Những phát hiện mới về Sa Huỳnh - Champa tại Đà Nẵng

 

 

Theo báo cáo sơ bộ về kết quả nghiên cứu một số di tích khảo cổ học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng diễn ra vào chiều 1/7/2015, đoàn nghiên cứu Viện Khảo cổ học và Trung tâm Quản lý di sản văn hóa Đà Nẵng đã phát hiện nhiều di vật với nhiều loại hình như công cụ sản xuất, đồ trang sức... của văn hóa Sa Huỳnh và Champa.

Qua 2 tháng khai quật, đoàn nghiên cứu Viện Khảo cổ học và Trung tâm Quản lý di sản văn hóa Đà Nẵng khai quật khảo cổ học tại vườn đình Khuê Bắc, phường Hòa Hải (quận Ngũ Hành Sơn); đào thám sát phế tích tháp Champa Xuân Dương, phường Hòa Hiệp Nam (quận Liên Chiểu) và khảo sát phế tích tháp Champa Gò Giản, xã Hòa Phong (huyện Hòa Vang) đã cung cấp những bằng chứng mới về văn hóa Sa Huỳnh, Champa và Đại Việt tại vùng đất Đà Nẵng xưa cách đây từ 2.000 - 3.000 năm.

di sản, đà nẵng, di tích chăm

Khai quật di chỉ vườn đình Khuê Bắc, ảnh: vietnamnet

di sản, đà nẵng, di tích chăm

Các mảnh gốm thô Sa Huỳnh tại khu vực khai quật, ảnh: vietnamnet

Quá trình khai quật, thám sát cho thấy tại vườn đình Khuê Bắc, di chỉ cư trú có nhiều di vật vô cùng phong phú và nhiều thể loại khác nhau, là mộ táng của cư dân văn hóa Sa Huỳnh, một số công cụ sản xuất và đồ trang sức phục vụ đời sống vật chất, tinh thần của cư dân.

Thạc sỹ Phạm Văn Triệu (Phó trưởng phòng Khảo cổ học lịch sử, Viện khảo cổ học) cho biết qua 2 lần khai quật tại khu vực này đã phát hiện hàng nghìn hiện vật có giá trị như rìu đá, bàn mài, tiền đồng âm dương, mộ chum và mảnh gốm các loại. Lần khai quật thứ 2 vừa qua trên diện tích 100m2 (5mx20m) cách hố khai quật lần đầu tiên (năm 2001) khoảng 10m về hướng Nam đã phát hiện nhiều hiện vật có giá trị vô giá về khảo cổ học. "Qua so sánh các hiện vật khai quật ban đầu (bao gồm mảnh đồ gốm, đá) với hiện vật vừa được tìm thấy các nhà khảo cổ học đánh giá có nhiều nét tương đồng với các lần khai quật trước. Dựa vào đó, có thể xác định tại vườn đình Khuê Bắc có hai tầng văn hóa sớm muộn. Lớp trên là lớp văn hóa Champa sớm, có niên đại thế kỷ II, III sau Công nguyên. Lớp dưới là lớp văn hóa sớm, mang tính chất di chỉ xen mộ táng, thuộc giai đoạn văn hóa tiền Sa Huỳnh - sơ kỳ Kim khí”, ông Triệu cho biết.

Đối với phế tích Champa Xuân Dương, lần đầu tiên đoàn khảo sát phát hiện nơi đây từng là trung tâm tôn giáo của người Chăm, được xây dựng vào thế kỷ 11 và duy trì sử dụng theo chiều dài lịch sử tộc người Chăm cho đến khi vùng đất này sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Quá trình điều tra, khảo sát phế tích tháp Champa Gò Giản cho thấy, quy mô và phạm vi kiến trúc khá lớn.

Khai quật, nghiên cứu các di chỉ trên đã cung cấp các bằng chứng mới, góp phần vào việc nhận diện các giá trị lịch sử- văn hóa Đà Nẵng nói riêng và miền Trung nói chung trong chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc.

Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam trên địa bàn các tỉnh từ Quảng Bình đến các tỉnh nam Trung bộ và Tây Nguyên mà Xứ Quảng là trung tâm. Việc tiến hành quá trình khai quật và nghiên cứu đã góp phần quan trọng trong việc đánh giá lại diện mạo và xây dựng lại bản đồ di tích khảo cổ học, bảo vệ các di tích trước quá trình đô thị hóa, đồng thời giúp nhận diện các giá trị lịch sử- văn hóa Đà Nẵng nói riêng và miền Trung nói chung trong chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc.

(Josdar tổng hợp)

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

LỊCH SỬ VIỆT NAM (từ năm 1930 đến năm 1945)

 

 

- Tác giả: Tạ Thị Thúy, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

- Nxb: Khoa học Xã hội-2014

- Số trang: 758 trang

- Khổ sách: 16x24 cm.

Bộ sách Lịch sử Việt Nam gồm 15 tập được hoàn thành trên cơ sở Chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp Bộ (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), do Viện Sử học là cơ quan chủ trì, PGS.TS. Trần Đức Cường làm chủ nhiệm và Tổng chủ biên, cùng với tập thể các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, nghiên cứu viên của Viện Sử học thực hiện.

Bộ sách gồm 15 tập:

Tập 1: Từ khởi thủy đến thế kỷ X

Tập 2: Từ thế kỷ X đến thế thế kỷ XIV

Tập 3: Từ thế kỷ XV đến thế thế kỷ XVI

Tập 4: từ thế thế kỷ XVII đến XVIII

Tập 5: từ năm 1802 đến 1858

Tập 6: Từ năm 1858 đến 1896

Tập 7: Từ năm 1897 đến năm 1918

Tập 8: Từ năm 1919 đến 1930

Tập 9: Từ năm 1930 đến 1945

Tập 10: Từ năm 1945 đến 1950

Tập 11: Từ năm 1951 đến 1954

Tập 12: Từ năm 1954 đến 1965

Tập 13: Từ năm 1965 đến 1975

Tập 14: Từ năm 1975 đến 1986

Tập 15: Từ năm 1986 đến 2000.

Hiện nay ở Thư viện đã có đến tập 15, tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu về một tập của cả bộ sách này, nếu những ai quan tâm đến tập nào trong bộ sách thì có thể liên hệ trực tiếp với Thư viện để được đáp ứng.

Nội dung cuốn sách tập 9 gồm 6 chương:

- Chương 1: Chính sách thuộc địa của Pháp, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng (1930-1935).

- Chương 2: Phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam thời kỳ 1930-1935.

- Chương 3: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ 1936-1939.

- Chương 4: Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ thời kỳ 1936-1939.

- Chương 5: Xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và Phát xít Nhật (1939-1945).

- Chương 6: Quá trình vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1939-1945).

Xin trân trọng giới thiệu !

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

VĂN HÓA CHĂM (Cham Cultural Studies)

 

 

Tác giả:Trung tâm Unesco nghiên cứu và bảo tồn văn hóa chăm

Nxb. Tri Thức – 2013.

Khổ sách (19 x 27)cm,

Số trang: 149 trang.

Cuốn sách giới thiệu nhiều bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến văn hóa Chăm như: Lịch sử lễ hội Kate, lễ tục Kate và vấn đề bảo tồn và phát triển lễ hội này, vấn đề trùng tu tháp chăm như thế nào, vấn đề tiếng chăm, truyện cổ chăm, âm nhạc Chăm ... cùng nhiều hình ảnh của lễ ra mắt của trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa Chăm, hình ảnh về hội thảo khoa học và lễ hội Kate ở Bình Thuận và Thành phố Hồ Chí Minh.

Xin trân trọng giới thiệu!

 Ngô Thị Nhung

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Tập huấn khảo cổ học dưới nước Quốc tế tại Hội An

 

 

Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) vừa phối hợp với Nhóm nghiên cứu quốc tế di tích Vân Đồn-Bạch Đằng, Trung tâm Quản lý và bảo tồn di sản văn hóa Hội An và Ban Quản lý Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm tổ chức khóa tập huấn khảo cổ học dưới nước Quốc tế tại Hội An dưới sự tài trợ, hỗ trợ của Trung tâm trao đổi giáo dục Việt Nam-Hoa Kỳ, Hội đồng các tổ chức học thuật Hoa Kỳ (CEEVN), UNESCO, ICOMOS-ICUCH, Trung tâm Khu vực về Khảo cổ học và Nghệ thuật, Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các quốc gia Đông Nam Á (SEAMEO-SPAFA), Cục Di sản Văn hóa, Bộ Giáo dục, Văn hóa và Khoa học Hà Lan (Cultural Heritage Agency, Ministry of Education, Culture and Science, Netherlands).

Tham gia khóa tập huấn có 21 học viên và 12 giảng viên thuộc các chuyên ngành khảo cổ học, bảo tàng, quay phim, chụp ảnh đến từ 12 quốc gia: Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hà Lan, Ireland, Hungary, Sri Lanka, Campuchia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.
Thực hành chỉnh lý, xây dựng cơ sở dữ liệu di vật, nguồn: Edit Boszormenyi
Hướng dẫn sử dụng các thiết bị định vị, nguồn: Edit Boszormenyi
Thực hành lặn biển sử dụng bình khí nén - Khóa học PADI, nguồn:Nham Nguyen Huy
Khóa tập huấn dự kiến kéo dài đến ngày 12/7/2015 với các nội dung chính như: Khảo cổ học hàng hải; Thực hành điều tra khảo sát khảo cổ học dưới nước tại Cù Lao Chàm; Tìm hiểu về nghề đóng tàu thuyền truyền thống tại Hội An; Gốm sứ thương mại (Sưu tập gốm sứ tàu đắm Cù Lao Chàm hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm Quản lý và Bảo tồn Di sản văn hóa Hội An).
Tiến hành khảo sát thực tế tại Cù Lao Chàm, nguồn: Edit Boszormenyi

TP.Hội An được chọn làm địa điểm tổ chức khóa học do đã từng là đô thị cổ, thương cảng quan trọng trong quá khứ, đồng thời có sẵn các điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động tập huấn khảo cổ học dưới nước như hiện vật tàu đắm Cù Lao Chàm, trang thiết bị phục vụ lặn biển...

Josdar

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Khai quật hào thành di tích Thành Nhà Hồ

 

 

Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 1472/QĐ-BVHTTDL ngày 7 tháng 5 năm 2015 về việc gia hạn thời gian và điều chỉnh diện tích khai quật khảo cổ tại khu vực hào thành di tích Thành Nhà Hồ, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Theo đó,Sở VHTTDL Thanh Hoá sẽ phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật trong thời gian từ ngày 15/5/2015 đến ngày 15/9/2015. Diện tích khai quật là 2.000m2. Chủ trì khai quật là TS Trần Anh Dũng, Viện Khảo cổ học.

Khai quật hào thành Thành Nhà Hồ, ảnh: Trần Anh Dũng

Một góc công trường khai quật hào thành Thành Nhà Hồ, ảnh: Trần Anh Dũng

Trong thời gian khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép có trách nhiệm tuyên truyền cho  nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa. Những hiện vật thu được trong quá trình khai quật được tạm nhập vào Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá để giữ gìn, bảo quản; Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá, Sở VHTTDL tỉnh Thanh Hoá có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ trưởng Bộ VHTTDL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó. Sau khi kết thúc đợt khai quật, chậm nhất 03 tháng Sở VHTTDL tỉnh Thanh Hoá và Viện Khảo cổ học phải có báo cáo sơ bộ và sau 01 năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa.

Josdar

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện nhiều cổ vật nghìn năm tuổi ở Thành nhà Hồ

 

 

Ngày 24/6, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành nhà Hồ cho biết, trong lúc đang cày bừa, một số người dân xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã phát hiện nhiều hiện vật cổ như đồ gốm, sứ, sắt, đá quý, xương... có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ X.

Địa điểm phát hiện các hiện vật này cách Thành nhà Hồ hơn 1km về phía Đông Nam, nằm liền kề với hệ thống La thành của nhà Hồ. Trong số hàng trăm hiện vật được tìm thấy, bát, đĩa chiếm số lượng lớn, phần lớn được tráng men, chân đế để mộc, nhiều chiếc có đường kính miệng rộng, lòng bát còn có các con dấu kê để lại trong quá trình nung gốm.

 Phát hiện nhiều cổ vật nghìn năm tuổi ở Thành nhà Hồ

Đặc biệt, tại đây còn phát hiện một số mảnh gốm cổ Đông Sơn có niên đại cách đây hàng nghìn năm, được trang trí vặn thừng hoặc hoa văn ô trám và những mảnh đá quý như đá mã não đỏ. Những hiện vật trên đã được Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành nhà Hồ đưa về kho lưu giữ, bảo quản để phục vụ công tác nghiên cứu, trưng bày.

Nguồn: Khoa học

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Nghiệm thu cấp Bộ nhiệm vụ Khoa học cấp Bộ năm 2014

 

 

Sáng ngày 11 tháng 6 năm 2015, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức nghiệm thu cấp Bộ đề tài “Nghiên cứu hệ thống di tích thời đại Đá vùng thượng du sông Ba, tỉnh Gia Lai” do TS. Nguyễn Gia Đối, Phó Viện trưởng, Phó Tổng biên tập làm chủ nhiệm, và đề tài "Nghiên cứu đánh giá giá trị lịch sử văn hóa các di tích thời đại Kim khí ở tỉnh Đồng Nai” do TS. Trần Quý Thịnh, Trưởng phòng Nghiên cứu Khảo cổ học Dưới nước làm chủ nhiệm.

Toàn cảnh Hội đồng nghiệm thu

1. Đề tài: “Nghiên cứu hệ thống di tích thời đại Đá vùng thượng du sông Ba, tỉnh Gia Lai”. Đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá đạt loại xuất sắc.

Mục tiêu của Đề tài nhằm điều tra, thám sát, xây dựng bản đồ phân bố hệ thống di tích khảo học thời đại Đá; Thu thập, hệ thống hóa toàn bộ tư liệu phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học thời đại Đá ở khu vực thượng du sông Ba thuộc tỉnh Gia Lai; Phân tích đánh giá, nghiên cứu so sánh chuyên sâu nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản của khảo cổ học thời đại Đá ở khu vực thượng lưu sông Ba và vị trí của nó trong bối cảnh rộng hơn; Áp dụng các phương pháp tiếp cận mới trong nghiên cứu, kết hợp nghiên cứu với đào tạo cán bộ nghiên cứu trẻ thành các chuyên gia, thúc đẩy khá năng nghiên cứu chuyên sâu, chuẩn bị thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo của Viện Khảo cổ học.

Nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành điều tra, thám sát phát hiện mới trên 20 di tích thuộc thời đại Đồ đá trên địa bàn nghiên cứu; Tiến hành điền dã, thu thập thêm các nguồn tư liệu về cổ môi trường sinh thái, địa chất, địa mạo, dân tộc học. Trên các nguồn tư liệu thu thập được, Đề tài đã tiến hành phân tích, tổng hợp, thống kê, miêu tả, xác định tính chất, đặc điểm, niên đại các di tích, các sưu tập di vật; Tiến hành lấy mẫu phân tích để xác định niên đại tuyệt đối, bào tử phấn hoa, thành phần chất liệu đồ đá, đồ gốm; Xây dựng bản đồ phân bố di tích. Đề tài đã tập hợp, xây dựng các bộ hồ sơ khoa học đầy đủ, khách quan cho các di tích, sưu tập di vật thời đại Đá ở vùng thượng du sông Ba.

 Kết cấu Đề tài gồm 4 chương với các nội dung chính như sau:

Chương 1 - Tổng quan tư liệu liên quan đến các điều kiện tự nhiên và lịch sử nghiên cứu khảo cổ học tiền sử vùng thượng du sông Ba.

Chương 2 - Hệ thống các di tích, sưu tập di vật thời đại Đá vùng thượng lưu sông Ba. Cho đến nay các nhà khảo cổ học đã phát hiện được 13 di tích chứa các công cụ thời đại Đá cũ ở vùng thượng du sông Ba. Trong số này có 5 di tích ở thị xã An Khê được cho là thuộc giai đoạn sơ kỳ Đá cũ và 8 di tích ở các huyện K’Bang, Đăk Pơ và thị xã An Khê thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá cũ. Ngoài ra ở khu vực này còn phát hiện được 13 di tích thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới, trong đó có 8 di tích mang tính chất công xưởng chế tác rìu/bôn đá có vai bằng nguyên liệu đá opal. Có thể nói vùng thượng du sông Ba là nơi có nhiều di tồn văn hóa tiền sử đặc sắc, hứa hẹn tiềm năng to lớn cho nghiên cứu lịch sử Việt Nam và khu vực.

   
Chủ nhiệm đề tài báo cáo kết quả nghiên cứu trước Hội đồng

Chương 3 - Phác họa diện mạo, tiến trình phát triển văn hóa, đời sống và tổ chức xã hội của cư dân thời đại Đá vùng thượng du sông Ba - Đề tài đã hệ thống hóa, xác định đặc trưng và phân kỳ các di tích thời đại Đá vùng thượng du sông Ba hiện biết với ba cơ tầng văn hóa của người tiền sử, bao gồm: sơ – trung kỳ thời đại Đá cũ, hậu kỳ Đá cũ và hậu kỳ Đá mới. Sự hiện diện của di tồn văn hóa giai đoạn sơ – trung kỳ thời đại Đá cũ ở khu vực thượng du sông Ba với kỹ nghệ rìu tay, biface cùng với các hóa thạch người vượn ở Thẩm Khuyên – Thẩm Hai đã được phát hiện ở Lạng Sơn trước đây minh chứng cho sự xuất hiện của những “người vượn đứng thẳng” (Homo erectus) đầu tiên có mặt tại Việt Nam có niên đại vào khoảng hàng chục vạn năm trước. Đây là một trong những điểm không nhiều trên thế giới phát hiện được di tồn văn hóa của người vượn tối cổ phản ánh quá trình tiến hóa, di cư của con người thời bình minh của lịch sử nhân loại .

Sau cơ tầng sơ-trung kỳ Đá cũ, ở vùng thượng du sông Ba cũng xuất hiện những di tồn văn hóa của cơ tầng hậu kỳ Đá cũ của những “người khôn ngoan” (Homo sapiens) thể hiện một giai đoạn trong tiến trình phát triển của con người và văn hóa thời tiền sử trong khu vực.

Hệ thống di tích hậu kỳ Đá mới ở thượng du sông Ba với đặc trưng là các công xưởng chế tác rìu/bôn đá có vai bằng đá opal. Nhóm cư dân này có thể là cùng chung một tổ chức bộ lạc, họ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề thủ công chế tác đá và hoạt động săn bắt hái lượm. Hệ thống công xưởng chế tác đá ở đây thể hiện bước đầu có sự phân công lao động xã hội và có thể đã tham gia vào mạng lưới sản xuất và trao đổi sản phẩm với các nhóm cư dân trên phạm vi rộng hơn.

Chương 4 - Nghiên cứu so sánh, tìm hiểu mối quan hệ văn hóa giữa các nhóm cư dân thời đại Đá vùng thượng lưu sông Ba với bối cảnh rộng hơn. Cho đến nay, hệ thống di tích và sưu tập di vật sơ kỳ Đá cũ ở thượng du sông Ba không tương đồng với bất cứ di tồn văn hóa nào đã biết ở Việt Nam. Nghiên cứu so sánh cho thấy hệ thống di tích, di vật này có nét gần gũi với một số di tích ở khu vực Châu Á như Bách Sắc (Trung Quốc), Chongokni (Hàn Quốc) và có thể với các địa điểm ở thung lũng Lenggong (Malaysia).

Các di tích, sưu tập di vật hậu kỳ Đá cũ ở thượng du sông Ba có nhiều nét gần gũi với kỹ nghệ Sơn Vi ở Bắc Bộ, với sưu tập Đá cũ ở lớp dưới Lung Leng (Kon Tum), với các di tích hậu kỳ Đá cũ ở Nam Trung Quốc và một số địa điểm ở Đông Nam Á lục địa.

Các di tích công xưởng chế tác rìu/bôn đá hậu kỳ Đá mới ở vùng thượng du sông Ba có những nét gần gũi với các di tích công xưởng ở phía Nam Gia Lai – Đông Đăk Lắc như Chư K’tu và Taipêr. Nhóm cư dân ở khu vực này có lẽ đã tham gia vào mạng lưới sản xuất thủ công và trao đổi sản phẩm mang tính liên vùng.

Kết quả nghiên cứu của Đề tài được Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao về ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Đề tài có đóng góp mới cho nghiên cứu thời đại Đá, nhất là thời đại Đá cũ Việt Nam, gợi mở nhiều vấn đề trong phương pháp tiếp cận và định hướng nghiên cứu về quá trình xuất hiện và tiến hóa của người vượn tối cổ ở Việt Nam và khu vực. Mặt khác, những phát hiện và kết quả nghiên cứu này giúp cho địa phương có cơ sở pháp lý để tiến hành quy hoạch, bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa lịch sử tại địa phương.

Bên cạnh đó, Hội đồng cũng cho rằng đây mới là những kết quả bước đầu, những nhận định cũng mới chỉ mang tính chất giả thuyết, nhiều vấn đề khoa học cần phải được tiếp tục tranh luận và nghiên cứu./.

2. Đề tài “Nghiên cứu đánh giá giá trị lịch sử văn hóa các di tích thời đại Kim khí ở tỉnh Đồng Nai”. Đề tài được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá loại Khá.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm hệ thống toàn bộ các phát hiện và nghiên cứu về các di tích khảo cổ thời đại Kim khí ở Đồng Nai từ trước đến nay; Thực hiện điều tra khảo sát, thám sát một số di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai mục đích kiểm tra, thẩm định những tư liệu cũ, phát hiện bổ sung những tư liệu mới phục vụ cho đề tài; Đánh giá các giá trị lịch sử - văn hóa các tthành tựu nghiên cứu khảo cổ học các di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai trong việc góp phần soi sáng lịch sử và văn hóa Việt Nam; Công bố toàn bộ kết quả nghiên cứu khảo cổ học thời đại Kim khí được nghiên cứu ở Đồng Nai từ trước đến nay để phục vụ nghiên cứu và phát huy giá trị khoa học, làm cơ sở khoa học để xây dựng các chương trình nghiên cứu tiếp theo; Tạo điều kiện cho hầu hết các cán bộ trẻ tham gia và tạo điều kiện cho các chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu về mảng đề tài này.

Nội dung nghiên cứu được trình bày trong 4 chương. Chương 1: Mở đầu; Chương 2: Đặc trưng di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai, các tác giả đã phân định và thống kê toàn bộ những di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai trong khung niên đại chuyển tiếp từ giai đoạn hậu kỳ đá mới – sơ kỳ Đồng thau cho đến sơ kỳ thời đại Sắt sớm.

Chương 3: Đặc trưng đi vật thời đại Kim khí ở Đồng Nai – đi sâu nghiên cứu về các nhóm hiện vật đá, gốm, kim loại, thủy tinh… trong các di tích thuộc thời đại Kim khí ở Đồng Nai.

Chương 4: Tổng quan giá trị lịch sử - văn hóa các di tích thời đại Kim khí ở Đồng Nai – nhận thức về thời đại Kim khí ở Đồng Nai qua nghiên cứu hệ thống di tích khảo cổ đã phát hiện. Qua đó minh định rằng, các cư dân thời đại Kim khí ở Đồng Nai đã sống trên các thềm bậc địa hình khác nhau từ đồi gò đất đỏ bazan, thềm phù sa cổ ven sông đến những vùng đầm lầy ngập mặn./.

                                                                                                                       Thu Hà - Thu Hiền

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Di tích 317 tuổi chờ... sập!

 

 

Trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng và đời sống tâm linh của người Việt, đình làng chiếm vị trí rất quan trọng, nhưng hiện nay việc bảo quản, trùng tu các di tích này gặp rất nhiều khó khăn. Đình Thông Tây Hội là một ví dụ cho tình trạng đó khi đang xuống cấp trầm trọng.


Khu vực hội sở thờ tiên sư, nhà tiền hiền, hậu hiền bị mối mọt đục có thể đổ sập bất cứ lúc nào
Đình Thông Tây Hội được xây dựng vào năm 1698 tại 107/1 Nguyễn Văn Lượng (P.11, Q.Gò Vấp, TP.HCM hiện nay). Ông Nguyễn Văn Tý, Trưởng ban trị sự đình, cho biết: Nét độc đáo nhất trong kiến trúc đình thể hiện ở phần chính điện, gồm 2 tòa nhà kiểu tứ trụ, mái giáp nhau theo kiểu “trùng thềm điệp ốc”. Phía trước có 3 hương án gỗ hình vuông được chạm khắc tinh xảo.

Khu chánh điện đình Thông Tây Hội -Ảnh: Diệp Đức Minh
Trên nóc chính điện có tượng “lưỡng long tranh châu” bằng gốm men xanh rất đẹp. Ở khu vực chính giữa là bàn thờ bằng gỗ được chạm lộng, chạm nổi hình “lưỡng long triều nhật” sống động. Đặc sắc nhất là trang thờ thần với đề tài “lưỡng long triều nguyệt” được chạm khắc tinh xảo và kỳ công nhất. Dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đình Thông Tây Hội vẫn lưu giữ gần 40 hiện vật quý: bao lam, hoành phi, câu đối trang thờ… với những đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng gần như nguyên bản.
Xuống cấp thảm hại
Hiện nay, đình Thông Tây Hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Khu vực hội sở thờ tiên sư, nhà tiền hiền, hậu hiền, nhiều cột, vách gỗ bị mối mọt đục ruỗng, có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Một số mái ngói bị bể, trời mưa dột tứ bề. Chưa kể mặt đường bên ngoài được nâng quá cao nên phần nền khu nhà hội sở lọt thỏm bên dưới rất dễ bị ngập nước. Toàn bộ các hiện vật thờ cúng nằm trong khu vực này đều phải di dời để tránh hư hỏng và bị mất cắp.
Đình Thông Tây Hội đang xuống cấp nghiêm trọng -Ảnh: Diệp Đức Minh
 
“Trước đây, vào thời buổi kinh tế khó khăn có mấy chục hộ dân vào chiếm đình này để ở, sinh hoạt quá nhếch nhác. Chúng tôi vào tiếp quản mà thấy… hoảng hồn. Ai đời gươm giáo đánh giặc của thần, chuông, dàn lư mà kẻ xấu cũng lấy. Vừa rồi mới sắm sửa lại hết cả mấy chục triệu. Ngay cả tiền công đức nằm trong hòm cũng bị trộm câu móc…”, ông Nguyễn Văn Tý chua xót. Ông Tý cho biết thêm: “Mỗi năm kinh phí nhà nước cấp tiền từ, nhang đèn, quét dọn, điện nước… khoảng 27 triệu chỉ như muối bỏ biển. Tất cả chúng tôi đều làm công quả. Mỗi khi tổ chức lễ lạt gì thì anh em Ban quản trị ứng tiền trước, rồi lấy tiền công đức trả lại. Khó khăn lắm”.
Năm 1998, đình Thông Tây Hội được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Từ ngày được xếp hạng, mọi việc duy tu, sửa chữa đều phải xin phép Sở VH-TT và Bộ VH-TT-DL. Hồ sơ làm tới làm lui nhiều năm vẫn chưa xong. Kinh phí đầu tư sửa chữa hàng tỉ đồng, trong khi Ban quản trị đình không có đồng nào. “Chúng tôi đang chuẩn bị huy động tiền từ dân nhưng xem ra rất khó. Nhìn ngôi đình quý giá đang lâm nguy vì… thiếu tiền mà thấy đau lòng lắm”, ông Tý bộc bạch.
Ông Trương Kim Quân, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích (Sở VH-TT TP.HCM) cho biết: “Hiện nay việc huy động xã hội hóa trong cộng đồng không phải dễ. Ưu thế của chùa là có nhiều phật tử xa gần đóng góp, còn đình thì người dân bản gốc đi làm ăn tứ tán khắp nơi rất khó vận động, mà càng cổ xưa, càng thiếu tiền thì di tích lại ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Vì vậy, nhìn những ngôi đình cổ hàng trăm tuổi ở Sài Gòn như Thông Tây Hội sắp sập mà đành chịu. Trăn trở lắm nhưng không biết tìm đâu ra kinh phí”.
Lễ giỗ thần độc đáo
Thuở Sài Gòn còn hoang sơ, Thông Tây Hội là một ngôi đình cổ của hai làng Hạnh Thông và Hạnh Thông Tây. Sử sách cũ ghi lại đình tọa lạc tại vùng đất Gò Vấp, tỉnh Gia Định và là một trong những ngôi đình cổ xưa nhất tại TP.HCM. Đình thờ thần hoàng theo tục thờ thần của người Nam bộ.
Năm 1944, hai làng sáp nhập lại thành một cùng lo việc tâm linh này. Qua hai lần trùng tu quy mô vào năm 1896 và 1927, cấu trúc cảnh quan và vật liệu xây dựng điển hình của ngôi đình cổ ở Nam bộ thế kỷ 18 - 19 vẫn giữ được lại hầu như nguyên vẹn.
Hằng năm, lễ giỗ thần hoàng rất linh thiêng được tổ chức trang trọng vào ngày 14 và 15.8 âm lịch, với lễ vật chính rất đặc biệt là con heo đực và con bò đực. Các lễ giỗ thu hút nhiều du khách thập phương cùng người dân địa phương.

 Nguồn: Lê Công Sơn - Thanh niên online

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

TRONG CÕI

 

 

Tác giả: Trần Quốc Vượng

Nxb. Nhã Nam – 2014.

Khổ sách (14 x 20,5)cm

Số trang: 339 trang.

Trần Quốc Vượng (1934-2005) quê gốc Hà Nam. Sau khi tốt nghiệp thủ khoa (1956), ông trở thành cán bộ giảng dạy tại khoa Lịch sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Ông là người đã góp công xây dựng các ngành Khảo cổ học, Văn hóa học ở Việt Nam.

Là một sử gia dám nghĩ và dám nói, cộng thêm với những chuyến đi nước ngoài đã cho phép ông thoải mái chia sẻ những suy nghĩ độc đáo, thú vị về các vấn đề lịch sử, truyền thống và kể cả hiện trạng dân tộc. Những bài viết trong tuyển tập này là kết quả của những chuyến đi và những suy tư độc đáo riêng Trần Quốc Vượng như thế. Được xuất bản lần đầu tiên ở hải ngoại năm 1991. Trong cõi là một tuyển tập các bài nói chuyện, phát biểu của Trần Quốc Vượng thời gian ông ở Mỹ. Cuốn sách được xuất bản lại sau khi tác giả qua đời gần mười năm.

Nội dung cuốn sách gồm các bài viết:

1/ Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng.

2/ Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức việt cổ.

3/ Từ huyền tích đến lịch sử.

4/ Tây sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII.

5/ Đô thị cổ Việt Nam.

6/ Vị thế địa - lịch sử và bản sắc địa văn hóa của hội an.

7/ Một cách nhìn văn hóa về văn miếu Quốc tử giám.

8/ Hội hè dân gian

9/ Căn bản triết lý người anh hung phù đổng và hội Gióng

10/ Triết lý trầu cau

11/ Triết lý bánh chưng bành giầy

12/ Một thời đã đi qua, một thời đang tới

13/ Dân gian và bác học

14/ Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hóa Đông -Tây

15/ Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số tri thức nho giáo

16/ Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam nhân bản - dân tộc - dân chủ - khoa học.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

THƯ VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

 

 

Tác giả: Hồ Sĩ Quý; Vương Toàn

Nxb. Khoa học Xã hội – 2011.

Khổ sách (16 x 24) cm.

Số trang: 392 trang.

Thư viện Khoa học xã hội tại 26 Lý Thường Kiệt thường được gọi là "Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội" nhưng thực chất là thư viện của Viện Khoa học xã hội Việt Nam do Viện Thông tin Khoa học xã hội quản lý và chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động.

Thư viện chính thức được thành lập năm 1968, nhưng thực ra đã có lịch sử hơn 100 năm do kế thừa được di sản của Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO, thành lập năm 1901, năm 1957 Pháp bàn giao lại Thư viện EFEO cho Việt Nam).

Hiện Thư viện Khoa học xã hội tại 26 Lý Thường Kiệt có hơn 160 tập thần tích, thần sắc của khoảng 9.000 làng Việt, 1.225 bản hương ước được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, bằng bút lông trên giấy dó, hơn 3000 bản kê bằng chữ Hán, chữ Nôm các dạng văn hóa làng xã như thần sắc, văn bia, địa bạ, khoán lệ ..., kho bản đồ có khoảng 1.900 tên bản đồ các loại, kho ảnh gồm khoảng 40.000 ảnh và nguồn tài nguyên sách, báo, tạp chí.

Thư viện KHXH từ khi ra đời, đã là cơ sở cung cấp tài liệu nghiên cứu khoa học về KHXH và Nhân văn lớn nhất, không chỉ cho các cơ quan của Viện KHXH Việt Nam mà nó trực thuộc, mà còn phục vụ cho các nhu cầu về tài liệu khoa học về lãnh đạo, quản lý của các cơ quan của Đảng, Nhà nước và của nhu cầu xã hội nói chung.

Thư viện KHXH - nơi đây thực sự là một địa chỉ văn hóa- lịch sử đáng tin cậy của giới nghiên cứu. Tài nguyên thông tin được lưu giữ ở thư viện này đã giúp ích cho nhiều học giả trong và ngoài nước.

Nội dung cuốn sách gồm 3 phần:

1/ Thư viện Khoa học Xã hội - vài nét về lịch sử.

2/ Thư viện Khoa học Xã hội: Hiện trạng và giá trị các tài nguyên thông tin.

3/ Thư viện Khoa học Xã hội: Một địa chỉ văn hóa - lịch sử.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9025947
Số người đang online: 16