Di chỉ Hòa Bình cổ nhất được phát hiện tại Tây Nam Trung Quốc

 

 

Văn hóa Hòa Bình cổ nhất, một thích nghi kỹ thuật quan trọng bởi những cư dân săn bắn và hái lượm với khí hậu nhiệt đới ẩm và môi trường á nhiệt đới ở Đông Nam Á từ 43.000 năm trước đã được tìm thấy ở Trung Quốc.

Nghiên cứu mái đá Tiêu Nham Động, khu vực tây nam của Trung Quốc (Nguồn:http://www.china.org.cn)

Phát hiện ở mái đá Tiêu Nham Động, là di chỉ của văn hóa Hòa Bình đầu tiên được tìm thấy ở Trung Quốc theo một nhóm nghiên cứu ở Viện Di sản văn hóa và Khảo cổ học Vân Nam.

Văn hóa Hòa Bình (和平文化) lần đầu tiên được phát hiện vào những năm 1920 ở tình Hòa Bình, ở miền Bắc Việt Nam bởi học giả người Pháp M. Colani. Thuật ngữ này được định nghĩa vào năm 1932 trong Hội nghị về Khảo cổ học tiền sử ở Viễn Đông.

Phức hợp kỹ thuật Hòa Bình đặc trưng cho kiểu công cụ cuội một mặt rộng và thon dài, nó được cho là đã được sử dụng trên những vật liệu chủ yếu là gỗ với những địa điểm cư trú trong rừng, gồm những khu vực có cảnh quan núi đá vôi độ dốc lớn và di chỉ Tiêu Nham Động (硝洞岩) cũng phân bố ở kiểu địa hình tương tự như vậy.

Dẫn đầu nhóm nghiên cứu là Ji Xueping đã nói rằng, hầu hết các di chỉ văn hóa Hòa Bình đã được xác định niên đại từ 25.000BP tới 5.000BP và địa điểm cổ nhất là 29.000 cách ngày nay.

Như một sự thích nghi kỹ thuật bởi những cư dân săn bắn hái lượm phải đương đầu với môi trường ẩm ướt của Đông Nam Á, các di chỉ Hòa Bình đã cung cấp những mắt xích quan trọng để hiểu về chiếc lược tồn tại và sự chuyển biến từ cư dân du mục sang xã hội định cư nông nghiệp, Ji nói.

Di chỉ đá cũ Tiêu Nham Động lần đầu được phát hiện năm 1981. Năm 2004, các nhà khảo cổ học tiến hành khảo sát một cách hệ thống đầu tiên ở mái đá này và đã thu thập được một số hiện vật đá.

Từ năm 2007 tới 2015, việc khảo sát tiếp tục được tiến hành tại di chỉ này. Địa tầng dày hơn 4m có chứa trầm tích văn hóa được khai quật. Các mẫu đã khẳng định rằng sự tương đồng với các di chỉ văn hóa Hòa Bình sau khi đã tiến hành so sánh với các loại hình ở khu vực Đông Nam Á. Niên đại carbon cho thấy, cư dân đã có mặt ở đây từ 43.500 tới 24.000 cách ngày nay. Tầng ở đáy là cổ nhất.

Tiêu Nham Động được cho là di chỉ Hòa Bình điển hình, di chỉ lần đầu được tìm thấy ở Trung Quốc và Đông Nam Á hiện lại là cổ nhất. Ji nói, phát hiện mới này có lẽ là dấu hiệu cho thấy các nguồn gốc của sự lan tỏa các di chỉ văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á có thể là ở khu vực thượng lưu hệ thống sông Mê Công-Lancang ở tây nam Trung Quốc.

“Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thung lũng sông Lancang có thể là nguồn gốc của văn hóa Hòa Bình và nguồn gốc di cư của người hiện đại và sự phát tán của cư dân văn hóa này ra Đông Nam Á”. Ji nói. “Sự thích nghi của cư dân Hòa Bình sớm ở tây nam Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn hậu kỳ Đá cũ tới sơ kỳ Đá mới ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc”.

Đội nghiên cứu đã mất gần 10 năm cho việc điền dã khảo sát trên 10.000 km2, và tiêu tốn nhiều tiền để thăm một số quốc gia châu Á cho nghiên cứu so sánh. Các học giả Pháp và Nam Phi cũng tham gia chương trình nghiên cứu này.

Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trên tạp chí "Quaternary International" on Dec. 23.

Nguồn: http://www.china.org.cnhttp://www.yndaily.com

Người dịch: Phạm Thanh Sơn

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste

 

 

Tại Timor Leste, quốc gia nhỏ bé ở Đông Nam Á, vừa có phát hiện khảo cổ đáng chú ý khi tìm thấy một chiếc trống đồng Đông Sơn còn khá nguyên vẹn. Chiếc trống đồng với đường kính 1,03m, cao 78cm, nặng 80kg này được phát hiện tình cờ tại một địa điểm xây dựng ở Baucau, thành phố lớn thứ hai của Timor Leste, vào cuối năm 2014.

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste
Bề mặt trống đồng. (Ảnh: Trung Sơn/Vietnam+).

Theo nhà khảo cổ Nuno Vasco Oliveira thuộc Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật thuộc Chính phủ Timor Leste, người đã bỏ nhiều công sức vào công trình nghiên cứu này, có thể khẳng định 99,99% đây là trống đồng Đông Sơn, vốn là một biểu tượng cho văn hóa Đông Sơn (700​TCN-100) của người Việt cổ.

Đây không phải lần đầu tiên trống đồng Đông Sơn được phát hiện tại Timor Leste. Tuy nhiên, hai lần trước đây chỉ có phần mặt trống và hư hại nhiều, trong khi chiếc trống đồng được phát hiện lần này ở nguyên trạng khá tốt. Nhà khảo cổ Oliveira đánh giá đây là một trong những chiếc trống đồng Đông Sơn còn nguyên vẹn nhất được tìm thấy ở Đông Nam Á.Trên mặt chiếc trống vừa được phát hiện có 4 khối tượng cóc, giữa mặt trống là ngôi sao 12 cánh.

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste
Ngôi sao 12 cánh giữa bề mặt trống. (Ảnh: Trung Sơn/Vietnam+).

Do công tác phục chế mới được tiến hành không lâu, nhiều họa tiết ở mặt trống và thân trống chưa được làm rõ. Chiếc trống đồng này thuộc nhóm C (phân loại theo sự phân bố của những hình khắc và hoa văn trên trống).

Hiện chiếc trống đồng này đang được bảo quản tại Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật Timor Leste. Những công tác tiếp theo được dự kiến tiến hành từ đầu năm tới là tiếp tục phục chế, mở rộng tìm kiếm, khảo cổ ở khu vực xung quanh địa điểm tìm thấy trống đồng; gửi mẫu phẩm tới Pháp để đánh giá chính xác về chất liệu và niên đại (theo các chuyên gia ở Timor Leste, chiếc trống đồng Đông Sơn này có niên đại ít nhất 2.000 năm). Đây sẽ là một hiện vật trưng bày tiêu biểu tại Bảo tàng Quốc gia Timor Leste đang được xây dựng.

Ông Oliveira nhấn mạnh phát hiện này mang ý nghĩa rất lớn với Timor Leste, một quốc gia còn non trẻ. Trước đó, các nhà khảo cổ từng tìm thấy nhiều hoa văn, họa tiết, hình khắc trên đá tương tự như trên trống đồng Đông Sơn ở các tỉnh phía Đông nước này.

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste
Một trong 4 khối tượng cóc trên mặt trống. (Ảnh: Trung Sơn/Vietnam+).

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste
Hình ảnh chiếc trống đồng Đông Sơn đang được lưu giữ, bảo quản tại Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật Timor Leste. (Ảnh: Trung Sơn/Vietnam+).

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste
Thân trống được tái hiện bằng công nghệ đồ họa. (Ảnh: Trung Sơn/Vietnam+).

Phát hiện trống đồng Đông Sơn 2.000 năm tuổi ở Timor Leste
Công tác phục chế. (Ảnh: Trung Sơn/Vietnam+).

Thông qua nghiên cứu, lịch sử mảnh đất này sẽ được hiểu rõ hơn đồng thời cũng cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích về văn hóa thời cổ ở khu vực Đông Nam Á. Ông Oliveira cũng bày tỏ hy vọng sẽ có thể cùng các chuyên gia khảo cổ Việt Nam chia sẻ thông tin, nghiên cứu về chiếc trống đồng này.

(Theo khoahoc.tv)

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Google đổi doodle kỷ niệm 41 năm ngày phát hiện "Lucy" - tổ tiên loài người

 

 

Ngày 24/11/1974, nhà khảo cổ học, Giáo sư Donald Johanson và học trò của ông là Tom Gray đã phát hiện một bộ xương của người vượn cổ, với tổng cộng 47 mảnh tất cả tức gần 40% của một vượn nhân hình, sống cách đây 3,2 triệu năm tại một hẻm núi ở Hadar phía bắc Ethiopia. Căn cứ vào kích cỡ nhỏ bé của nó và hình dạng khung chậu, họ kết luận đây là một “cô” và đặt tên cho cô ta là "Lucy" theo bài hát “Lucy in the Sky with Diamonds”, bài hát của nhóm Beatles chơi trên đài phát thanh lúc Johanson và nhóm của ông đang ăn mừng phát hiện của họ ở chỗ cắm trại.

Chính vì tầm quan trọng của nó, mà ngày 24/11/2015 Google đã thay đổi doodle của mình để kỷ niệm 41 năm ngày phát hiện tổ tiên đầu tiên của loài người này. 


Doodle ngày hôm nay của Google.
Doodle của Google kỷ niệm 41 năm ngày phát hiện ra một bộ xương của người vượn phương Nam Lucy
Ngày 24/11/1974, nhà khảo cổ học, Giáo sư Donald Johanson và học trò của ông là Tom Gray đã phát hiện một bộ xương của người vượn cổ, với tổng cộng 47 mảnh tất cả tức gần 40% của một vượn nhân hình, sống cách đây 3,2 triệu năm.

Căn cứ vào kích cỡ nhỏ bé của nó và hình dạng khung chậu, họ kết luận đây là một “cô” và đặt tên cho cô ta là "Lucy". Từ bộ xương này, các nhà khoa học đã phát hiện ra rất nhiều đặc điểm đáng chú ý. Người Australopithecus có tên gọi là Lucy này cao 1,1 m và nặng khoảng 27 kg. Lucy là giống cái do phần xương chậu lớn, cô vẫn có tay dài hơn so với chân nhưng không phải là dài như của một con tinh tinh.


Bộ xương hóa thạch khá hoàn chỉnh của Lucy.
Bộ xương hóa thạch khá hoàn chỉnh của Lucy
Hiện tại bộ xương Lucy được lưu giữ tại bảo tàng Quốc gia Ethiopia, không xa nơi được phát hiện. Giữa những năm từ 2007 đến 2013, bộ xương Lucy được đưa đi khắp các thành phố tại Mỹ để người dân có thể được nhìn thấy hình hài của tổ tiên loài người.
 
Hình ảnh mô phỏng người vượn phương Nam Lucy

Một trong những bí ẩn mà các nhà khoa học chưa thể lý giải đến giờ phút này là nguyên nhân dẫn đến cái chết của "Người vượn phương Nam Lucy". Theo kết luận của các nhà khoa học thì Lucy là một phụ nữ trưởng thành nhưng vẫn còn rất trẻ, không thấy bất kỳ tổn thương nào cũng như dấu hiệu của tuổi già. "Người vượn phương Nam Lucy" được coi là một phát hiện chưa từng có trong lịch sử, với ý nghĩa to lớn trong việc phát hiện ra nguồn gốc tiến hóa của con người. 

Doodle mới của Google khá đơn giản, nhưng nó đã minh họa khái niệm “March of Progress” vô cùng nổi tiếng, cho chúng ta thấy sự tiến hóa từ loài vượn thành con người. Lucy chính là phần ở giữa của quá trình tiến hóa này, do đó vai trò của sự tiến hóa trong giai đoạn này là rất quan trọng để có thể hình thành nên con người hiện đại ngày nay.
(Tổng hợp)
 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện những mảnh xương cổ trong hang động núi Altai có thể là những mắt xích bị khuyết để hiểu về người gốc loài người.

 

 

Các mảnh sọ và xương sườn của người có niên đại sớm được phát hiện trong các tầng có niên đại thế Pleistocence ở hang động Strashnaya. Thông tin được thông báo bởi Giáo sư Andrey Krivoshapkin, người đứng đầu về Khảo cổ học và Dân tộc học ở Đại học Novosibirsk. Các mẩu xương này được cho là không muộn hơn 50,000 năm cách ngày nay, dẫn theo lời GS. Andrey Krivoshapkin. Một mảnh khác có niên đại ít nhất là 35,000 năm cách ngày nay là một mảnh xương bàn tay-một mẩu xương ngón tay.

Cảnh khai quật tại hang động khu vực Altai

Cảnh khai quật trong hang động ở thung lũng Altai

“Năm nay may mắn là chúng tôi đã đào trúng”, GS. Andrey Krivoshapkin nói như vậy. “Trong khi làm việc ở các tầng thuộc thế Pleistocence có niên đại từ 35,000 tới 40,000 năm cách ngày nay, chúng tôi đã tìm thấy một mảnh xương ngón tay” và “khai quật sâu xuống các tầng cổ hơn là một mảnh sọ và thậm chí là mảnh xương sườn mà chúng tôi thực sự tin tưởng đó là xương người”.

Vị giáo sư cũng nói thêm rằng, trong một quan niệm mang tính toàn cầu chúng ta đã có mảnh xương ngón tay thuộc về người hiện đại, chứa đựng gen của cả người Neanderthal và người Denisovan, và những phát hiện cổ hơn (mảnh sọ) thuộc về người Neanderthal, và mảnh cổ nhất - xương sườn là của người Denisovan”.

Tuy nhiên, ông ấy cũng lưu ý: “Ngay bây giờ, đó chỉ là những ý nghĩ kỳ quặc của tôi. Vì chúng ta biết, kết quả phân tích có thể đưa ra các kết quả hoàn toàn không ngờ. Nhưng dù kết quả có là gì đi chăng nữa, những chứng cứ đó sẽ giúp chúng ta hiểu được những mối giao lưu của những người hiện đại, người Neanderthals và người Denisovan ở khu vực Altai.”

Hang động này tọa lạc bên tả ngạn của sông Inya, khoảng 2,5km về phía bắc của làng Tigiryok ở khu vực Altai. Các cuộc khai quật được tiến hành sớm hơn trước đó đã phát hiện được rất nhiều loại hình công cụ đá, đồ đồng, đồ sắt và đồ gốm ở giai đoạn trung kỳ.

Hang Strashnaya (Scary), thung lũng Altai

Denisova đã là ngôi nhà qua nhiều thiên niên kỷ của cả người Neanderthals và tổ tiên của người hiện đại của chúng ta. Năm 2008, tại khu vực này phát hiện được mảng xương bàn tay của một phụ nữ trẻ đã sống vào khoảng 41,000 năm cách ngày nay và đã cho thấy rằng, cô ấy có tất cả những gen riêng biệt của cả người Nanderthals và những người hiện đại.

Đây là họ người mới mà trước đó chúng ta đã không biết đến hoặc một phân loài-đã tuyệt chủng từ lâu được đặt tên thánh là người Denisovans sau tên của hang động này. Một kết luận từ nghiên cứu về những mảnh xương thời tiền sử này là một loài riêng của chúng ta, Homo sapiens thi thoảng cũng đã có sự gặp gỡ với cả người Neanderthals và người Denisovans.

Nguồn: http://www.ancient-origins.net

(Dịch: Phạm Thanh Sơn)

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Những khám phá hang động ở Tây Ban Nha cho thấy người Neanderthals đã sử dụng nước nóng và có phòng ngủ.

 

 

Các nhà khảo cổ học ở Tây Ban Nha tiến hành một số khám phá bên cạnh một hang động tiền sử ở Catalonia. Các phát hiện này cho thấy, người Neanderthals đã sử dụng nước nóng và có các không gian sống riêng biệt từ 60.000 năm trước. Phát hiện này bổ sung thêm số lượng bằng chứng rằng, người Neanderthals phức tạp hơn nhiều so với suy nghĩ của chúng ta trước đây, ít nhất là tương đối tiến bộ, nếu không muốn nói là họ hơn những người Homo Sapiens sớm.  

Viện Cổ sinh thái người và Tiến hóa xã hội Catalan (IPHES) báo cáo rằng, hơn 10.000 di tồn hóa thạch và hiện vật thu được từ các hang động phân bố ở Abric Romani, thuộc Catalonia có thể giúp các nhà khoa học khẳng định một thời kỳ chiếm cư lâu dài (long-term occupation) tại di chỉ mà người Neanderthals đã sinh sống.

Trong số những khám phá có ý nghĩa hơn cả là một hố hình lòng chảo (40 x 30 x 10cm), nó được tạo ra ngay bên cạnh một số nền lò với bằng chứng về việc sử dụng lửa. Các nhà khảo cổ học tin rằng, người Neanderthals đã sử dụng chính cái hố đó để đun nước bằng cách đặt các viên đá bị nung nóng từ các nền lò bên cạnh đó.

“Các nền lò đã được khám phá trong các khu vực trú ngụ của người Neanderthals” Mail Online báo cáo như vậy, “Đồng thời nó cũng đã gợi ý, thậm chí họ còn nấu thức ăn của họ bằng cách đun nó trong một cái túi được làm bằng da hoặc từ một cái khay bằng vỏ cây bạch dương để làm mềm thức ăn”.

Tiếp sau đó là một phân tích chi tiết về hang động, các nhà khảo cổ học đã có thể xác minh người Neanderthals sử dụng các khu vực khác nhau của hang động cho các hoạt động khác nhau, nó bao gồm cả cho việc chế tác công cụ, xẻ thịt động vật và chuẩn bị thức ăn, khu vực vứt bỏ rác thải và khu vực để ngủ. Khu vực sử dụng để ngủ được xác định bởi một thực tế đó là số lượng hiện vật và các mảnh tách vụn vỡ rất hiếm.

Khu vực được xác định như một phòng ngủ ở hang động Catalonia.

Trong khi đó các nhà khảo cổ học ở IPHES khẳng định rằng, phát hiện này chỉ ra bằng chứng đầu tiên về một ‘phòng ngủ’ của người Neanderthals, các phát hiện trong một mái đá bị đổ ở Italy năm 2013 cũng khẳng định rằng, người Neanderthals có một không gian sử dụng được săp xếp có tổ chức.

Bức tranh miêu tả về gia đình của người Neanderthal.

Một trưng bày về người Neanderthal tại Bảo tàng Krapina, Croatia.

Mái đá ở Italy bao gồm các cấp độ riêng biệt. Khu vực cao nhất được sử dụng để xẻ thịt động vật, bởi vì nó hàm chứa tỷ lệ cao di tồn xương động vật. Khu vực trung gian bao gồm rất nhiều vết tích quá trình chiếm cư của con người và dường như được sử dụng là nơi để ngủ trong thời gian dài. Các hiện vật bị phân bố để tránh khu vực lộn xộn quanh nền lò ở đằng sau của hang động. Cuối cùng, phần thấp nhất là một khu vực để sinh sống trong thời gian ngắn hơn. Xương động vật và công cụ đã được tập trung ở trước hơn là phía sau của mái đá gợi ý rằng quá trình chế tạo công cụ diễn ra ở đó để tận dụng tối đa ánh sáng mặt trời nhiều nhất có thể. Như vậy, với nhiều nghiên cứu qua các thập kỷ gần đây có thể khẳng định rằng, sự thông minh của người Neanderthal ít nhất cũng tương đương với những người Homosapien sớm.

Nguồn: http://www.ancient-origins.net

(Dịch: Phạm Thanh Sơn)

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Thành phố cổ khổng lồ dưới đáy biển

 

 

Một nhóm chuyên gia khảo cổ tìm thấy tàn tích của thành phố khổng lồ thời đồ đồng dưới đáy biển Aegea ở Địa Trung Hải.

Khu tàn tích của thành phố cổ đại trải rộng trên 48.500 km2

Khu vực tàn tích thuộc thời đồ đồng, có niên đại 4.500 năm, bao phủ diện tích hơn 48.500 km2, bao gồm nhiều công trình phòng ngự, mặt thềm, lối đi, ngọn tháp, đồ gốm sứ, công cụ và các vật tạo tác khác.

Nhóm chuyên gia thuộc Đại học Geneva, Thụy Điển và Trường Khảo cổ Thụy Sĩ phát hiện thành phố khổng lồ ở vịnh Kiladha trên bán đảo Peloponnese phía nam Athens khi đang tìm kiếm dấu tích ngôi làng cổ nhất châu Âu.

Theo Spero News, các nhà nghiên cứu xác định một loạt nền nhà hình móng ngựa cạnh chân tường có thể là một phần của những tháp canh bảo vệ thành phố. Các kiến trúc thời kỳ đồ đồng này rất độc đáo và chưa từng được phát hiện trước đây.

Giáo sư Julien Beck ở Đại học Geneva cho biết, phát hiện về thành phố cổ đại có tầm quan trọng lớn bởi số lượng và chất lượng các vật tạo tác thu được, bao gồm đồ gốm, gốm đỏ, công cụ đá và những lưỡi rìu thuộc thời Helladic (năm 3200 – 2050 trước CN).

Những mảnh đồ gốm dạt lên bãi biển Lambayanna ở Athens

Các nhà khoa học đã thu thập hơn 6.000 đồ tạo tác từ khu vực tàn tích. Những lưỡi rìu có nguồn gốc từ đá núi lửa trên đảo Milos ở quần đảo Cyclade, nơi con người đến sống từ thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên. Theo International Business Times, nhóm nghiên cứu hy vọng những món đồ tạo tác sẽ cho phép họ nghiên cứu sâu hơn về thương mại, hàng hải và cuộc sống ở thời kỳ đó.

Những bức tường ở khu tàn tích được xây cùng thời với kim tự tháp Giza (năm 2600 – 2500 trước CN) cũng như nền văn minh Cyclade (năm 3200 – 2000 trước CN). Tuy nhiên, chúng đã tồn tại 1000 năm trước Mycenae, nền văn minh lớn đầu tiên của Hy Lạp.

Theo: http://vnexpress.net

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Chiến binh mặc áo choàng dát vàng trong mộ cổ

 

 

Các nhà khảo cổ học tìm thấy ngôi mộ chứa thi hài của một chiến binh Scythia cổ đại, được chôn cốt với chiếc áo choàng dát vàng cùng nhiều đồ tùy táng.

Ngôi mộ thuộc về một chiến binh người Scythia

Ngôi mộ của chiến binh Scythia nằm dưới một gò (gọi là kurgan) trên dãy núi Altai, gần làng Krasny Yar ở phía nam nước Nga. Theo các nhà khảo cổ học, ngôi mộ có niên đại từ năm 500 đến 400 trước Công nguyên, và đây có thể là thi hài của một vị vua Scythia.

Chiến binh Scythia trên được chôn cùng với con ngựa của mình và các vũ khí gồm một thanh kiếm sắt Akinak và một con dao bằng đồng giống cái đục. Những bộ xương cừu tìm thấy trong khu mộ có thể là thức ăn trong nghi lễ cúng tế.

Hình minh họa gò chôn kurgan của người Scythia

"Mặc dù vải của chiếc áo choàng đã mục nát từ lâu, những vẩy vàng từng đính trên đó vẫn nằm trên đất. Cho đến nay, chúng ta biết rất ít về cách mai táng của người Scythia," Ancient Origins hôm qua dẫn lời Giáo sư Alexander Kazakov, nhà khảo cổ học đứng đầu nhóm khai quật cho biết.

Người Scythia là dân du mục sống trong vương quốc trải dài từ Iran đến Trung Quốc và mở rộng về phía tây đến Đông Âu ngày nay. Họ từng được nhắc đến trong các văn kiện Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại như những kỵ binh thiện chiến. Vũ khí ưa thích của họ là cung tên và kiếm ngắn

Một chiếc vòng cổ của người Scythia được tìm thấy ở Tolstaya Mogila, Ukraine

Vương quốc Scythia được cai trị bởi tầng lớp quý tộc giàu có. Họ dần dần kết hôn với người Hy Lạp và diệt vong vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Những vẩy vàng nhỏ dát trên áo choàng của vị vua cho thấy người Scythia rất yêu thích đồ trang sức.

Nhóm nghiên cứu còn phát hiện ngôi mộ Scythia khác vào đầu tháng 8, là nơi yên nghỉ của một nữ chiến binh. Ngôi mộ này chứa 100 đầu mũi tên, một bộ yên cương, một thanh kiếm và nhiều dao găm.

Theo: http://vnexpress.net

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Móng vuốt 3.300 năm của loài chim không cánh

 

 

 

Kết quả phân tích cho thấy chiếc móng vuốt bí ẩn là phần cơ thể còn lưu lại từ xác khô có niên đại 3.300 năm của chim moa vùng cao, một loài chim tiền sử đã biến mất từ nhiều thế kỷ trước.

Chiếc móng vuốt của chim moa còn nguyên vẹn sau 3.300 năm

Chim Moa vùng cao (Megalapteryx didinus) là loài chim moa đặc thù của New Zealand. Phân tích DNA công bố trên trang Kỷ yếu Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ hôm 7/2/2014 chỉ ra chim Moa xuất hiện lần đầu tiên cách đây 18,5 triệu năm và bao gồm ít nhất 10 loài.

Với chiều cao hơn ba mét, chim Moa từng là loài chim lớn nhất hành tinh. Tuy nhiên, chim Moa vùng cao lại là loài Moa nhỏ nhất khi chỉ cao 1,3 m. Loài chim này có lông bao phủ toàn cơ thể, trừ mỏ và bàn chân. Chúng không có cánh hay đuôi. Đúng như tên gọi, chúng sống ở những vùng cao mát mẻ ở New Zealand.

Chim Moa được phát hiện lần đầu vào năm 1839 bởi John W. Harris, một thương gia yêu thích lịch sử tự nhiên. Sau đấy, các nhà khoa học đã tìm thấy hàng nghìn mẫu vật thuộc về chim Moa, trong đó có nhiều phần cơ thể còn nguyên mô mềm với cơ bắp, da và lông. Phần lớn hóa thạch nằm dưới những đụn cát, đầm lầy, hang động, nơi chim Moa làm tổ hoặc tránh thời tiết xấu. Mẫu vật được bảo tồn nhờ quá trình làm khô khi chim Moa chết ở một khu vực tự nhiên khô ráo.

Đại bàng Haast tấn công chim moa ở New Zealand

Khi người Polynesia nhập cư vào New Zealand giữa thế kỷ 13, chim moa đang phát triển mạnh. Chúng là động vật ăn cỏ thống trị trong những cánh rừng, đồng cỏ và vùng phụ cận bên các dãy núi cao trong hàng nghìn năm và chỉ có một kẻ thù duy nhất là đại bàng Haast. Tuy nhiên, khi con người xuất hiện, chim Moa nhanh chóng bị tuyệt chủng do nạn săn bắn và môi trường sống bị phá hủy.

Theo Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London, Anh, do chim Moa trưởng thành rất chậm, chúng không thể sinh sản đủ nhanh để duy trì nòi giống, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cao hơn. Chim Moa đã tuyệt chủng trước khi những người châu Âu đến New Zealand vào năm 1760.

Theo: http://vnexpress.net

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Mẩu xương niên đại 3,4 triệu năm có vết cắt.

 

 

ATLANTA, GEORGIA- Các dấu vết trên một đoạn xương động vật có niên đại 3,4 triệu năm trước tìm thấy ở di chủ khu vực Dikka, Ethiopia có thể bị cắt bởi các công cụ đá, Jessica Thompson của Đại học Emory và những đồng nghiệp của cô ấy thảo luận trong tạp chí Journal of Human Evolution. Nghiên cứu mới này sử dụng phân tích thống kê những dấu vết trên hơn 4000 mảnh xương tìm thấy ở di chỉ để bác bỏ một tuyên bố được tiến hành bởi nhóm các nhà khoa học khác từ năm 2011 rằng, những dấu vết cắt đó được gây ra bởi quá trình giẫm đạp ngẫu nhiên.

Đoạn xương có vết cắt được phát hiện ở Dikka, Ethiopia

Thompson nói rằng “Nghiên cứu của chúng tôi với những thống kê tin cậy cho thấy những vết cắt trên hai mảnh xương đó không phải bị gây ra một cách ngẫu nhiên”. “Trong khi đó có rất nhiều bằng chứng chứng minh rằng những mẩu xương ở di chỉ bị phá hủy bởi những lần giẫm đạp lên, nhưng hai mảnh xương này nằm ngoài số đó. Những dấu vết trên chúng tương tự như những vết cắt”.

Theo: http://www.archaeology.org

(Dịch Phạm Thanh Sơn)

 

 
Tags: Vết cắt  Dikka  Ethiopia...  
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế: “Khảo cổ học Việt Nam- Lào-Campuchia trong tiểu vùng Mê Kông”

 

 

- Tác giả: Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

- Số trang: 339 trang

- Hình thức bìa: mềm

Cuốn kỷ yếu là kết quả của Hội thảo khoa học Quốc tế: “Khảo cổ học Việt Nam- Lào-Campuchia trong tiểu vùng Mê Kông” do Viện Khảo cổ học-Viện Hàn lâm Khoa học xã hội chủ trì, được tổ chức trong 3 ngày từ 3/8/2015-5/8/2015 tại Tam Đảo, Vĩnh Phúc với sự tham dự của các nhà khảo cổ học Thái Lan, Myanmar và Việt Nam.

Cuốn sách tập hợp gần 30 bài viết của các tác giả quốc tế và Việt Nam nghiên cứu về các vấn đề khảo cổ học của các nước trong tiểu vùng sông Mê Kông.

Xin trân trọng giới thiệu (Danh sách tác giả và các bài viết) đến các độc giả quan tâm tới bất cứ chủ đề hoặc bài viết nào. Có thể tham khảo cuốn kỷ yếu này.

 PHẠM VĂN ĐỨC

 

Phát biểu khai mạc của GS.TS. Phạm Văn Đức, Phó chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam tại hội thảo Khoa học quốc tế “Khảo cổ học Việt Nam - Lào - Campuchia trong tiểu vùng Mê Kông” Tam Đảo, Vĩnh Phúc ngày 03/8/2015-5/8/2015

NGUYỄN GIANG HẢI

Khảo cổ học Việt Nam - Lào - Campuchia trong tiểu vùng Mê Kông

NGUYỄN GIA ĐỐI

Khảo sát nghiên cứu hệ thống di tích thời đại Đá vùng Thượng du sông Ba, tỉnh Gia Lai

THONGLITH

LUANGKHOTH

Kết quả sơ khởi cuộc khai quật tại bản Linh Xăn, huyện Thụ La Khôm, tỉnh Viên Chăn

JEERAWAN SANGPETCH

Nhận thức mới về hình tượng Vishnu ở Pong Tuk, tỉnh Kanchanaburi, Thái Lan

PHẠM ĐỨC MẠNH

NGUYỄN HỒNG ÂN

Di sản văn hóa cự thạch đặc sắc ở miền Đông bán đảo Đông Dương

LÊ ĐÌNH PHỤNG

Tháp Dương Long - Nơi hội tụ hai dòng nghệ thuật.

ANULAK DEPIMAI

Tư liệu mới từ nghiên cứu so sánh và niên đại di tích KhaokhlangNhok, đô thị cổ Si-Thep, Phetchabun, Thái Lan

 

TRẦN KỲ PHƯƠNG

SURAT LERTLUMM

THONGLITH LUANGKHOTH

IM SOKRITHY

Những di tích Ấn Độ giáo và Phật giáo mới phát hiện tại Rattanakiri (Campuchia), Attapue (Lào) và Tây Nguyên (Việt Nam): Một tiếp cận khảo cổ học cảnh quan về con đường giao thương trên bộ giữa các vương quốc cổ ở tiểu vùng Mê Kông.

SURAT LERTLUM

IM SOKRITHY

Từ LARP ĐẾN CRMA: Dự án nghiên cứu về mối quan hệ văn hóa ở Đông Nam Á lục địa (CRMA)

LÂM THỊ MỸ DUNG

Tiếp xúc và giao thoa của văn hóa Sa Huỳnh qua những phát hiện và nghiên cứu mới

UNYUNT HAN

Công tác nghiên cứu, khai quật và bảo vệ tại Di sản thế giới các đô thị cổ Pyu ở Myanmar.

 

BÙI VĂN LIÊM

BÙI VĂN HIẾU

Khảo cổ học biển ở Quảng Nam và Quảng Ngãi

ANG CHOULEAN

Mối quan hệ đa dân tộc ở Đông Dương một thoáng nhìn về tính phức tạp của nó.

 

NGUYỄN KHẮC SỬ

PHAN THANH TOÀN*

Các di tích tiền sử trong hệ thống sông Mê Kông ở Tây Nguyên

 

NGUYỄN VĂN ĐOÀN

ĐINH VĂN MẠNH

Giới thiệu sưu tập hiện vật đá tiền sử Lào tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

 

LÊ VĂN CHIẾN

ĐINH VĂN MẠNH

Di tích Hòa Diêm và mối quan hệ văn hóa của nó

TRÌNH NĂNG CHUNG

Văn hóa Đông Sơn trong bối cảnh văn hóa tiền - sơ sử khu vực Nam TQ và Đông Nam Á

TRỊNH SINH

Những trống đồng Đông Sơn ở Lào và Campuchia

 

BÙI THỊ TUYẾT

NGUYỄN THỊ THANH HIỀN

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa Đông Sơn khu vực các vùng huyện biên giới phía Tây tỉnh Thanh Hóa

NGUYỄN TIẾN ĐÔNG

Di tích Cát Tiên, nghiên cứu và vấn đề

ĐẶNG VĂN THẮNG

Thần Vishnu trong văn hóa Ốc Eo

QUẢNG VĂN SƠN

Phật viện Đồng Dương ở Quảng Nam và vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Chăm ở Việt Nam

NGÔ THỊ LAN

 

Tìm hiểu nghệ thuật trang trí hình lá đề trong một số di tích kiến trúc Khmer thời kỳ Angkor, Campuchia và nghiên cứu so sánh với Việt Nam

BÙI THỊ THU PHƯƠNG

Công tác bảo tồn và phát huy giá trị khu Di sản thế giới Hoàng thành Thăng Long (Việt Nam)

PHAN LÊ CHUNG

Gìn giữ và phát huy các giá trị di sản triều Nguyễn trong hoạt động đào tạo tại Trường Đại học Nghệ thuật - Đại học Huế

TẠ QUỐC KHÁNH

Vài ý kiến cho công tác bảo tồn, tu bổ di tích trong giai đoạn hiện nay

 

NGUYỄN THỊ HẬU

NGUYỄN THỊ TÚ ANH

Bảo tồn di sản văn hóa đô thị của ba nước Đông Dương: Trường hợp Tp. Hồ Chí Minh - Việt Nam

NGUYỄN DUY BÍNH

TRẦN ĐÌNH PHIÊN

Công tác giảng dạy và học tập khảo cổ học ở Khoa Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội và những bài học kinh nghiệm trong giáo dục sinh viên ý thức bảo tồn và bảo vệ di tích, di vật khảo cổ học; giáo dục di sản và phát huy giá trị của di sản

 (*) Đích chính: Bài viết: "Các di tích tiền sử trong hệ thống sông Mê Kông ở Tây Nguyên" do 2 tác giả Nguyễn Khắc Sử và Phan Thanh Toàn viết chung. Tuy nhiên do sơ xuất trong quá trình biên tập sách đã không ghi tên tác giả Phan Thanh Toàn.

 

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9749267
Số người đang online: 13