đảo Trường Sa Lớn và Nam Yết đều phát hiện. Tiền kim loại 16 đồng hình tròn, lỗ vuông, đều phát hiện trên đảo Song Tử Tây, thời Minh Mạng và Tự Đức.

Di vật cổ ở Trường Sa, Hoàng Sa 2
Khai quật khảo cổ học ở đảo Trường Sa Lớn

Đồ gốm men phát hiện tại đảo Trường Sa Lớn và Nam Yết

Nguồn: Lại Văn Tới.

4 đảo được khai quật đều có tầng văn hoá đất mùn màu đen, trong chứa hiện vật khảo cổ. Tầng văn hoá hố khai quật đảo Trường Sa Lớn, dày: 20cm. Tầng văn hoá hố khai quật đảo Nam Yết, dày: 20cm-30cm. Tầng văn hoá hố khai quật đảo Sơn Ca, dày: 10cm-15cm. Tầng văn hoá hố khai quật đảo Sinh Tồn, dày: 20cm-40cm. Tầng VH gồm 2 lớp tương ứng 2 giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn sớm tương đương với các di tích của văn hoá Sa Huỳnh muộn-Champa sớm có niên đại thế kỷ 1-2 đầu CN. Giai đoạn muộn từ thế kỷ 14 cho đến đầu thế kỷ 20.

Bên cạnh nghiên cứu khai quật khảo cổ học, năm 1994 đoàn đã tiến hành phục hồi bia chủ quyền Trường Sa do Việt Nam Cộng hòa lập năm 1956.

Năm 2014 khảo sát, điều tra và đào thám sát trên các đảo Trường Sa Lớn, Phan Vinh, Sơn Ca, Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa), đoàn công tác của PGS.TS Bùi Văn Liêm Liêm đã phát hiện nhiều hiện vật quan trọng khẳng định sự xuất hiện sớm và liên tục của người Việt trên quần đảo này.

Cụ thể, tại đảo Trường Sa Lớn, đoàn phát hiện những mảnh gốm của cư dân văn hóa Sa Huỳnh, mảnh bát gốm men thời Trần, mảnh gốm men trắng vẽ lam thời Lê và nhiều mảnh sành thuộc thế kỷ 18-19. Trên đảo Nam Yết, Sơn Ca, đoàn thu được các mảnh sành, gốm thời Lê, Nguyễn.

PGS.TS Bùi Văn Liêm cho biết thêm, việc nghiên cứu chuyên sâu khảo cổ học dưới nước ở Hoàng Sa, Trường Sa sẽ được tiếp tục. Viện Khảo cổ học đang xây dựng quy hoạch khảo cổ học ở Trường Sa để bảo vệ những "bằng chững thép" về chủ quyền biển đảo ngàn đời của dân tộc.

Các đoàn thám sát, khai quật đều cho rằng những dấu tích khảo cổ kết hợp với tư liệu Hán Nôm, tư liệu lịch sử khẳng định sự có mặt sớm và liên tục của người Việt ở Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là bằng chứng không thể chối cãi về chủ quyền và việc thực thi chủ quyền liên tục của người Việt với hai quần đảo này và Biển Đông.

Josdar

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Công bố Hội đồng Di sản Quốc gia nhiệm kỳ 2015-2019

 

 

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt danh sách 27 thành viên Hội đồng Di sản Quốc gia nhiệm kỳ 2015 - 2019 tại Quyết định số 621/QĐ-TTg ngày 12/5/2015.

Hội đồng do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam làm Chủ tịch Hội đồng.

alt
GS.TSKH Lưu Trần Tiêu - Chủ tịch Hội đồng Di sản Quốc gia nhiệm kỳ 2015 - 2019

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư liên ngành lịch sử - khảo cổ - dân tộc học làm Phó Chủ tịch Hội đồng.

25 Ủy viên Hội đồng gồm:

1- Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Ủy viên thường trực).

2- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam, nhiệm kỳ 2015 - 2019.

3- Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chí Bền, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

4- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Quốc Bình, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

5- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Xuân Cảnh, Viện trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

6- Tiến sĩ Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

7- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

8- Tiến sĩ Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế.

9- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Hoàng, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu khảo cổ.

10- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Mai Hùng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.

11- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Kim, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.

12- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Liêm, Phó Viện trưởng Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

PGS.TS Bùi Văn Liêm, UV Hội đồng Di sản Quốc gia nhiệm kỳ 2015 - 2019

13- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Từ Thị Loan, Quyền Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

14- Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hồng Lý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

15- Tiến sĩ Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa.

16- Thiếu tướng, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Năng, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng.

17- Tiến sĩ Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

18- Nhà nghiên cứu Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Xưa và Nay.

19- Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội.

20- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam.

Viện trưởng Viện Khảo cổ học PGS.TS Tống Trung Tín tại khu vực khai quật.

PGS.TS Tống Trung Tín, UV Hội đồng Di sản Quốc gia nhiệm kỳ 2015 - 2019

21- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Toàn, Giám đốc Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

22- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Quang Trọng, Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

23- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Trụ, Tổng thư ký Hội Di sản văn hóa Việt Nam, nhiệm kỳ 2015 - 2019.

24- Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

25- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Công Việt, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Theo Quyết định 1569/QĐ-TTg ngày 19/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia. Hội đồng này là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Hội đồng có nhiệm vụ tham mưu đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề như phương hướng, chiến lược, các chính sách lớn về bảo vệ và phát huy giá trị Di sản văn hóa; xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt; công nhận bảo vật Quốc gia; thành lập Bảo tàng Quốc gia, Bảo tàng chuyên ngành; đề nghị UNESCO đưa Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu và Di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục Di sản văn hóa thế giới...

Bên cạnh đó, Hội đồng còn có nhiệm vụ thẩm định đối với hồ sơ về Di sản văn hóa do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ.

Josdar

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:
<< Trang truớc<a data-cke-saved-href="/vi/tin-tuc-su-kien/tin-van-hoa-khao-co-hoc-trong-nuoc/4045-trien-lam-anh-dat-va-nguoi-tren-que-huong-hai-doi-hoang-sa-.html" href="/vi/tin-tuc-su-kien/tin-van-hoa-khao-co-hoc-trong-nuoc/4045-trien-lam-anh-dat-va-nguoi-tren-que-huong-hai-doi-hoang-sa-.html" title="Triển lãm ảnh " Đất="" và="" người="" trên="" quê="" hương="" hải="" đội="" hoàng="" sa“="" "="">Trang kế >>

Quan điểm: Thúc đẩy khảo cổ học dưới nước Việt Nam bằng liên ngành

 

 

"Muốn phát triển hoạt động nghiên cứu khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam phải hợp tác liên ngành" KS đóng tàu Đỗ Thái Bình, Hội KHKT Tàu thủy Việt Nam phát biểu tại Hội thảo "Khảo cổ học Biển đảo Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng" tổ chức tại Hà Nội ngày 7/5/2015. 

Hội thảo "Khảo cổ học Biển đảo Việt Nam: Tiềm năng và triển vọng" ngày 7/5 tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.

Khảo cổ dưới nước phải sử dụng tất cả các công cụ thiết bị để con người tồn tại và hoạt động trong môi trường nước, đó cũng chính là một nhiệm vụ của các nhà đóng tàu và kỹ thuật hàng hải nên KS Bình quan tâm nhiều đến lĩnh vực này.

Chính vì vậy, khi bàn tới câu chuyện mới đây Trung Quốc đã tuyên bố tàu khảo cổ dưới nước đầu tiên của nước này sẽ được đưa vào hoạt động tại vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, từ tháng 5/2014, thậm chí sẽ phát triển Hoàng Sa thành điểm đến du lịch KS Bình bày tỏ nhiều lo ngại. Bởi, nếu chỉ hiểu đơn thuần việc tiến hành hoạt động khảo cổ học dưới nước ở Hoàng Sa của Trung Quốc như một hoạt động nghiên cứu khoa học bình thường thì cũng có nhiều điều khiến các nhà khoa học Việt Nam đáng phải suy nghĩ.

Trước đây các nhà Khảo cổ học Việt Nam đã có những hoạt động nghiên cứu khởi đầu, đặt nền móng ngành khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam. PGS.TS Tống Trung Tín (nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học) đánh giá: “Đây là một lĩnh vực đầy tiềm năng, mới mẻ, hấp dẫn. Bằng chứng là vào năm 2012, chỉ thăm dò 20km thương cảng Vân Đồn, Quảng Ninh đã phát hiện được hàng chục vị trí nghi có tàu đắm. Tuy vậy để phát triển được lĩnh vực nghiên cứu này cần sự chuẩn bị bài bản cả về con người và trang thiết bị phục vụ nghiên cứu”.

“Thiếu tàu thì có thể hợp tác với các cơ quan trong nước như Hải quân, Viện Hải dương học, Công ty đóng tàu... Các thiết bị lặn và đào tạo lặn cũng vậy. Các nhà khoa học nước ngoài đã vào giảng cho mình những khóa về phương pháp khảo cổ dưới nước. Do vậy chỉ cần thêm sự quyết tâm nữa thôi”, KS Bình nói. Lý giải thực tế này, KS Bình cũng nói thẳng, nhiều nhà khoa học vẫn kêu thiếu cái này cái kia nhưng với khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam hiện nay chúng ta cần có cơ chế làm việc liên ngành thì mới thúc đẩy được.

“Tôi e là nếu nhà nước cấp một cái tàu khảo cổ sẽ bị vứt xó ngay vì không có cái tàu khảo cổ hay tàu nghiên cứu biển nào có thể làm được mọi nhiệm vụ, tùy điều kiện nghiên cứu lại phải có những thiết bị khác nhau, khi đó phải hợp tác với những đơn vị đã có thiết bị đó...”, KS Bình nói.

Bên cạnh đó, các kiến thức về tàu thuyền, về hải đồ, dòng chảy trên biển... cũng cần có sự liên ngành để trao đổi. "tôi sẵn sàng dành một đến vài buổi trao đổi về tàu thuyền ở Việt Nam từ xưa đến giờ. Anh muốn nghiên cứu khảo cổ học hàng hải, tàu thuyền... anh phải hiểu về tàu thuyền, hiểu hải đồ...", KS Bình nói.

Dẫn ví dụ để minh chứng cho nhận định của mình, ông Bình nhắc tới Michael Flicker, người đã có mặt tại tất cả các vụ khảo cổ dưới nước từ Cù Lao Chàm tới Hòn Cau, Cà Mau...

Khác với các nhà khảo cổ dưới nước hàn lâm khác như ông Bass (cha đẻ của khảo cổ dưới nước) rất nổi tiếng từ Houston,Texas hay nhiều nhà khảo cổ Anh đã vào để huấn luyện cho các nhà khảo cổ Việt Nam, Michael xuất thân từ một kỹ sư cơ khí người Úc, sang Singapore để lập nghiệp.

Từ một kỹ thuật viên bình thường khi vào lặn tại Cù Lao Chàm đến nay Michael đã trở thành một nhà khảo cổ dưới nước có tên tuổi, học vị tiến sĩ với nhiều công trình, là một thành phần trong lãnh đạo Hội Khảo Cổ dưới nước toàn cầu, một doanh nhân thành đạt... 

Vào trang web của Michael, có thể đọc được toàn bộ các cuộc khảo cổ dưới nước ở Việt Nam, bản thân anh đã dùng sonar rà quét sơ bộ toàn bộ vùng Biển Đông của ta để lập nên một bản đồ sơ bộ.

"Tại cuộc triển lãm Vietship hàng năm của chúng ta có xuất hiện một công ty đến từ Singapore giới thiệu các thiết bị dùng để lặn dưới nước,các buồng hồi áp (decompression chamber..) do một công ty con của Michael sản xuất", KS Bình cho biết.

Theo KS Bình, những thiết bị này, nền cơ khí của chúng ta thừa sức chế tạo. Không thể so sánh với hoàn cảnh mà Michael bắt tay lập nghiệp khảo cổ, nhưng nếu tính ra, chúng ta cũng không phải từ tay trắng vào lúc này. Những kinh nghiệm lặn cứu hộ của công ty Visal và kinh nghiệp hợp tác quốc tế trong hàng loạt các vụ lặn khảo cổ vừa qua, việc sử dụng các thiết bị ROV của các công ty dầu khí, các chuyên viên thủy âm quân sự, các kỹ sư đóng tàu hiểu biết về thuyền bè dân gian và các tàu thuyền cổ...

Josdar

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Khảo cổ học dưới nước Việt Nam: Cần sự đầu tư bài bản

 

 
Tại hội thảo khoa học "Khảo cổ học biển đảo Việt Nam - Tiềm năng và triển vọng" diễn ra mới đây, TS Lê Thị Liên, Viện Khảo cổ học cho rằng, khảo cổ học dưới nước của Việt Nam mặc dù đã đạt được một số bước tiến nhưng vẫn đi sau các nước phát triển khoảng 50 năm và chậm hơn một số nước trong khu vực khoảng 20 năm.

Nguồn lực hạn chế

Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3.000km và hoạt động trên biển diễn ra hơn 2.000 năm về trước. Nằm trên "con đường tơ lụa trên biển", Việt Nam đã chứng kiến mối quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và phương Tây hàng thế kỷ trên Biển Đông. Chính vì vậy, chúng ta có tiềm năng khảo cổ học rất lớn, gồm những loại hình di tích chìm ngập có niên đại từ hàng chục nghìn năm trước, cảng và thương cảng có niên đại ít nhất 2.000 năm trước công nguyên, di tích tàu đắm từ thế giới Ả-rập, Trung Quốc và những quốc gia thương mại khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Mỹ, Nhật Bản và Anh.
Lặn dùng bình khí nén khi khai quật khảo cổ học dưới nước (Nguồn: internet)
 
Tiềm năng lớn là vậy, nhưng việc bảo vệ và khai thác các di vật ở dưới nước chưa được đầu tư xứng tầm. Khảo cổ học dưới nước đòi hỏi một nguồn kinh phí lớn cho cơ sở hạ tầng, thiết bị, kinh phí hoạt động hằng năm, bảo quản di tích di vật và chi phí đào tạo nhân lực. Một chuyên gia khảo cổ học Thái Lan đưa ra cách tính đơn giản về tỷ lệ chi phí tài chính, nhân sự giữa khảo cổ học trên đất liền và khảo cổ học dưới nước là 1/6. Nghĩa là cứ một đồng cần chi phí trên đất liền thì khảo cổ học dưới nước cần 6 đồng.

Viện nghiên cứu Di sản Văn hóa hàng hải Hàn Quốc và khai quật dưới nước tại Hàn Quốc
(Nguồn: Lê Thị Liên)

Nhận thức được tầm quan trọng của khảo cổ học dưới nước, năm 2011, Chính phủ Thái Lan đã thông qua ngân sách 27 triệu bạt (tương đương 900.000 đôla Mỹ) để xây dựng phương tiện đào tạo lặn cho khảo cổ học dưới nước ở Chathaburi, nơi đã có cơ sở vật chất bảo đảm phục vụ nghiên cứu và tập huấn quốc tế được xây dựng từ trước. Một bể bơi hiện đại có độ sâu và các thiết bị thích hợp cho việc tập huấn lặn đã được hoàn thành vào năm 2014. Tại Hàn Quốc, Viện Nghiên cứu di sản văn hóa dưới nước của quốc gia này đã tăng chi phí hoạt động hằng năm từ hơn 5,6 triệu won vào năm 2008 lên gần 10,7 triệu won vào năm 2011. Viện cũng được trang bị tàu SEAMUS (nặng 18 tấn, dài 18m) và NURIAN (nặng 280 tấn, dài 36,4m) có thể làm việc trên biển 20 ngày với 20 nhà nghiên cứu trên boong, được trang bị đầy đủ phương tiện khảo sát và nghiên cứu hiện đại nhất. Vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động trong lĩnh vực này bằng cách tập hợp các nhà nghiên cứu từ nhiều cơ quan trung ương và cấp tỉnh. Đến nay, họ đã có đội ngũ gồm 710 chuyên gia khảo cổ có khả năng lặn.
 

Tận dụng thuyền nan để đi khảo sát khu vực di tích Bạch Đằng (Nguồn: Lê Thị Liên)

Còn ở nước ta, cơ sở vật chất và thiết bị phục vụ cho khảo cổ học dưới nước gần như không có gì, gây khó khăn cho việc triển khai các hoạt động khảo sát và nghiên cứu. Từ khi thành lập vào năm 2013 đến nay, Phòng Khảo cổ học dưới nước tại Viện Khảo cổ chưa được trang bị bất kỳ một thiết bị gì, cũng chưa có một nguồn kinh phí thường niên nào dành cho các hoạt động khảo sát, nghiên cứu dưới nước.

Hệ lụy...

Thiếu đội ngũ chuyên môn về khảo cổ học dưới nước nên mọi công trình khai quật từ trước tới nay ở nước ta chủ yếu mang tính thương mại, trừ trường hợp ở Châu Thuận Biển. Phần việc khảo cổ được sự đầu tư từ các công ty ở trong hoặc ngoài nước. "Sản phẩm" thu được chia theo tỷ lệ các bộ sưu tập hiện vật bị xé lẻ, một phần được đem bán để bù chi phí khai quật, số còn lại được chia cho một số bảo tàng. Ngay cả với tàu cổ Châu Thuận Biển, dẫu di sản không bị đem bán đấu giá thì sưu tập trong con tàu này cũng bị phân chia. Đây là điều gây bất cập cho công tác lưu trữ và nghiên cứu sau này.

Sự thiếu vắng các nhà khảo cổ học dưới nước người Việt Nam cũng làm cho những công trình khai quật dưới nước trước đây ít nhiều bị ảnh hưởng, do người biết lặn thì không biết làm khảo cổ và người có chuyên môn khảo cổ thì không biết lặn. Sự hạn chế trong việc lập và thực hiện kế hoạch khai quật đã dẫn đến tình trạng di sản biển bị khai thác bừa bãi. Rất nhiều con tàu bị ngư dân phá hủy bằng cách đánh mìn, đào phá, đến nay chỉ còn dấu tích. Nhiều con tàu và hàng hóa trên tàu bị trục vớt bởi những người săn lùng cổ vật.

Việc thiếu vắng một đội ngũ, cơ quan chuyên sâu đã tạo ra những khó khăn lớn đối với công tác điều tra, khảo sát và khai quật. Chúng ta chưa có những đợt điều tra cơ bản để lập bản đồ những con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam. "Nếu được chủ động khảo sát bởi một cơ quan nghiên cứu của Việt Nam thì tình hình hẳn sẽ thuận lợi hơn nhiều, nhờ đó, việc bảo vệ những điểm con tàu chìm sẽ chủ động hơn, tránh được sự tàn phá đang diễn ra hiện nay" - TS Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia nhận định.
 
Hướng đi
 
TS Trương Minh Huy Vũ (Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM) cho rằng "Trong bối cảnh này, có lẽ chúng ta rất nên chú trọng tới việc liên kết với nhiều quốc gia khác để đưa ra những nghiên cứu chính xác, nhằm đưa ra các hiểu biết khách quan trong học thuật. Bên cạnh đó cần có sự liên kết các đơn vị có thế mạnh trong nước về tàu thuyền, lặn, thiết bị dưới nước… để có thể dần tự chủ về nguồn lực tại chỗ".

Theo TS Phạm Quốc Quân, muốn cho khảo cổ học dưới nước Việt Nam phát triển sang giai đoạn mới thì phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ các nhà khảo cổ học dưới nước trẻ, làm việc tại một cơ quan nghiên cứu chuyên sâu, hoạt động bằng ngân sách với mục đích khoa học. Với tinh thần ấy và nhìn từ các quốc gia biển như Nhật Bản, Hàn Quốc, ông đưa ra ý kiến thành lập Viện Nghiên cứu di sản biển. "Viện nghiên cứu này, ngoài trung tâm khảo cổ học dưới nước, bảo tàng, còn có những trung tâm nghiên cứu về thuyền bè, nghiên cứu về thương mại bằng tàu thuyền, trung tâm về bảo quản, lưu trữ và điều đó sẽ khắc phục tình trạng nghiên cứu thiếu tính kết nối như hiện nay", TS Phạm Quốc Quân khẳng định.

Theo TS Lê Thị Liên, để có một trung tâm khảo cổ học dưới nước hiệu quả, các học giả quốc tế đã tư vấn giải pháp trước mắt: Việt Nam cần tổ chức đào tạo bài bản và đưa đi tập huấn thường xuyên tại nước ngoài để sớm có được những chuyên gia ở trình độ đại học, hoặc sau đại học về khảo cổ dưới nước. Có nghĩa, không thể muộn hơn nữa, một kế hoạch về thời gian, kinh phí, con người và bộ máy vận hành cần được xây dựng ngay. Ngành khảo cổ học biển đảo của Việt Nam cần sớm vượt qua giai đoạn "khởi động" để bắt đầu lộ trình của mình.

Josdar
 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trung Quốc: Ngôi mộ thời Minh chứa nhiều vàng ròng

 

 

Các nhà khảo cổ học mới đây vô cùng bất ngờ khi phát hiện ra một ngôi mộ của một phụ nữ thời nhà Minh ở Nam Kinh, Trung Quốc. Điều đặc biệt nữa là ngôi mộ của bà chứa đầy trang sức quý và tất cả được làm từ vàng ròng.

Qua kiểm tra sơ bộ, các chuyên gia phát hiện ngôi mộ 500 tuổi này chứa hai bia đá tiết lộ thân phận của chủ nhân ngôi mộ - đó là Lady Mei - một trong ba người vợ của vị cai quản vùng đất Vân Nam thời xưa.

Phát hiện ngôi mộ chứa đầy vàng ròng ở Trung Quốc

Những con số trên bia mộ đá Trung Quốc tiết lộ Lady Mei đã mất vào năm 1474 ở tuổi 45. Được biết, Lady Mei đã lập gia đình từ khi cô 15 tuổi và đã sống với chồng cho tới cuối đời.

Phát hiện ngôi mộ chứa đầy vàng ròng ở Trung Quốc

Trong ngôi mộ, giới khảo cổ phát hiện ra chiếc hộp chứa đầy vòng vàng, hộp nước hoa, cặp tóc vàng. Nhiều nữ trang trong số đó được khảm đá quý như ngọc bích, hồng ngọc... Những vật dụng này đã tiết lộ địa vị xã hội cao của Lady Mei tại thời điểm cô từ giã cõi đời.

Phát hiện ngôi mộ chứa đầy vàng ròng ở Trung Quốc

Phát hiện ngôi mộ chứa đầy vàng ròng ở Trung Quốc

Nghiên cứu sử sách, các chuyên gia còn biết Lady Mei có một cậu con trai tên là Mu Zong nhưng đã mất khi 10 tháng tuổi - không lâu sau khi chồng bà qua đời.

Từ đó, Lady Mei một mình đứng lên cai quản gia đình, vùng đất cai trị của chồng khi người con cả của bà vẫn còn bé. Lady Mei cũng đã đưa ra nhiều lời khuyên quân sự chiến lược và làm yên lòng những bộ tộc luôn có ý định chống đối.

Phát hiện ngôi mộ chứa đầy vàng ròng ở Trung Quốc

Với sự điều hành của mình, khi bà qua đời, nhân dân Vân Nam đều tiếc thương và chôn cất ngôi mộ của bà với tấm lòng thành kính.

Các nhà khảo cổ học cho biết, dù ngôi mộ đã có phần xuống cấp do bị nước ngấm nhưng hài cốt của Lady Mei vẫn còn nguyên vẹn. Hiện các chuyên gia tiến hành nghiên cứu sâu hơn về bộ hài cốt của người phụ nữ giàu có này.

Nguồn: khoahoc.tv
 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Khai quật khảo cổ tại di tích chùa Lang Đạo, Tuyên Quang

 

 

Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 1210/QĐ-BVHTTDL ngày 15 tháng 4 năm 2015 về việc khai quật khảo cổ tại di tích chùa Lang Đạo, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Theo đó, Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang sẽ phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật trong thời gian từ ngày 15/4/2015 đến ngày 15/8/2015. Diện tích khai quật là 100m2. Chủ trì khai quật là TS Trần Anh Dũng, Viện Khảo cổ học.

Trong thời gian khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép có trách nhiệm tuyên truyền cho  nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa. Những hiện vật thu được trong quá trình khai quật được tạm nhập vào Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang để giữ gìn, bảo quản; Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, Sở VHTTDL tỉnh Tuyên Quang có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ trưởng Bộ VHTTDL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó. Sau khi kết thúc đợt khai quật, chậm nhất 03 tháng Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang và Viện Khảo cổ học phải có báo cáo sơ bộ và sau 01 năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa.

Quang cảnh khu vực khai quật (Ảnh: Trần Anh Dũng)

 Việc khai quật khảo cổ học khu di tích chùa Lang Đạo có ý nghĩa quan trọng về mặt lịch sử văn hóa và là cơ sở cho quá trình nghiên cứu, thiết kế, trùng tu phục dựng chùa trong thời gian tới. Kết quả của cuộc khai quật sẽ được công bố sau khi hoàn thành công việc khai quật và chỉnh lý hiện vật.

Josdar

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Khởi công tu bổ, phục hồi di tích Phu Văn Lâu

 

 

Ngày 13/5, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã tổ chức khởi công tu bổ, phục hồi di tích Phu Văn Lâu thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế.

Hiện trạng di tích Phu Văn Lâu

 Di tích sẽ được đầu tư trùng tu trong 02 năm với tổng kinh phí gần 12 tỷ đồng gồm một số hạng mục như: Lắp dựng nhà bao che và hạ giải công trình theo thiết kế; Phục hồi 04 chân tảng cổ bồng cột hàng nhất bằng đá; Gia cường chân móng; Tu bổ và phục hồi hệ khung, hệ mái, các cấu kiện khác bằng gỗ; Tu bổ, phụ hồi bức Hoành Phi; Sơn son và sơn son thếp bạc phủ hoàng kim các cấu kiện gỗ; Phục hồi mái lợp ngói âm dương men vàng; Gia cố bờ nóc, bờ quyết bằng bê tông cốt thép, phục hồi bờ nóc, bờ quyết có ô hộc; phục hồi các con giao, con giống, con dơi trang trí và tường đầu đốc…

Phu Văn Lâu là tòa lầu nằm trên trục chính thẳng hướng nam của Kinh thành Huế, ngay trước Kỳ đài hướng ra sông Hương, được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Ngày 15/5/2014, di tích Phu Vân Lâu bất ngờ bị sập một góc phía đông bắc. Nguyên nhân là do hệ thống kết cấu chịu lực của công trình bị mục ruỗng từ bên trong. Công trình kiến trúc này được trùng tu lần cuối cùng vào khoảng những năm 1957 - 1960 và đến năm 1993 - 1995 được gia cố và sửa chữa lại nhưng do khó khăn nên thời điểm đó chưa được làm một cách bài bản.

Ảnh phối cảnh công trình Phu Văn Lâu sau khi bảo tồn trùng tu

Dự án tu bổ, phục hồi di tích Phu Văn Lâu thể hiện sự quyết tâm của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và các cơ quan chức năng tỉnh, nhằm nỗ lực đưa công trình Phu Văn Lâu sớm trở về thơ mộng bên bờ sông Hương, với hình thức duyên dáng xưa kia, kịp thời phục vụ các hoạt động tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh.

Josdar

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trưng bày chuyên đề “Sen trên cổ vật”

 

 

Nhằm giới thiệu tới công chúng vẻ đẹp tinh túy và ý nghĩa của biểu tượng hoa sen trong tâm thức của người Việt, ngày 14/5, Bảo tàng Lịch sử quốc gia sẽ tổ chức trưng bày chuyên đề “Sen trên cổ vật”. Trưng bày giới thiệu khoảng 100 hiện vật tiêu biểu có niên đại từ thế kỷ 7 - 9 tới thời Nguyễn (1802 - 1945) đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, góp phần phác họa lịch sử phát triển của nghệ thuật tạo hình và trang trí gắn với biểu tượng hoa sen trong dòng chảy văn hóa Việt. Một số nhóm hiện vật tiêu biểu gồm: Sen trên cổ vật cung đình triều Nguyễn, giới thiệu sưu tập hiện vật là đồ ngự dụng được chế tác từ những chất liệu quý hiếm như ngọc, vàng, bạc, ngà…; Sen trong nghệ thuật Phật giáo, vật dụng nghi lễ và đồ thờ cúng, giới thiệu bộ sưu tập gồm tượng Phật, vật dụng nghi lễ và đồ thờ cúng bằng gỗ, đồng, gốm, đất nung, sành… có niên đại từ từ kỷ 11 đến thế kỷ 20; Sen trên vật liệu kiến trúc, tiêu biểu là kiến trúc Phật giáo thời Lý - Trần, hoa sen được trang trí rất phổ biến, là mô típ chủ đạo. Sen có thể được trang trí ở từng bộ phận của công trình như trên các bức phù điêu đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật, gạch lát nền, diềm ngói…, nhưng cũng có thể là biểu tượng của toàn bộ công trình như chùa Một Cột (thời Lý); Sen trong đời sống xã hội; Tranh thêu đề tài hoa sen… 

Trưng bày mở cửa đón khách tham quan từ ngày 14 tháng 5 đến cuối tháng 9 năm 2015, tại phòng trưng bày chuyên đề Bảo tàng Lịch sử quốc gia, số 1, phố Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Hình ảnh một số hiện vật sẽ giới thiệu trong trưng bày chuyên đề “Sen trên cổ vật”:

Tranh thêu sen-hạc Vải. Thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại, năm Ất Hợi (1935). Thêu chỉ nhiều màu hình khóm sen, cỏ lau và đôi hạc trên đầm nước. Bên phải tranh thêu bốn chữ "Lam ngọc lương duyên", mang ý nghĩa chúc cho hôn nhân được tốt đẹp dài lâu.

 

Lư hương hình lá sen Gốm men rạn. Thời Lê Trung Hưng, gốm Bát Tràng thế kỷ 17 – 18.

Chân đèn hình đài sen Gốm men nâu. Thời Trần, thế kỷ 13 – 14.

Ống bút đúc nổi hình sen - cua Bạc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.

Ang rửa bút hình lá sen Ngọc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20 hiện vật Cung đình Huế.

 

           

Hộp vẽ khóm sen và chim Gốm hoa lam. Thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu đắm Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.


Hộp thuốc đúc nổi hình sen - uyên ương
Bạc. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.

Hộp chạm lộng hoa lá trong ô cánh sen Vàng. Thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.

Gạch lát nền in nổi hình hoa sen mãn khai Đất nung. Thời Lý, thế kỷ 11 – 13.

Josdar

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Tượng ngàn năm tuổi hồi hương Campuchia sau 3 thập kỷ lưu lạc

 

 

Ngày 12/5, tại thủ đô Phnom Penh, Campuchia đã đón “về nhà” bức tượng đá thần khỉ Hanuman thuộc Hindu giáo sau 3 thập kỷ lưu lạc tại châu Âu và châu Mỹ.

Bức tượng thần khỉ Hanuman

Bức tượng có niên đại từ thế kỷ thứ 10, bị đánh cắp khỏi ngôi đền Prasat Chen thuộc quẩn thể di tích Koh Ker tỉnh Siem Reap, trong thập niên 70 của thế kỷ trước. Lễ trao trả bức tượng diễn ra dưới sự chứng kiến của các quan chức Chính phủ Campuchia và ông William Griswold, Giám đốc Bảo tàng nghệ thuật Cleveland, Mỹ - nơi giữ bức tượng từ năm 1982.

Năm ngoái, các nhà điều hành của Bảo tàng Cleveland đã phát hiện ra rằng đầu và thân tượng đã bị bán riêng lẻ trong 2 năm 1968 và 1972. Một cuộc khai quật cũng cho thấy chân tượng nằm ở móng của một ngôi đền cổ ở Campuchia. Kể từ khi mua được bức tượng hồi năm 1982, Bảo tàng Cleveland đã liên tục trưng bày và đây là tác phẩm được các khách tham quan nhỏ tuổi yêu thích. Ông Griswold cho biết “Tượng Hanuman giúp khách tham quan hiểu thêm về nền văn minh Khmer. Khách tham quan ở Mỹ sẽ rất nhớ bức tượng này, nhưng chúng tôi rất vui khi trao trả bức tượng về quê hương của nó”. Bức tượng trên là cổ vật quý thứ 6 được trao trả về Campuchia trong vài năm trở lại đây. Trước đó, Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York đã trao trả hai cổ vật, hãng đấu giá Sotheby`s trả lại một cổ vật. Tiếp đó, hãng đấu giá Christie`s và Bảo tàng Norton Simon ở Pasadena, California cũng trao trả cổ vật cho Campuchia.

Theo vanhoa.gov.vn

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện xác tàu đắm từ thế kỷ 17

 

 

Các nhà nghiên cứu phát hiện xác tàu của Tây Ban Nha với nhiều dụng cụ và vũ khí, gặp nạn từ thế kỷ 17 nhưng vẫn được bảo quản nguyên vẹn.

(Vnexpress)

 Tháng 7/2011, nhóm chuyên gia khảo cổ học phát hiện xác tàu đắm ở độ sâu 12 m, ngoài khơi Panama. Sau khi nghiên cứu, họ đã khám phá câu chuyện lịch sử về con tàu này.
 Tàu chở hàng của Tây Ban Nha có tên Nuestra Señora de Encarnación, được thiết kế và lắp đặt ở Veracruz, Mexico. Nó là phương tiện thuộc hạm đội Firme, một trong những nguồn đem lại lợi nhuận kinh tế cho Tây Ban Nha trong thế kỷ 17. Năm 1681, tàu bị nhấn chìm trong một cơn bão lớn.
 Fritz Hanselmann, chuyên gia khảo cổ học dưới nước của Đại học Texas, Mỹ, cho biết họ tình cờ phát hiện con tàu này khi tìm kiếm dấu vết của phương tiện từng chở tay cướp biển khét tiếng Henry Morgan.

Họ sử dụng cảm biến và phát hiện dấu hiệu của kim loại trước cửa sông Chagres. Một nhóm thợ lặn được cử xuống tìm kiếm, xác định vị trí của con tàu cùng hàng hóa. Con tàu 334 tuổi được bảo quản tốt vì nằm dưới lớp cát bùn dày gần một mét.

Nhóm chuyên gia tìm thấy trên tàu 100 chiếc hộp, đựng kiếm, lưỡi kiếm, kéo, đinh, ngoài ra còn có đồ gốm, thùng gỗ và các con dấu bằng chì. Khoảng 20 hiện vật được khôi phục từ con tàu trong các đợt lặn năm 2012 và 2014.

Một lưỡi kiếm được tìm thấy trên tàu Encarnación.

Các con dấu niêm phong hàng hóa được tìm thấy trên tàu.

Anh Hoàng (Theo National Geographic)

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9748377
Số người đang online: 8