



Thứ hai, 15 Tháng 6 2015 09:09
Toàn cảnh Hội đồng nghiệm thu
|
1. Đề tài: “Nghiên cứu hệ thống di tích thời đại Đá vùng thượng du sông Ba, tỉnh Gia Lai”. Đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá đạt loại xuất sắc.
Mục tiêu của Đề tài nhằm điều tra, thám sát, xây dựng bản đồ phân bố hệ thống di tích khảo học thời đại Đá; Thu thập, hệ thống hóa toàn bộ tư liệu phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học thời đại Đá ở khu vực thượng du sông Ba thuộc tỉnh Gia Lai; Phân tích đánh giá, nghiên cứu so sánh chuyên sâu nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản của khảo cổ học thời đại Đá ở khu vực thượng lưu sông Ba và vị trí của nó trong bối cảnh rộng hơn; Áp dụng các phương pháp tiếp cận mới trong nghiên cứu, kết hợp nghiên cứu với đào tạo cán bộ nghiên cứu trẻ thành các chuyên gia, thúc đẩy khá năng nghiên cứu chuyên sâu, chuẩn bị thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo của Viện Khảo cổ học.
Nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành điều tra, thám sát phát hiện mới trên 20 di tích thuộc thời đại Đồ đá trên địa bàn nghiên cứu; Tiến hành điền dã, thu thập thêm các nguồn tư liệu về cổ môi trường sinh thái, địa chất, địa mạo, dân tộc học. Trên các nguồn tư liệu thu thập được, Đề tài đã tiến hành phân tích, tổng hợp, thống kê, miêu tả, xác định tính chất, đặc điểm, niên đại các di tích, các sưu tập di vật; Tiến hành lấy mẫu phân tích để xác định niên đại tuyệt đối, bào tử phấn hoa, thành phần chất liệu đồ đá, đồ gốm; Xây dựng bản đồ phân bố di tích. Đề tài đã tập hợp, xây dựng các bộ hồ sơ khoa học đầy đủ, khách quan cho các di tích, sưu tập di vật thời đại Đá ở vùng thượng du sông Ba.
Kết cấu Đề tài gồm 4 chương với các nội dung chính như sau:
Chương 1 - Tổng quan tư liệu liên quan đến các điều kiện tự nhiên và lịch sử nghiên cứu khảo cổ học tiền sử vùng thượng du sông Ba.
Chương 2 - Hệ thống các di tích, sưu tập di vật thời đại Đá vùng thượng lưu sông Ba. Cho đến nay các nhà khảo cổ học đã phát hiện được 13 di tích chứa các công cụ thời đại Đá cũ ở vùng thượng du sông Ba. Trong số này có 5 di tích ở thị xã An Khê được cho là thuộc giai đoạn sơ kỳ Đá cũ và 8 di tích ở các huyện K’Bang, Đăk Pơ và thị xã An Khê thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá cũ. Ngoài ra ở khu vực này còn phát hiện được 13 di tích thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới, trong đó có 8 di tích mang tính chất công xưởng chế tác rìu/bôn đá có vai bằng nguyên liệu đá opal. Có thể nói vùng thượng du sông Ba là nơi có nhiều di tồn văn hóa tiền sử đặc sắc, hứa hẹn tiềm năng to lớn cho nghiên cứu lịch sử Việt Nam và khu vực.
Chủ nhiệm đề tài báo cáo kết quả nghiên cứu trước Hội đồng
|
Chương 3 - Phác họa diện mạo, tiến trình phát triển văn hóa, đời sống và tổ chức xã hội của cư dân thời đại Đá vùng thượng du sông Ba - Đề tài đã hệ thống hóa, xác định đặc trưng và phân kỳ các di tích thời đại Đá vùng thượng du sông Ba hiện biết với ba cơ tầng văn hóa của người tiền sử, bao gồm: sơ – trung kỳ thời đại Đá cũ, hậu kỳ Đá cũ và hậu kỳ Đá mới. Sự hiện diện của di tồn văn hóa giai đoạn sơ – trung kỳ thời đại Đá cũ ở khu vực thượng du sông Ba với kỹ nghệ rìu tay, biface cùng với các hóa thạch người vượn ở Thẩm Khuyên – Thẩm Hai đã được phát hiện ở Lạng Sơn trước đây minh chứng cho sự xuất hiện của những “người vượn đứng thẳng” (Homo erectus) đầu tiên có mặt tại Việt Nam có niên đại vào khoảng hàng chục vạn năm trước. Đây là một trong những điểm không nhiều trên thế giới phát hiện được di tồn văn hóa của người vượn tối cổ phản ánh quá trình tiến hóa, di cư của con người thời bình minh của lịch sử nhân loại .
Sau cơ tầng sơ-trung kỳ Đá cũ, ở vùng thượng du sông Ba cũng xuất hiện những di tồn văn hóa của cơ tầng hậu kỳ Đá cũ của những “người khôn ngoan” (Homo sapiens) thể hiện một giai đoạn trong tiến trình phát triển của con người và văn hóa thời tiền sử trong khu vực.
Hệ thống di tích hậu kỳ Đá mới ở thượng du sông Ba với đặc trưng là các công xưởng chế tác rìu/bôn đá có vai bằng đá opal. Nhóm cư dân này có thể là cùng chung một tổ chức bộ lạc, họ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề thủ công chế tác đá và hoạt động săn bắt hái lượm. Hệ thống công xưởng chế tác đá ở đây thể hiện bước đầu có sự phân công lao động xã hội và có thể đã tham gia vào mạng lưới sản xuất và trao đổi sản phẩm với các nhóm cư dân trên phạm vi rộng hơn.
Chương 4 - Nghiên cứu so sánh, tìm hiểu mối quan hệ văn hóa giữa các nhóm cư dân thời đại Đá vùng thượng lưu sông Ba với bối cảnh rộng hơn. Cho đến nay, hệ thống di tích và sưu tập di vật sơ kỳ Đá cũ ở thượng du sông Ba không tương đồng với bất cứ di tồn văn hóa nào đã biết ở Việt Nam. Nghiên cứu so sánh cho thấy hệ thống di tích, di vật này có nét gần gũi với một số di tích ở khu vực Châu Á như Bách Sắc (Trung Quốc), Chongokni (Hàn Quốc) và có thể với các địa điểm ở thung lũng Lenggong (Malaysia).
Các di tích, sưu tập di vật hậu kỳ Đá cũ ở thượng du sông Ba có nhiều nét gần gũi với kỹ nghệ Sơn Vi ở Bắc Bộ, với sưu tập Đá cũ ở lớp dưới Lung Leng (Kon Tum), với các di tích hậu kỳ Đá cũ ở Nam Trung Quốc và một số địa điểm ở Đông Nam Á lục địa.
Các di tích công xưởng chế tác rìu/bôn đá hậu kỳ Đá mới ở vùng thượng du sông Ba có những nét gần gũi với các di tích công xưởng ở phía Nam Gia Lai – Đông Đăk Lắc như Chư K’tu và Taipêr. Nhóm cư dân ở khu vực này có lẽ đã tham gia vào mạng lưới sản xuất thủ công và trao đổi sản phẩm mang tính liên vùng.
Kết quả nghiên cứu của Đề tài được Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao về ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Đề tài có đóng góp mới cho nghiên cứu thời đại Đá, nhất là thời đại Đá cũ Việt Nam, gợi mở nhiều vấn đề trong phương pháp tiếp cận và định hướng nghiên cứu về quá trình xuất hiện và tiến hóa của người vượn tối cổ ở Việt Nam và khu vực. Mặt khác, những phát hiện và kết quả nghiên cứu này giúp cho địa phương có cơ sở pháp lý để tiến hành quy hoạch, bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa lịch sử tại địa phương.
Bên cạnh đó, Hội đồng cũng cho rằng đây mới là những kết quả bước đầu, những nhận định cũng mới chỉ mang tính chất giả thuyết, nhiều vấn đề khoa học cần phải được tiếp tục tranh luận và nghiên cứu./.
2. Đề tài “Nghiên cứu đánh giá giá trị lịch sử văn hóa các di tích thời đại Kim khí ở tỉnh Đồng Nai”. Đề tài được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá loại Khá.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm hệ thống toàn bộ các phát hiện và nghiên cứu về các di tích khảo cổ thời đại Kim khí ở Đồng Nai từ trước đến nay; Thực hiện điều tra khảo sát, thám sát một số di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai mục đích kiểm tra, thẩm định những tư liệu cũ, phát hiện bổ sung những tư liệu mới phục vụ cho đề tài; Đánh giá các giá trị lịch sử - văn hóa các tthành tựu nghiên cứu khảo cổ học các di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai trong việc góp phần soi sáng lịch sử và văn hóa Việt Nam; Công bố toàn bộ kết quả nghiên cứu khảo cổ học thời đại Kim khí được nghiên cứu ở Đồng Nai từ trước đến nay để phục vụ nghiên cứu và phát huy giá trị khoa học, làm cơ sở khoa học để xây dựng các chương trình nghiên cứu tiếp theo; Tạo điều kiện cho hầu hết các cán bộ trẻ tham gia và tạo điều kiện cho các chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu về mảng đề tài này.
Nội dung nghiên cứu được trình bày trong 4 chương. Chương 1: Mở đầu; Chương 2: Đặc trưng di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai, các tác giả đã phân định và thống kê toàn bộ những di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai trong khung niên đại chuyển tiếp từ giai đoạn hậu kỳ đá mới – sơ kỳ Đồng thau cho đến sơ kỳ thời đại Sắt sớm.
Chương 3: Đặc trưng đi vật thời đại Kim khí ở Đồng Nai – đi sâu nghiên cứu về các nhóm hiện vật đá, gốm, kim loại, thủy tinh… trong các di tích thuộc thời đại Kim khí ở Đồng Nai.
Chương 4: Tổng quan giá trị lịch sử - văn hóa các di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai – nhận thức về thời đại Kim khí ở Đồng Nai qua nghiên cứu hệ thống di tích khảo cổ đã phát hiện. Qua đó minh định rằng, các cư dân thời đại Kim khí ở Đồng Nai đã sống trên các thềm bậc địa hình khác nhau từ đồi gò đất đỏ bazan, thềm phù sa cổ ven sông đến những vùng đầm lầy ngập mặn./.
Thu Hà - Thu Hiền
Thứ sáu, 12 Tháng 6 2015 05:49
Trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng và đời sống tâm linh của người Việt, đình làng chiếm vị trí rất quan trọng, nhưng hiện nay việc bảo quản, trùng tu các di tích này gặp rất nhiều khó khăn. Đình Thông Tây Hội là một ví dụ cho tình trạng đó khi đang xuống cấp trầm trọng.
Lễ giỗ thần độc đáo
Thuở Sài Gòn còn hoang sơ, Thông Tây Hội là một ngôi đình cổ của hai làng Hạnh Thông và Hạnh Thông Tây. Sử sách cũ ghi lại đình tọa lạc tại vùng đất Gò Vấp, tỉnh Gia Định và là một trong những ngôi đình cổ xưa nhất tại TP.HCM. Đình thờ thần hoàng theo tục thờ thần của người Nam bộ.
Năm 1944, hai làng sáp nhập lại thành một cùng lo việc tâm linh này. Qua hai lần trùng tu quy mô vào năm 1896 và 1927, cấu trúc cảnh quan và vật liệu xây dựng điển hình của ngôi đình cổ ở Nam bộ thế kỷ 18 - 19 vẫn giữ được lại hầu như nguyên vẹn.
Hằng năm, lễ giỗ thần hoàng rất linh thiêng được tổ chức trang trọng vào ngày 14 và 15.8 âm lịch, với lễ vật chính rất đặc biệt là con heo đực và con bò đực. Các lễ giỗ thu hút nhiều du khách thập phương cùng người dân địa phương.
|
Nguồn: Lê Công Sơn - Thanh niên online
Thứ năm, 11 Tháng 6 2015 14:39
Tác giả: Trần Quốc Vượng
Nxb. Nhã Nam – 2014.
Khổ sách (14 x 20,5)cm
Số trang: 339 trang.
Trần Quốc Vượng (1934-2005) quê gốc Hà Nam. Sau khi tốt nghiệp thủ khoa (1956), ông trở thành cán bộ giảng dạy tại khoa Lịch sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Ông là người đã góp công xây dựng các ngành Khảo cổ học, Văn hóa học ở Việt Nam.
Là một sử gia dám nghĩ và dám nói, cộng thêm với những chuyến đi nước ngoài đã cho phép ông thoải mái chia sẻ những suy nghĩ độc đáo, thú vị về các vấn đề lịch sử, truyền thống và kể cả hiện trạng dân tộc. Những bài viết trong tuyển tập này là kết quả của những chuyến đi và những suy tư độc đáo riêng Trần Quốc Vượng như thế. Được xuất bản lần đầu tiên ở hải ngoại năm 1991. Trong cõi là một tuyển tập các bài nói chuyện, phát biểu của Trần Quốc Vượng thời gian ông ở Mỹ. Cuốn sách được xuất bản lại sau khi tác giả qua đời gần mười năm.
Nội dung cuốn sách gồm các bài viết:
1/ Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng.
2/ Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức việt cổ.
3/ Từ huyền tích đến lịch sử.
4/ Tây sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII.
5/ Đô thị cổ Việt Nam.
6/ Vị thế địa - lịch sử và bản sắc địa văn hóa của hội an.
7/ Một cách nhìn văn hóa về văn miếu Quốc tử giám.
8/ Hội hè dân gian
9/ Căn bản triết lý người anh hung phù đổng và hội Gióng
10/ Triết lý trầu cau
11/ Triết lý bánh chưng bành giầy
12/ Một thời đã đi qua, một thời đang tới
13/ Dân gian và bác học
14/ Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hóa Đông -Tây
15/ Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số tri thức nho giáo
16/ Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam nhân bản - dân tộc - dân chủ - khoa học.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Thứ năm, 11 Tháng 6 2015 16:09
Tác giả: Hồ Sĩ Quý; Vương Toàn
Nxb. Khoa học Xã hội – 2011.
Khổ sách (16 x 24) cm.
Số trang: 392 trang.
Thư viện Khoa học xã hội tại 26 Lý Thường Kiệt thường được gọi là "Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội" nhưng thực chất là thư viện của Viện Khoa học xã hội Việt Nam do Viện Thông tin Khoa học xã hội quản lý và chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động.
Thư viện chính thức được thành lập năm 1968, nhưng thực ra đã có lịch sử hơn 100 năm do kế thừa được di sản của Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO, thành lập năm 1901, năm 1957 Pháp bàn giao lại Thư viện EFEO cho Việt Nam).
Hiện Thư viện Khoa học xã hội tại 26 Lý Thường Kiệt có hơn 160 tập thần tích, thần sắc của khoảng 9.000 làng Việt, 1.225 bản hương ước được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, bằng bút lông trên giấy dó, hơn 3000 bản kê bằng chữ Hán, chữ Nôm các dạng văn hóa làng xã như thần sắc, văn bia, địa bạ, khoán lệ ..., kho bản đồ có khoảng 1.900 tên bản đồ các loại, kho ảnh gồm khoảng 40.000 ảnh và nguồn tài nguyên sách, báo, tạp chí.
Thư viện KHXH từ khi ra đời, đã là cơ sở cung cấp tài liệu nghiên cứu khoa học về KHXH và Nhân văn lớn nhất, không chỉ cho các cơ quan của Viện KHXH Việt Nam mà nó trực thuộc, mà còn phục vụ cho các nhu cầu về tài liệu khoa học về lãnh đạo, quản lý của các cơ quan của Đảng, Nhà nước và của nhu cầu xã hội nói chung.
Thư viện KHXH - nơi đây thực sự là một địa chỉ văn hóa- lịch sử đáng tin cậy của giới nghiên cứu. Tài nguyên thông tin được lưu giữ ở thư viện này đã giúp ích cho nhiều học giả trong và ngoài nước.
Nội dung cuốn sách gồm 3 phần:
1/ Thư viện Khoa học Xã hội - vài nét về lịch sử.
2/ Thư viện Khoa học Xã hội: Hiện trạng và giá trị các tài nguyên thông tin.
3/ Thư viện Khoa học Xã hội: Một địa chỉ văn hóa - lịch sử.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Thứ năm, 11 Tháng 6 2015 10:38
Cơ quan soạn thảo: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
Kích thước: 14,5x20,5
Hình thức bìa: mềm
Năm xuất bản: 2009
Địa chỉ liên hệ: Phòng Thông tin-Thư viện; ĐT: 04.39.332.071
Số trang: 437
- Tác giả: Hoàng Xuân Chinh
Nội dung cuốn sách gồm 5 phần:
1/ Lớp người khai phá đầu tiên - con người và văn hóa thời đại đá cũ.
2/ Bước vào nền kinh tế sản xuất - con người và văn hóa thời đại đá mới.
3/ Các chặng đường hình thành nhà nước - văn hóa thời đại kim khí.
4/ Đấu tranh xây dựng nhà nước độc lập tự chủ khảo cổ học lịch sử.
5/ Các nền văn hóa dân tộc phía Nam trước lúc hòa đồng cùng văn hóa dân tộc.
Ngô Thị Nhung; Phòng Thông tin-Thư viện
Thứ tư, 10 Tháng 6 2015 10:08
Chiều ngày 8 tháng 6 năm 2105, Viện Khảo cổ học đã tiến hành nghiệm thu cấp cơ sở nhiệm vụ khoa học cấp Bộ năm 2014 cho đề tài "Nghiên cứu đánh giá giá trị lịch sử - văn hóa di tích Thành nhà Mạc ở Cao Bằng" do TS. Lê Đình Phụng, Trưởng phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Lịch sử làm chủ nhiệm.
Công trình đã tổng hợp gần đầy đủ hệ thống thành nhà Mạc ở Cao Bằng, dựa trên các kết quả chủ yếu về điều tra, khảo sát, thám sát khảo cổ học và các ngành liên quan. Bước đầu nghiên cứu, đối sánh thành nhà Mạc ở Cao Bằng với thành nhà Mạc hiện còn để tìm hiểu vị trí, mặt bằng, kỹ thuật xây dựng, chức năng vai trò của tòa thành trong lịch sử vương triều Mạc. Nhiều vấn đề như mặt bằng tổng thể, quy mô tính chất các công trình kiến trúc trong hệ thống thành nhà Mạc, nhất là thành Nà Lữ được nghiên cứu sâu. Thông qua đó, nhiệm vụ đã đánh giá giá trị lịch sử văn hóa thành nhà Mạc ở Cao Bằng.
Nhiệm vụ đã được Hội đồng đánh giá cao và đồng ý thông qua để nghiệm thu cấp Viện Hàn lâm.
Thứ ba, 09 Tháng 6 2015 05:58
Khu di tích Champa Triền Tranh (thuộc địa bàn thôn Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) được đánh giá là một trong số những khu di tích khảo cổ có niên đại sớm và quy mô lớn của người Champa. Sau khoảng 2 tháng phát lộ, đến nay số phận” khu di tích nằm án ngữ ngay trên nền đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi “này vẫn là bài toán chưa có lời giải.
Thứ ba, 09 Tháng 6 2015 06:25
Các nhà khảo cổ Pháp cho biết, tình trạng xác ướp được bảo quản rất tốt. Giày, váy và mũ chôn theo người quá cố còn nguyên vẹn sau hơn 3 thế kỷ.
Quan tài chứa xác ướp được phát lộ trong quá trình xây dựng một trung tâm hội nghị mới ở Rennes, tây bắc nước Pháp. Nó là một trong khoảng 800 ngôi mộ tại khu công trường xây dựng.
CNN cho biết, việc mở nắp quan tài được tiến hành từ tháng 4/2014 nhưng hình ảnh về quá trình này mới được công bố trong những ngày đầu tháng 6. Nhóm chuyên gia khảo cổ thuộc Viện nghiên cứu Quốc gia Pháp chịu trách nhiệm nghiên cứu xác ướp và những di vật chôn theo người quá cố.
Nhà nhân chủng học Rozenn Colleter, thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết: “Khi mở nắp quan tài, chúng tôi thấy một thi thể còn mặc nguyên trang phục như váy, mũ và giày. Sau khi sử dụng hệ thống chụp cắt lớp, chúng tôi phát hiện xác ướp được bảo quản trong tình trạng rất tốt”.
Các nhà khảo cổ cho biết, xác ướp là bà Louise de Quengo, qua đời năm 1656. Thi thể được bọc bằng một chiếc áo choàng. Khuôn mặt được phủ lớp vải liệm và chiếc mũ trên đầu.
Nhóm chuyên gia cũng thu thập mô để xác định ADN và kiểm tra các mầm bệnh có trong xác ướp.
Một trong những di vật chôn cùng xác ướp là món đồ trang sức kim loại hình trái tim. Nó là của chồng bà, Toussaint de Perrien, hiệp sĩ vùng Brefeillac. Ông Toussaint qua đời năm 1649 và mộ phần cũng được phát hiện ở gần đó.
Những tấm phủ trên đầu xác ướp.
Đôi ủng giữ ấm gần như nguyên vẹn sau 350 năm chôn cùng thi thể.
Chiếc giày da biến dạng một phần.
Theo Zing.vn
Thứ ba, 09 Tháng 6 2015 06:21
Thi hài một phụ nữ quý tộc sống ở thế kỷ 17 còn mặc trang phục được bảo quản gần như nguyên vẹn đã được các nhà khảo cổ Pháp phát hiện trong một cỗ quan tài bằng chì, bên cạnh thi thể còn có trái tim người chồng của bà.
Thi hài này được tìm thấy trong nhà nguyện St.Joseph ở Rennes, Brittany, miền tây bắc nước Pháp hồi tháng 3/2014. Tuy nhiên, danh tính của người phụ nữ chỉ mới được Viện Nghiên cứu Bảo tồn Khảo cổ học quốc gia Pháp (Inrap) công bố hôm thứ Ba vừa qua.
Các nhà khảo cổ xem xét thi hài của Louise de Quengo. (Nguồn: rt.com)
Đây có thể là thi hài của Louise de Quengo, một góa phụ thuộc tầng lớp quý tộc Breton, qua đời năm 1656 khi được khoảng 60 tuổi. Thi hài có chiều cao 1,45m và vẫn còn mặc quần áo, đi giày và đội mũ. Nhóm khảo cổ của Inrap cho biết thi hài “ở trong tình trạng được bảo quản nguyên vẹn một cách khác thường.”
Danh tính của thi hài được xác định dựa vào những chữ khắc trên chiếc hộp bằng chì đựng trái tim của Pierrien Toussaint, chồng của bà Quengo, qua đời năm 1649. Trái tim của ông đã được chôn cùng với vợ. Thi hài của bà Quengo được mặc các trang phục theo phong cách tôn giáo.
“Có thể thấy ngay là bà ấy mặc nhiều lớp, nhiều loại vải, đi giày,” nhà khảo cổ Rozenn Colleter thuộc Inrap cho biết, và nói thêm rằng đôi tay của thi hài “cầm một cây thánh giá.”
Thi hài mặc áo sơmi vải linen và quần túm ống len, đi giày đế bần, đội vài chiếc mũ và che vải liệm trên mặt. Những trang phục này đều đã được tái hiện và sẽ sớm được đưa ra trưng bày.
Nơi phát hiện ra thi thể. (Nguồn: rt.com)
“Louise có thể đã chuyển sang một lối sống tu hành sau khi trở thành góa phụ,” một bản tuyên bố của Inrad nhận định. Các nhà khảo cổ cũng đã tái dựng tiền sử bệnh lý của bà Quengo, theo đó, bà bị sỏi thận nặng và bị dính màng phổi. Trái tim cũng đã được lấy ra bằng kỹ năng phẫu thuật chuyên nghiệp. “Chúng tôi đi hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác với Louise,” Fabrice Dedouit, một bác sỹ X-quang kiêm nhà khám nghiệm ở Toulouse cho biết.
Thi hài Louise de Quengo sẽ sớm được đưa về chôn cất lại ở Rennes. Ngoài bà Quengo, các nhà khảo cổ còn phát hiện được 4 cỗ quan tài khác cùng 800 ngôi mộ có niên đại từ thế kỷ 17, tuy nhiên tất cả đều chỉ chứa hài cốt./.
Theo VietnamPlus
Thứ sáu, 05 Tháng 6 2015 14:13
Tác giả: Đào Duy Anh
Nxb. Nhã Nam – 2014.
Khổ sách (15 x 24)cm
Số trang: 311 trang.
Việt Nam văn hóa sử cương là một tác phẩm quan trọng do tác giả Đào Duy Anh thực hiện từ nửa đầu thế kỷ 20, thông qua cuốn sách tác giả phác họa và minh định ở chừng mực nào đó cái lược sử văn hóa của người Việt như một dân tộc, một văn hóa, muốn thâu tóm trong những dòng mô tả, nhận xét nhẹ nhàng, cả sinh hoạt vật chất lẫn đời sống tinh thần của dân tộc Việt. Với một danh sách tác phẩm tham khảo phong phú, đa dạng sau mỗi chương sách, mà độc giả có thể thấy trong đó có rất nhiều văn bản gốc, những tác phẩm có giá trị.
Việt Nam văn hóa sử cương thoáng có nét nghiêm cẩn của một khảo cứu sâu, trình bày được cái di sản văn hóa trong dòng chảy lịch sử, đồng thời vẫn giữ được nét hồn nhiên, thoải mái phóng khoáng của một học giả lần đầu tự mình vạch đường, dẫn lối, giống một nhà dân tộc học điền dã.
Nội dung cuốn sách gồm 5 phần:
1/ Thiên thứ nhất: tự luận
2/ Thiên thứ hai: kinh tế sinh hoạt
3/ Thiên thứ ba: Xã hội và chính trị sinh hoạt
4/ Thiên thứ tư: Tri thức sinh hoạt
5/ Thiên thứ năm: Tổng luận.
Xin trân trọng giới thiệu !
Nguồn: Ngô Thị Nhung