Hội thảo khoa học quốc tế: “Khảo cổ học Việt Nam, Lào, Campuchia trong tiểu vùng sông Mê Kông”

 

 

8h30 ngày 4/8/2015, Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam sẽ khai mạc Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề: “Khảo cổ học Việt Nam, Lào, Campuchia trong tiểu vùng sông Mê Kông” tại thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.

Ban tổ chức Hội thảo đã nhận được trên 29 bài viết của các nhà khoa học trong và ngoài nước về các lĩnh vực:

+ Nghiên cứu: những nghiên cứu tiêu biểu ở Việt Nam, Lào và Campuchia.

+ Bảo tồn và quản lý di sản: chia sẻ những bài học kinh nghiệm trong bảo tồn, bảo vệ di tích và di vật khảo cổ học; giáo dục di sản và phát huy giá trị của di sản.

+ Hợp tác quốc tế: tìm kiếm và phát triển cơ hội hợp tác quốc tế và xây dựng nguồn nhân lực.

Hội thảo sẽ diễn ra trong 3 ngày từ 3/8 đến 5/8 với sự tham dự của các nhà khoa học đến từ Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanmar. Ngày 3/8 các đại biểu đi khảo sát khu di tích Cổ Loa (Hà Nội) và di tích Chùa Dạm (Bắc Ninh). Ngày 4/8 khai mạc Hội thảo và trình bày các tham luận tại hội trường tầng 2 khách sạn Hanvet, thị trấn Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày 5/8 là các hoạt động ngoại khoá tại thị trấn Tam Đảo.

Nghiên cứu di tích Cổ Loa qua sa bàn tại Nhà trưng bày khu di tích Cổ Loa

Các đại biểu thăm phòng trưng bày và các hiện vật thời An Dương Vương tại khu di tích Cổ Loa

Khảo sát các vòng thành Cổ Loa

Nghiên cứu tại di tích Chùa Dạm (Bắc Ninh)

Nghiên cứu tại di tích Chùa Dạm (Bắc Ninh)

Nguyễn Thơ Đình

 

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Hội thảo khoa học: “Linh nhân Hoàng thái hậu và Khu di tích Đền Ghênh, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”

 

 

Ngày 2 tháng 8 năm 2015, tại thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm) tổ chức hội thảo khoa học “Linh nhân Hoàng thái hậu và Khu di tích Đền Ghênh, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” .Tham dự và chủ trì Hội thảo có PGS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm; PGS.TS. Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học; Ông Đỗ Tiến Sỹ, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy tỉnh Hưng Yên; Ông Đặng Ngọc Quỳnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên; Ông Phạm Anh Quân, Bí thư huyện ủy huyện Văn Lâm, cùng các nhà khoa học đến từ các viện nghiên cứu như: Viện Sử học, Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam thuộc Viện Hàn lâm; Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch; các đại biểu đến từ Cục Di sản, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch; Lãnh đạo các Sở, Ban ngành của tỉnh Hưng Yên; Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và đông đảo cán bộ, nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

PGS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm,
phát biểu tại Hội thảo
     
PGS.TS. Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học,
phát biểu tại Hội thảo

Trong bài phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học đã khẳng định ý nghĩa quan trọng và mục đích của Hội thảo nhằm làm rõ hơn nữa thân thế, sự nghiệp của Linh nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan, cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của Khu di tích Đền Ghênh ngang tầm với công lao to lớn của Linh nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan là bậc “Nữ trung hào kiệt”, danh nhân lịch sử - văn hóa nổi tiếng của đất nước ở thế kỷ XI - XII, Người phụ nữ đã trở thành biểu tượng cho lòng can đảm, trí thông minh, khéo léo, có trách nhiệm lo toan, gánh vác công việc chung Vương triều Lý nói riêng, của quốc gia, dân tộc nói chung .Tên tuổi và sự nghiệp của Linh nhân Hoàng Thái hậu gắn liền với sự nghiệp vua Lý Thánh Tông (chồng Bà) và vua Lý Nhân Tông (con trai Bà).

Ban Tổ chức đã nhận được 24 báo cáo tham luận, đã có 8 báo cáo khoa học được trình bày tại Hội thảo và 10 ý kiến phát biểu thảo luận. Nội dung các báo cáo tham luận và các ý kiến phát biểu rất sôi nổi, thẳng thắn, mang tính khoa học cao tại Hội thảo đều tập trung làm rõ hơn vị trí, vai trò và những đóng góp to lớn của Linh nhân Hoàng Thái hậu đối với Vương triều Lý và sự nghiệp đấu tranh bảo vệ đất nước trước sự xâm lược của quân Tống. Một nội dung quan trọng khác thu hút nhiều sự quan tâm của các đại biểu tham dự là quê hương của Linh Nhân Hoàng Thái hậu. Các tham luận và các ý kiến thảo luận đều nhất trí cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu tài liệu và tìm kiếm các cơ sở khoa học để có thể khẳng định chắc chắn về quê hương của Linh nhân hoàng Thái hậu. Hội thảo cũng dành nhiều thời gian để khẳng định Khu di tích Đền Ghênh là một di sản lịch sử - văn hóa có giá trị, vốn đã được khởi dựng từ thời Lý, tồn tại suốt dưới triều Trần, Lê sơ và đến thời Lê Trung hưng được quy hoạch, xây dựng lại hoàn toàn mới với quy mô rộng lớn hơn. Hiện nay, cùng với Khu di tích Đến Gênh là hệ thống các di tích đình, chùa miếu... hiện hữu trên địa bàn huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng yên và các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội có  liên quan mật thiết đến Linh nhân Hoàng Thái hậu.

Phát biểu kết luận Hội thảo, PGS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm, khẳng định: Hội thảo đã khẳng định giá trị cổ kính, đặc sắc và rất có giá trị về lịch sử - văn hóa, kiến trúc của Khu di tích Đền Ghênh, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Khu di tích Đền Ghênh nằm trong quần thể những di tích thờ Linh nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan ở Hà Nội, Bắc Ninh và Hưng Yên, vì vậy cần có sự kết nối, đoàn kết, một hướng đi cho sự liên kết, phát triển kinh tế -xã hội của ba địa phương là Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh cùng nhiều tỉnh thành khác vì một đất nước Việt Nam hòa bình và thịnh vượng. Từ kết quả đã đạt được của Hội thảo, thay mặt Ban Tổ chức Hội thảo, PGS.TS. Phạm Văn Đức nêu một số đề xuất, kiến nghị như sau:

Toàn cảnh Hội thảo
     
Toàn cảnh Hội thảo

1. Chính quyền và nhân dân thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên cần tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm những tư liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Linh nhân Hoàng Thái hậuỶ Lan, đồng thời làm tốt hơn nữa công tác gìn giữ và phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của Khu di tích Đền Ghênh trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

2. Cục Di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan chuyên môn của tỉnh Hưng Yên chỉ đạo sát sao hơn nữa định hướng quy hoạch, bảo tồn, tôn tạo các hạng mục thuộc Khu di tích, để Khu di tích Đền Ghênh ngày càng khang trang, bề thế và linh thiêng, tương xứng với vai trò, vị thế của Linh nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan trong lịch sử.

3. Lãnh đạo tỉnh Hưng Yên, Hà Nội, Bắc Ninh cần xây dựng kế hoạch và lộ trình cụ thế trong việc tri ân và tôn vinh Linh nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan thông qua việc gắn kết chặt chẽ giữa các di tích thờ thờ Bà nhằm tạo thành một tuyến du lịch lịch sử - văn hóa - tâm linh, phục vụ phát triển du lịch của các địa phương.

4. Sau khi Hội thảo kết thúc, Ban Tổ chức tiến hành việc sửa chữa, bổ sung nội dung các tham luận để in thành Kỷ yếu Hội thảo, phục vụ đông đảo bạn đọc.

Theo Nguyễn Thu Hà (vass.gov.vn)

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lại đổ xô tìm cổ vật ở vùng biển Bình Châu

 

 

Bất chấp lệnh cấm của tỉnh Quảng Ngãi, hàng chục ngư dân lại đổ xô trục vớt cổ vật ở vùng biển Bình Châu - nơi phát hiện nhiều tàu cổ chìm. 

Nhiều ngư dân trục vớt cổ vật trái phép ở vùng biển Bình Châu. Ảnh: Trí Tín.

Nhiều ngày qua, khoảng 40 ngư dân đã đưa sáu tàu thuyền đến bơm thổi cát, lặn vớt cổ vật trái phép ở vùng biển thôn Châu Tân (xã Bình Châu) và xã Bình Phú, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi.

Ông Đoàn Sung, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đoàn Ánh Dương (đơn vị được phép khảo sát, thăm dò cổ vật ở vùng biển Bình Châu) cho biết, tháng 8 hàng năm khi gió Đông Nam về, thủy triều rút đi kéo lớp cát ra xa phát lộ dấu tích tàu cổ kèm theo mảnh gốm sứ vỡ ở vùng gần bờ. Đây cũng là thời điểm tình trạng trục vớt cổ vật trái phép tái diễn.

Căn cứ một số mảnh vỡ cổ vật còn vương lại trên bãi biển, tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi - Phó giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi - nhận định, có thể người dân đang tìm kiếm, trục vớt cổ vật có niên đại từ thời Minh, khoảng thế kỷ 14-15.

Trước tình hình này, UBND tỉnh Quảng Ngãi yêu cầu các cơ quan chức năng phải bảo vệ, ngăn chặn các hoạt động tìm kiếm, trục vớt trái phép. Theo kế hoạch, đến cuối tháng 8, các chuyên gia, nhà khảo cổ sẽ kết thúc sau ba tháng thăm dò, khảo sát cổ vật ở vùng biển Bình Châu.

Thời gian qua các nhà khoa học khảo sát 10 km2 ở eo biển Vũng Tàu (xã Bình Châu) phát hiện 10 tàu cổ đắm. Trong đó, hai con tàu đã được khai quật, số còn lại có nhiều cổ vật gốm sứ, vật dụng thủy thủ đoàn được xác định với nhiều niên đại khác nhau từ thế kỷ 8 đến 18 nằm gần bờ.

Tỉnh Quảng Ngãi đã mời chuyên gia quốc tế nghiên cứu lập bản đồ, hồ sơ di sản văn hóa biển Bình Châu, đề xuất Bộ Văn hóa thể thao - Du lịch công nhận là quần thể di tích tàu cổ đắm cấp quốc gia; mời gọi nhà đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ du lịch gắn với lặn biển ở những khu vực có tàu cổ đắm.

Trí Tín - Vnexpress

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Khảo cổ học Champa sau năm 1975 và hoạt động bảo tồn, bảo tàng

 

 
Du khách nước ngoài thăm Bảo tàng Điêu khắc Chăm.
 Du khách nước ngoài thăm Bảo tàng Điêu khắc Chăm.
 

Chào mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng (1915-2015), sáng 25-7, Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng tổ chức chương trình tọa đàm Khảo cổ Champa sau năm 1975 và hoạt động bảo tồn, bảo tàng; khai mạc trưng bày ba chuyên đề: Di tích Champa tại Đà Nẵng, văn hóa và chữ viết Champa, Cổ vật văn hóa Sa Huỳnh và Champa. Tọa đàm thu hút nhiều nhà khoa học, khảo cổ, các chuyên gia và người yêu văn hóa Champa tham gia.

Năm 1915, theo đề nghị của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Pháp), một tòa nhà đã được xây dựng tại địa điểm này để bảo quản, trưng bày các hiện vật và là tiền thân của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng ngày nay.

100 năm qua, hình ảnh Bảo tàng Điêu khắc Chăm đã trở nên thân thiết trong lòng người dân Đà Nẵng và du khách gần xa.

Trải qua 100 năm, với những biến cố của đất nước, sự ra đời, phát triển của bảo tàng này luôn là kết quả của những nỗ lực và tâm huyết. Năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng là bảo tàng hạng 1, cùng danh sách với 11 bảo tàng loại 1 của Việt Nam.

Sau năm 1975, hoạt động khảo cổ được bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng chú trọng, đây là hoạt động cốt lõi của bảo tàng. Bộ sưu tập quý giá của bảo tàng là kết quả của các cuộc khai quật, sưu tầm từ các di tích Champa trên khắp địa bàn miền trung. Trong những thập niên đầu thế kỷ 20, những nhà khảo cổ người Pháp đã có công trong việc thu thập các hiện vật để đưa về bảo quản ở bảo tàng, nhờ đó đã cứu vãn được phần lớn những hiện vật tiêu biểu tại các di tích Chăm khỏi bị tàn phá bởi những cuộc chiến tranh khốc liệt trong gần một thế kỷ qua. Những nhà khảo cổ và hoạt động văn hóa của Việt Nam tiếp tục có những đóng góp cho việc nghiên cứu, sưu tầm hiện vật Champa. Bộ sưu tập tiếp tục được bổ sung, đáng chú ý là tượng đồng Bồ Tát Tara/Laskmindra Lokesvara sưu tầm ở Đồng Dương, nhóm hiện vật từ di tích Phú Hưng, An Mỹ. Việc phát hiện các hiện vật này tạo nên những bước phát triển mới trong nhận thức, khám phá về nghệ thuật Champa cùng hàng ngàn hiện vật vừa được khai thác tại di tích chăm làng Phong Lệ, Cấm Mít và Quá Giáng.

Nhiều tham luận nghiên cứu sâu của các nhà khoa học, khảo cổ từng có nhiều năm gắn bó với công tác khảo cổ học về Champa được trình bày tại tọa đàm đã phần nào đánh giá được thực trạng bảo tồn, bảo tàng trong thời gian qua.

Tham luận của Tiến sĩ Lê Đình Phụng, Trưởng phòng nghiên cứu khảo cổ học lịch sử, Viện Khảo cổ học: Khảo cổ học về Champa sau năm 1975, những nhận định chung; Gốm cổ Champa Bình Định, thành tựu mới trong nghiên cứu khảo cổ học sau năm 1975 của Tiến sĩ Đinh Bá Hòa, Giám đốc bảo tàng Bình Định; Cấu trúc và trang trí chân tháp tại Chiên Đàn và Khương Mỹ, sự gắn kết giữa nghiên cứu khảo cổ và trùng tu, bảo tồn của ông Hồ Xuân Tịnh, Phó giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quảng Nam; Suy nghĩ về một phương thức đầu tư và quản lý mới phát huy giá trị của bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng của Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Đà Nẵng Bùi Văn Tiếng…

Thống kế sau năm 1975, tại khu vực miền trung, khảo cổ học đã tiến hành khai quật 24 kiến trúc tháp Champa; bốn tòa thành, năm lò gốm cổ, bốn di tích cư trú… Nhìn chung, nền văn hóa Champa là một nền văn hóa lớn, độc đáo giữ vai trò chủ đạo theo suốt chiều dài lịch sẻ văn hoá miền Trung, nổi bật lên là kiến trúc tôn giáo và điêu khắc. Đây là nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, được kế thừa, phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh trước đó.

Hàng trăm hiện vật trong ba bộ sưu tập lớn được trưng bày là các hiện vật và thông tin liên quan đến văn hóa Champa, gồm Di tích Champa tại Đà Nẵng với gốm, thạch anh, kim loại vàng, chữ bia; Cổ vật gốm Sa Huỳnh; Các loại văn khắc, bia, văn bản chữ viết Champa…là một nét xuyêt suốt trong công tác khảo cổ, bảo tồn, bảo tàng văn hóa Champa.

(Theo nhandan.org.vn)

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Tìm thấy hóa thạch ốc biển hơn 240 triệu năm ở Nghệ An

 

 

Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam mới tiếp nhận mẫu hóa thạch ốc biển có kích thước lớn nhất, lần đầu tiên được phát hiện trong địa tầng của kỷ Trias ở Việt Nam.

  • Phát hiện vỉa hóa thạch ốc biển trong động Thiên Đường
  • Phát hiện san hô hóa thạch dưới đáy sông Hương

Phát hiện hóa thạch hơn 240 triệu năm ở Nghệ An

Mẫu do anh Trương Văn Đại, 27 tuổi, công nhân mỏ đá Hoàng Mai, trú tại xã Quỳnh Lộc (thị xã Hoàng Mai, Nghệ An) thu thập được. Cách đây 7 năm, khi đập đá tại mỏ Hoàng Mai, tình cờ anh Đại nhìn thấy một miếng đá vỡ ra có hình dạng, màu sắc rất giống với những con ốc biển, nhưng kích thước lớn hơn nhiều. Cho đây là điều kỳ lạ, anh Đại mang về khoe với gia đình và hàng xóm.

Tìm thấy hóa thạch ốc biển hơn 240 triệu năm ở Nghệ An
Hóa thạch chân bụng Naticopsis spp., có niên đại 247,2-242 triệu năm.

Giống như anh Đại, người dân xung quanh chẳng hiểu hòn đá kỳ lạ từ đâu mà có và nó dần bị lãng quên, thậm chí đã có lúc được mang ra kê chân giàn giáo. Gần đây, anh Đại mang câu chuyện hòn đá có hình dạng và màu sắc tựa những con ốc biển kể với bạn bè. Họ khuyên anh hỏi các nhà khoa học ở Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam).

Ngày 15/7, Giám đốc Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam cùng các nhà khoa học Phòng Địa chất đã vào giám định và xác nhận, đây là hóa thạch của một loài ốc biển. Loài ốc này thuộc ngành động vật thân mềm (Mollusca), lớp chân bụng (Gastropoda), họ Naticopsidae, giống Naticopsis.

Tìm thấy hóa thạch ốc biển hơn 240 triệu năm ở Nghệ An
Cấu tạo vỏ của Naticopsis spp..

Hóa thạch sưu tập được cao 145 mm, rộng 130 mm, dày 7 mm, được xác nhận nằm trong lớp đá vôi màu xám sáng, ứng với khoảng 247,2-242 triệu năm trước. Mẫu hóa thạch được bảo tồn hoàn hảo cấu trúc mặt ngoài của mảnh vỏ, có ý nghĩa khoa học rất cao, đủ tiêu chuẩn để định loại cấp loài.

"Hiện vì chưa đủ văn liệu đối chiếu, chúng tôi tạm thời xác định dưới dạng bỏ ngỏ (Naticopsis spp.), nhưng hoàn toàn có đủ cơ sở để xác nhận đây là một loài có kích thước lớn nhất, lần đầu tiên được phát hiện trong địa tầng của kỷ Trias ở Việt Nam", thạc sĩ Doãn Đình Hùng, chuyên viên của Bảo tàng Thiên nhiên nói.

Ông Hùng cho biết, đến nay các nhà nghiên cứu cổ sinh trên thế giới đã phát hiện được hóa thạch của 85 loài ốc biển thuộc giống Naticopsis trong các đá trầm tích thuộc các tướng biển nông ven bờ, tướng thềm lục địa, trong các rạn ám tiêu san hô cổ; có niên đại từ 449,5 triệu năm (kỷ Ordovic) đến 66,043 triệu năm (cuối kỷ Creta) ở châu Úc, Nam Mỹ, châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ.

Nguồn: Khoa học

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Giải mã thành công cuộn kinh thánh 1.500 tuổi

 

 

Ngày 20/7, Cơ quan khảo cổ Israel (IAA) cho biết công nghệ số tiên tiến đã giúp các nhà khoa học lần đầu tiên đọc được một cuộn sách kinh thánh 1.500 tuổi.

  • Giải mã thành công bản thảo Hebrew cổ nhất
  • Điều bí ẩn trong cuộn sách 2000 năm tuổi

Các nhà khoa học Israel giải mã được cuộn kinh thánh 1.500 tuổi

Một cuộn giấy da có chữ viết tay từ thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên đã được tìm thấy năm 1970 tại một giáo đường ở ốc đảo Ein Gedi, gần Biển Chết ở miền Nam Israel.

Giải mã thành công cuộn kinh thánh 1.500 tuổi
Một phần cuộn kinh thánh cổ 1.500 năm tuổi. (Nguồn: timesofisrael.com)

Theo các nhà nghiên cứu, đây là bản viết bằng tiếng Hebrew (ngôn ngữ Do Thái cổ) lâu đời nhất được tìm thấy sau lần phát hiện các cuộn Biển Chết vào những năm 40 của thế kỷ XX.

Tuy nhiên, thời điểm đó các nhà khoa học chưa đọc được cuộn sách trên do nhiều phần văn bản bị cháy sém.

Cho đến năm ngoái, công ty Công nghệ Merkel của Israel đã đề xuất hỗ trợ bằng cách sử dụng máy quét micro-CT scanner.

Kết quả quét 3D đã được gửi tới trường Đại học Kentucky (Mỹ) để phát triển phần mềm dựng ảnh kỹ thuật số và cho ra những hình ảnh đầu tiên, qua đó các nhà nghiên cứu đã xác định được nội dung bản viết trên cuộn giấy da này chứa 8 điều đầu tiên trong Kinh Cựu Ước Leviticus.

Giám đốc Dự án của IAA Pnina Shor cho biết cần nghiên cứu thêm để giải mã toàn bộ nội dung cuộn văn bản trên.

Bà Shor cho biết thêm cuộn sách trên là một cầu nối quan trọng giữa cuộn Biển Chết cổ nhất thế giới được viết từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên và sách Aleppo Codex ra đời vào thế kỷ thứ X sau Công nguyên./.

Nguồn: Khoa học

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện 21 di tích tiền sử hang động ở biên giới Việt - Lào

 

 

Tháng 6 - 2015, triển khai nhiệm vụ: Nghiên cứu hệ thống các di tích khảo cổ hang động miền núi tỉnh Nghệ An do PGS.TS. Nguyễn Khắc Sử làm chủ nhiệm, đoàn khảo sát Viện Khảo cổ học đã tiến hành thẩm định 28 di tích hang động đã được biết trước đây. Bên cạnh đó, đoàn cũng đã phát hiện mới: 21 di tích tiền sử hang động, 7 hang động danh thắng và 6 di tích ngoài trời thuộc các huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn và Quỳ Châu.

Kết quả khảo sát cho thấy, các di tích này phản ánh các giai đoạn nhất định trong diễn trình phát triển lịch sử của miền núi Nghệ An:

Sớm nhất là di tích Thẩm Ồm, nơi có di tích hóa thạch người khôn ngoan sớm và kỹ nghệ công cụ đá quartz, với niên đại được xác định vào khoảng: 60.000-40.000 BP.

Giai đoạn tiếp theo là các di tích hậu kỳ Đá cũ (khoảng 40.000-15.000 BP), thuộc kỹ nghệ công cụ đá quartz, quartzite với kỹ thuật ghè đẽo thô sơ, nằm cùng hóa thạch động vật trong trầm tích màu vàng rắn chắc, tiêu biểu là Thẩm Ồm (hang ngoài) Thẳm Chàng, vách Hang Bua và Cỏ Ngụn (Quỳ Châu).

Giai đoạn sơ kỳ Đá mới (khoảng 15.000-5.000 BP): xuất hiện của các công cụ kiểu văn hóa Hòa Bình trong trầm tích bở rời chứa vỏ nhuyễn thể nước ngọt, tiêu biểu là các hang: Thẩm Hoi, hang Ong (lớp dưới 3 hang), hang Noọng Mu 1, hang Ông Trạng (huyện Con Cuông), lớp dưới các hang Đồng Trương, Mái đá Bò 1 và 3, hang Vận Động, hang Cửa Lũy và hang Khe Dầu (huyện Anh Sơn); hang Thẳm Bạc Quàng (xã Yên Na, huyện Tương Dương); hang Cỏ Ngụn, hang Bông (lớp dưới), Hang Bua, (huyện Quỳ Châu Châu). Niên đại C14 hang Thẩm Hoi là 10.875±175 BP và 10.125±175 BP.

Giai đoạn hậu kỳ Đá mới (khoảng 5.000-3.000 BP): xuất hiện rìu bôn đá mài toàn thân và đồ gốm thô, văn thừng, tìm thấy trong các hang Đồng Trương (lớp trên), Hang Ong 1 (lớp trên), hang Noọng Mu 2 (Con Cuông); Mái đá Bò 2 (Anh Sơn), Hang Bông (lớp trên), hang Cỏ Ngụn (lớp trên) (Quỳ Châu). Sơ kỳ Kim khí tiêu biểu là các di tích ngoài trời ở huyện Tương Dương như: Đền Vạn, Đền Đồi, Cửa Rào 2 và Khe Hấu.

Từ thực tế khảo sát trên cho thấy, khảo cổ học hang động Nghệ An, đặc biệt là khu vực biên giới giáp với nước bạn Lào có tiềm năng rất lớn. Qua đây chúng tôi kiến nghị các cấp có thẩm quyền cần xây dựng dự án điều tra tổng thể đối với các di tích hang động trên địa bàn. Từ những kết quả thu được sẽ là tiền đề cho việc xây dựng qui hoạch bảo tồn và tiến tới khai thác du lịch văn hóa, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở các huyện miền núi Nghệ An. 

Ảnh 1. Hang Đồng Trương, huyện Anh Sơn, Nghệ An 2015

 

Ảnh 2. Khảo sát mái đá Bò 2, huyện Anh Sơn

 

Ảnh 3. Khảo sát thẳm Cỏ Ngụn (hang Cây Gạo), huyện Quỳ Châu

 

Ảnh 4. Hóa thạch động vật Thẩm Ồm

 

Ảnh 5. Công cụ ghè đẽo Thẩm Ồm

 

Ảnh 6.Trụ và nhũ đá trong hang Tôn Thạt

 

Ảnh 7Nhũ đá trong hang Tôn Thạt

 

Ảnh 8Nhũ đá (hình Linga) hang Tôn Thạt

 

Ảnh 9. Cảnh khai thác đá gần hang Đồng Trương, huyện Anh Sơn

 

Phan Thanh Toàn

 
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Giữ gìn biểu tượng của làng quê Việt

 

 

Mái đình với những đầu đao cong vút, những mảng chạm phượng múa rồng bay hay hình ảnh những cô gái áo tứ thân yếm thắm, bên những gốc đa già xum xuê, ký ức dựng làng, giữ nước tạc ghi trên mỗi đường nét đình làng. Trải qua bao biến thiên, nhiều mái đình không còn nguyên vẹn. Làm thế nào để giữ gìn những mái đình trường tồn với thời gian? Nhóm Đình làng Việt đã trao cho mỗi người dù công tác ở những ngành nghề khác nhau một cơ hội để góp phần giữ gìn những biểu tượng của làng quê Việt.

 
Thành viên nhóm Đình làng Việt trong chuyến điền dã tại đình Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh).
 

Cơ hội để mọi người cùng gìn giữ đình làng

Hôm nay, bé Xuân Nam đi điền dã cùng nhóm Đình làng Việt tại đình So (huyện Quốc Oai, Hà Nội). Cậu bé lên bảy tuổi say sưa nghe diễn giả giới thiệu về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, niên đại... của ngôi đình. Thi thoảng Nam ồ lên, hoặc thì thầm với bạn về những điều cậu thấy thú vị. Mặc dù có mẹ đi cùng, nhưng Nam "bỏ rơi" mẹ để khám phá không gian to lớn, với nhiều điều lý thú đối với một cậu bé lớn lên giữa "rừng" bê-tông ở Hà Nội. Cậu bé có người "bạn thân" là kiến trúc sư Hồ Hồng Nam. Anh luôn bị bé Nam vặn vẹo đủ điều về làng quê, về mái đình..., trong đó, có nhiều câu không dễ trả lời. Người mới gặp ngạc nhiên về "ông cụ non" Xuân Nam, nhưng với những thành viên nhóm Đình làng Việt thì Xuân Nam là một thành viên... kỳ cựu. Nam đã tham gia năm trong tổng số tám chuyến điền dã những ngôi đình ở vùng Bắc Bộ cùng các thành viên của nhóm. Với những cậu bé như Nam, còn quá nhỏ để thẩm thấu hết những nét đẹp của ngôi đình, nhưng những chuyến đi sẽ gieo vào tâm hồn các em tình yêu, niềm tự hào với di sản. Đó là điều mà những người tạo dựng lên nhóm Đình làng Việt luôn khuyến khích.

Người khởi xướng nhóm Đình làng Việt là nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Bình (Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh - Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm). Mộc mạc, chân chất, anh rất hợp với biệt danh "Trưởng thôn" mọi người thường gọi. Hơn hai chục năm qua, không thể tính hết những ngôi đình anh đã đi qua. Không nhớ bao lần Nguyễn Đức Bình đánh đu trên xà, bò lổm ngổm trên mái đình để đo đạc, để vẽ lại những mảng chạm khắc. Bất kỳ mẩu thông tin nào hay về đình làng anh cũng tìm đọc. Ấy thế mà mỗi chuyến về với đình làng, thêm một lần anh ngỡ ngàng. Đây là cảnh người đi cày, đá cầu, đấu vật; kia là người phụ nữ vừa cho con bú, vừa cho lợn ăn, lại có cả cảnh gái trai đang tình tự... Ngôi đình đâu chỉ là nơi thờ thành hoàng với phượng múa rồng bay mà còn là không gian sinh hoạt cộng đồng. Nó gần gũi, đời thường, là kho kiến thức về điêu khắc, kiến trúc, chất chứa bao câu chuyện dân gian mà chưa sách nào ghi hết... Khoảng trống kiến thức về đình làng trong nghiên cứu mấy chục năm qua vẫn mênh mông quá. Nguyễn Đức Bình thành lập nhóm Đình làng Việt trên facebook, tạo một "sân chơi" để những nhà nghiên cứu, kiến trúc sư chia sẻ, trao đổi thông tin. Ông "Trưởng thôn" cặm cụi "mổ cò" đưa những hình ảnh độc đáo về đình làng lên mạng, cặm cụi chú giải, cùng các chuyên gia bàn luận.

Nhiều phát hiện mới được tìm ra, từ ngay những tấm hình cũ, song dường như vẫn còn thiếu điều gì. Cùng lúc ấy, thông tin về những vụ phá đình, rồi trùng tu hỏng cứ liên tục dội về. Lý do thì nhiều, trong đó có câu chuyện về nhận thức của cộng đồng. Kiến thức về đình làng chủ yếu nằm trong giới nghiên cứu, trong sách vở mà không phải ai cũng có điều kiện tiếp cận. "Trưởng thôn" Nguyễn Đức Bình cùng cộng sự quyết định mở rộng đối tượng tham gia nhóm Đình làng Việt... Chỉ một thời gian ngắn, thành viên tham gia đã đạt con số 4.000 người. Đến giờ anh vẫn chưa hết ngạc nhiên: "Không ngờ có nhiều người quan tâm đến thế. Rất nhiều đối tượng tham gia: bác sĩ, kỹ sư, sinh viên, có cả những doanh nhân... Đó là động lực để nhóm tổ chức thêm các hoạt động, như những chuyến đi thực tế với hướng dẫn viên là những nhà nghiên cứu uy tín".

Mỗi khi nói đến nhóm Đình làng Việt, mẹ bé Xuân Nam - chị Nguyễn Thị Thanh Hà, nhà ở phố Lê Đại Hành (Hà Nội) luôn dùng hai từ "may mắn". Chị bảo, với rất nhiều người Việt, từ ấu thơ, những trò chơi con trẻ đã diễn ra ngay trong sân đình. Ngày nắng nóng, người lớn, trẻ con tụ tập hóng mát dưới gốc đa đình làng. Những mái đao vút lên, những nét chạm tài hoa, những chùm rễ đa xum xuê... đi vào ký ức. Nhưng, cuộc sống khiến người ta xa dần mái đình thân thuộc. Mỗi khi nghe thấy chuyện tiêu cực chung quanh ngôi đình, không mấy ai không thấy chạnh lòng. Song, dẫu có yêu mến mái đình, người ta cũng không dễ tiếp cận, để góp một bàn tay gìn giữ nếu không trực tiếp làm việc trong lĩnh vực di sản. Khi biết hoạt động của nhóm Đình làng Việt, chị Hà nhận ra một cơ hội... Chị chia sẻ: "Mình gắn bó với đình làng từ nhỏ. Dù làm việc trong lĩnh vực thiết bị y tế, mình luôn muốn tìm hiểu thêm về những nét văn hoá đình làng và truyền lại tình yêu với văn hóa cổ cho con trai. Nhóm Đình làng Việt giúp mình hiện thực hóa điều đó. Sau mỗi chuyến đi thực tế, bé Xuân Nam nhà mình càng say mê hơn".

Trăn trở những điều còn - mất

Nhóm Đình làng Việt đang tiến những bước chậm rãi, mà chắc chắn. Mục tiêu của nhóm giờ đã được mở rộng hơn. Thành viên của nhóm đã lên tới hàng nghìn người, mỗi người một nghề nghiệp, một hoàn cảnh. Chất kết dính họ lại với nhau hôm nay được gói gọn trong mấy từ: Mái đình và những điều còn - mất. Nhóm đã trưởng thành hơn, nhưng những trăn trở của ông "Trưởng thôn" Nguyễn Đức Bình vẫn chưa bao giờ vợi bớt: "Cách đây không lâu, khi đến đình Vường (xã Liên Chung, huyện Tân Yên, Bắc Giang), tôi thấy ngôi đình giữ được nhiều giá trị nguyên vẹn, nhất là bức tường bao bằng đất hiếm gặp. Tôi gặp lãnh đạo xã và dặn đi, dặn lại: "Dù thế nào cũng phải giữ được bức tường, đây là cái độc đáo riêng có của địa phương". Thế nhưng chỉ ít hôm sau, tôi nhận được thông tin bức tường đã bị đập đi. Khi đến tận nơi, bức tường rêu phong không còn, một bức tường gạch được xây lên. Rõ ràng họ biết giá trị của bức tường, nhưng vẫn phá. Từ những nỗi đau này, chúng tôi tự đặt ra những nhiệm vụ nặng nề hơn, mỗi thành viên cố gắng làm mọi điều để gìn giữ di tích trong khả năng và phạm vi được phép". Những thành viên của nhóm Đình làng Việt chia sẻ cho nhau kinh nghiệm về bảo tồn, để có thể tham gia "cứu" đình làng. Và họ phát hiện khá nhiều vụ xâm phạm di tích, chẳng hạn vụ tu bổ như phá đình Tiên Canh (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc); hay việc đình Cam Thịnh (làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội) "tiết kiệm" ngói bằng cách "độn" gạch lỗ trong quá trình trùng tu. Nhóm cũng tích cực tuyên truyền về việc không sử dụng các sản phẩm không phù hợp với thuần phong mỹ tục trong di tích.

Nâng cao nhận thức cộng đồng luôn là điều cốt yếu. Những thành viên của nhóm Đình làng Việt đã được các chuyên gia như Nguyễn Đức Bình, Trần Hậu Yên Thế... trao cho kiến thức, đam mê. Bây giờ, nhiệm vụ của họ là đem kiến thức đến cộng đồng. Hiện thực hóa điều này, nhóm Đình làng Việt đang chuẩn bị cho triển lãm ảnh "Đình làng Việt, những điều còn - mất" vào đầu tháng tám năm nay. Ở đây sẽ có rất nhiều câu chuyện về đình làng, về những trăn trở mà các thành viên trong nhóm gửi gắm. Để đến được với cộng đồng, nhóm Đình làng Việt sẽ chọn cách tiếp cận phi truyền thống. Sau khi trưng bày tại Dolphin Plaza (28 phố Trần Bình, Hà Nội), toàn bộ ảnh sẽ được chuyển đến các trường đại học và trưng bày ở chính những ngôi đình làng. Cũng vì nhận thức cộng đồng, nhóm sẵn sàng tư vấn, cử người tham gia hướng dẫn bất kỳ công ty du lịch nào muốn mở tua tham quan đình làng...

Đôi khi chúng ta nghĩ việc gìn giữ mái đình là của ai đó. Nhưng nhóm Đình làng Việt khiến ta phải nhìn nhận lại. Tôi nhớ những tiếng "ồ", "à" của những thành viên Đình làng Việt khi được giới thiệu về sự tài khéo, về thông điệp của người xưa. Tôi nhớ hình ảnh những thành viên công kênh nhau giữa trời nắng gắt 37 đến 38 độ C để ghi lại những bức hình về nghệ thuật chạm khắc. Tôi nhớ khuôn mặt buồn của một số thành viên đã đi cả chục cây số đến các ngôi đình, rồi bị đuổi về vì không có "dấu đỏ" của chính quyền... Và tôi lại nhớ những câu hỏi ngây thơ của bé Xuân Nam. Những con người ấy đang miệt mài vì những điều còn - mất, để một mai, chúng ta bớt đi nỗi lo về sự mất - còn của những biểu tượng làng quê Việt...

Buổi tọa đàm có sự tham gia của nhóm Đình làng Việt tại đình Chu Quyến (Ba Vì, Hà Nội).

Vẻ đẹp đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội).

Không gian đình Hữu Bằng (Thạch Thất, Hà Nội).

Trăn trở những điều còn mất (dấu tích còn lại của đình Vo Trung, Long Biên, Hà Nội).

(Theo nhandan.com.vn)

 

 
 
 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Gương mặt văn hóa Việt Nam qua nhiều thế kỷ

 

 

- Tác giả: GS. Vũ Ngọc Khánh

- Nxb: Văn hóa - Thông tin

- Số trang: 515 trang

- Khổ sách: 16 x 24 cm.

- Hình thức bìa: mềm

Năm 2004, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin đã xuất bản cuốn sách Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, tập hợp các bài viết và nói chuyện của GS. Vũ Ngọc Khánh. Những bài này của tác giả phát biểu rải rác ở nhiều nơi, chứ không ở một tác phẩm riêng nào, tập hợp lại vẫn có một giá trị nhất định.

Tuy nhiên, những bài viết ấy được thu thập vẫn chưa đầy đủ, vì suốt những năm 60 của thế kỷ trước cho đến bây giờ, tác giả vẫn không ngững nghiên cứu và đăng tải những bài viết về văn hóa. Hầu như ở tất cả các cuộc hội thảo về các sự kiện văn hóa Việt Nam trong Nam ngoài Bắc suốt hàng chục năm nay, GS. Vũ Ngọc Khánh vẫn luôn được mời góp ý kiến và các ý kiến của ông đều có giá trị phát hiện hay sơ kết nhất định. Từ những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử như Trần Hưng Đạo, Chu An …, đến những bài thơ lãng mạn của Xuân Diệu, các hoạt động chính trị kết thúc thời đại phong kiến (như Phạm Khắc Hòe) rồi đến người đương thời vừa quá cố (như linh mục Trương Bá Cần), tác giả đều điểm đến và đều có sự đóng góp mới.

Cuốn sách Gương mặt văn hóa Việt Nam qua nhiều thế kỷ được xuất bản lần này gom góp lại các bài tham luận của GS. Vũ Ngọc Khánh ở nhiều cuộc hội thảo về các vấn đề văn học, sử học kể từ 1960 đến nay. Hầu hết các bài viết đều mang nội dung đề cập đến các nhân vật quen tên biết tiếng với thời đại, còn đối với 3 nhân vật lớn như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn hay Trường Chinh thì được nhóm soạn giả đề cập trong một công trình quy mô hơn.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Sưu tập sổ bộ Hán Nôm Nam Bộ (1819-1918) tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II.

 

 

- Tác giả: Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Cục Văn thư Lưu trữ Nhà Nước.

- Nxb: Chính trị Quốc Gia

- Số trang: 499 trang

- Khổ sách: 20,5 x 28 cm

- Hình thức bìa: cứng

Sổ bộ Hán Nôm hiện được lưu trữ, bảo quản tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II - Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Bao gồm các loại sổ ghi chép của các viên chức địa phương về các hạng mục như: đinh, điền, diêm điền, thuyền, ngưu, công nghệ, kiểu lộ, thanh nhân, thế, sinh, tử, hôn thư, viên chức, thu chi, …. Trong từng thôn, xã tại Nam Kỳ (An Giang, Biên Hòa, Định Tường, Gia Định, Hà Tiên, Vĩnh Long) từ năm 1819 đến năm 1918, theo từng tháng, từng năm, nhằm quản lý về con người và tài sản của địa phương phục vụ cho việc thu các sắc thuế. Thông qua từng loại sổ sách được ghi chép một cách cụ thể, chi tiết về các hạng mục phải đóng thuế và những công việc liên quan đến việc thu thuế của từng xã thôn tại Nam Kỳ, cho thấy rõ mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam tại Nam Kỳ trước và sau khi thực dân Pháp tiến hành chính sách khai thác thuộc địa, cũng như chính sách thuế khóa, sưu dịch dưới thời phong kiến Pháp thuộc.

Qua việc nghiên cứu khối tài liệu này, sẽ cho chúng ta thấy bức tranh khá toàn diện về đời sống của người nông dân Nam Bộ dưới chế dộ phong kiến nhà nGuyễn và chế dộ phong kiến nửa thực dân từ đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về đất nước và con người Việt Nam nói chung và đời sống của người dân Nam Bộ xưa nói riêng.

Với mục đích cung cấp thêm cho bạn đọc nguồn tư liệu rất có giá trị trong việc tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của mảnh đất và con người Nam Bộ trong giai đoạn 1819-1918, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật phối hợp với Trung tâm lưu trữ quốc gia II xuất bản cuốn sách Sưu tập sổ bộ Hán Nôm Nam Bộ (1819-1918) tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ngô Thị Nhung

 
 
 
Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9026298
Số người đang online: 17