
Dày 100 trang (cả bìa) – Khổ 19cm x 27cm
STT | Tr |
1 |
Về di cốt người cổ ở Bàu Dũ (Quảng Nam) khai quật năm 2014
NGUYỄN LÂN CƯỜNG
“Địa điểm Bàu Dũ nằm trong cồn sò điệp ở thôn Phú Trung, xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Địa điểm này đã được phát hiện năm 1981 và khai quật lần thứ nhất năm 1983, xuất lộ 3 mộ táng. Năm 2014, Bảo tàng Quảng Nam tiến hành khai quật lần thứ 2 phát hiện 6 mộ táng/di cốt người. Di chỉ Bàu Dũ có niên đại C14 là 5330±60 BP.
Bài báo công bố kết quả quan sát hiện trường, mô tả táng tục và đo đạc các chỉ số nhân trắc, xác định bệnh lý, đặc điểm nhân chủng các mộ táng/di cốt người ở di chỉ Bàu Dũ. Theo đó, tác giả cho rằng hầu hết di cốt được chôn theo tư thế ngồi bó gối – một dạng mai táng chủ yếu của cư dân văn hóa Hòa Bình, Quỳnh Văn và Đa Bút…Di cốt người của mộ ký hiệu 14HDHIL5M4 có tục nhổ 4 răng cửa của xương hàm dưới. Dựa vào hệ số tương quan Q-mode, thì sọ cổ Bàu Dũ (nữ) gần nhất với những sọ cổ thuộc văn hóa Hòa Bình”. |
3 |
2 |
Kết quả khai quật di chỉ Hòn Ngò (Quảng Ninh) năm 2014
LƯU VĂN PHÚ, TRỊNH HOÀNG HIỆP, NGUYỄN THƠ ĐÌNH
“Di chỉ Hòn Ngò phân bố trong khu vực bãi triều cạnh cửa sông Hà Thanh, thuộc đội 5, thôn Hà Tràng Đông, xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc khai quật lần đầu tiên tại di chỉ này vào năm 2014 với diện tích 200m2 (8 hố khai quật) ở khu vực phía nam di chỉ.
Tầng văn hóa di chỉ Hòn Ngò đã bị phá hủy, di vật phát hiện được trên bề mặt hoặc trong lớp bùn phù sa. Di vật chủ yếu là công cụ đá ghè đẽo với loại hình phổ biến là công cụ mũi nhọn; công cụ mài hiếm, một số mảnh đồ gốm thô giống gốm sớm ở di chỉ Cái Bèo lớp dưới. Sưu tập di vật này được xác định thuộc giai đoạn trung kỳ Đá mới có hai giai đoạn: khoảng 7.000-6.000 nghìn năm BP và 4.500 năm BP. Di chỉ này có mối liên hệ gần gũi với di chỉ Cái Bèo (Lớp dưới), Thoi Giếng (lớp dưới) và một số di tích ở ven biển tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, gần với tỉnh Quảng Ninh”. |
17 |
3 |
Những kết quả nghiên cứu ban đầu các hiện vật đá ở Tràng Kênh, Hải Phòng, miền Bắc Việt Nam
YOSHIYUKI IIZUKA, TOMOMI SUZUKI, EMILYMIYAMA, NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG, MAROKO YAMAGATA
“Di tích Tràng Kênh nằm ở phía đông của Núi Ao Non gần cửa sông Thái tại thành phố Hải Phòng. Di chỉ được Viện Khảo Cổ học hợp tác với Trường Đại học Trung hoa Hồng Kông khai quật lần thứ 3 tại Khu B của di chỉ vào năm 1997. Theo báo cáo của Nguyễn Kim Dung và Tang Chung (năm 2000), rất nhiều mảnh gốm và hiện vật đá được phát hiện từ những lớp dưới của hố khai quật.
Trong báo cáo này, nhóm tác giả trình bày các kết quả nghiên cứu về khoáng vật với việc sử dụng kính hiển vi điện tử quét với đầu thu năng lượng khuếch tán tia X (SEM-EDS: Scanning electron microscope with X-ray energy dispersive techniques) mà không làm xâm hại hiện vật trên 22 tiêu bản lõi vòng được cho là từ nguồn đá ngọc của di tích Tràng Kênh. Các phân tích trên các tiêu bản lõi vòng đều là đá ngọc nephrite và có thể chia thành 2 nhóm theo thành phần khoáng vật là tremolite và actinolite. Trong đó Tremolite nephrite có màu trắng chiếm đa số ở di tích Tràng Kênh. Nghiên cứu về nguồn gốc của đá ngọc nephrite cho thấy loại actinolite nephrite (màu xanh lá cây) của Đài Loan được phát hiện ở Philippines, Borneo, miền Trung và Nam Việt Nam và bán đảo Thái Lan nhưng chưa bao giờ được phát hiện ở miền Bắc Việt Nam. Nhóm các nhà nghiên cứu gợi ý khả năng phát hiện được các mạch đá ngọc Tremolite nephrite trong các dãy núi đá vôi ở khu vực Tràng Kênh”. |
29 |
4 |
Dấu vết lúa gạo mới phát hiện ở miền Bắc Việt Nam
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
“Bài báo đề cập đến một số phát hiện về những hạt thóc gạo ở di chỉ Thành Dền, huyện Mê Linh, Hà Nội (niên đại khoảng 3.000 BP), trong ngôi mộ gạch thời Lục Triều ở Ciputra, huyện Từ Liêm, Hà Nội (thế kỷ IV - VI) và đàn Xã Tắc, quận Đống Đa, Hà Nội (thế kỷ X). Thông qua phân tích hình thái các hạt lúa gạo và nghiên cứu so sánh, tác giả bước đầu xác định quá trình phát triển của các dạng lúa trồng ở Việt Nam và gợi mở khả năng liên quan đến các hoạt động sử dụng ngũ cốc trong nghi lễ mai táng thời bấy giờ trên vùng đất Thăng Long xưa”.
|
40 |
5 |
Đền Hindu ở Ấn Độ và trong văn hóa Óc Eo
ĐẶNG VĂN THẮNG
“Bài báo giới thiệu những nét cơ bản về hệ thống đền Hindu ở Ấn Độ với đặc điểm kiến trúc, hệ thống thờ thượng thần, thực hành nghi lễ và một số khác biệt về đền thờ Hindu giữa Bắc Ấn và Nam Ấn.
Văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng của văn hóa Hindu nên kiến trúc và hệ thống nghi lễ thờ cúng có nhiều điểm tương đồng , tuy nhiên cũng có những nét riêng biệt. Tác giả mô tả và hệ thống hóa các đền Hindu trong văn hóa Óc Eo, qua đó phân loại chúng qua các dạng kiến trúc như: đền không có mái che, đền có mái che và đền xây dựng bằng gạch, đá. Hệ thống biểu tượng hay tượng thờ trong đền có thể là thần Mặt trời, tượng Shiva hay Visnu gắn với tín ngưỡng Ấn độ giáo của cư dân văn hóa Óc Eo suốt từ thế kỷ I đến thế kỷ XII AD”. |
51 |
6 |
Nhận diện La Thành (Thăng Long) qua kết quả khai quật đê Bưởi
NGUYỄN DOÃN VĂN
“La thành Thăng Long là vòng thành ngoài cùng của thành Thăng Long. Từ cuối năm 2012 đến cuối năm 2015, Ban quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội và Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật, nghiên cứu trên diện tích 1.600m2 ở 4 địa điểm là Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn và Bưởi trên đường đê Bưởi, Hà Nội. Địa tầng xuất lộ qua các hố khai quật cho thấy dấu vết các lớp đất đắp đê – thành thuộc nhiều thời kỳ từ thời Đại La qua thời Lý – Trần đến thời Lê sơ. Các di tích và di vật phát hiện được gồm mộ táng, lò nung vật liệu xây dựng, gạch, ngói, đồ gốm sứ…là chứng tích về một công trình kiến trúc khá quy mô tồn tại gần 10 thế kỷ trong lịch sử.
Cùng với các công trình kiến trúc khác, La thành Thăng Long là một phần diện mạo của Kinh đô Thăng Long trong lịch sử, là một trong những niềm tự hào của lịch sử dân tộc, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của một dân tộc sau hàng ngàn năm Bắc thuộc”. |
63 |
7 |
Di vật tùy táng phát hiện trong một số lăng mộ thời Nguyễn ở Nam Bộ
LƯƠNG CHÁNH TÒNG
“Bài báo giới thiệu khá chi tiết về các đồ tùy táng phát hiện được trong các lăng mộ thời Nguyễn ở Nam Bộ. Qua đó cho thấy, mức độ đồ sộ về số lượng, sự phong phú về loại hình, kiểu dáng và chất liệu của các di vật này. Chúng bao gồm các loại triều phục, đồ trang sức, đồ dùng sinh hoạt… bằng các loại chất liệu vàng, bạc, đồng, đá quý, đồ sứ… Đồ tùy táng trongcác lăng mộ phản ánh địa vị xã hội và đời sống sinh hoạt của các quan lại cao cấp của xã hội đương thời. Nghiên cứu các đồ tùy táng trong lăng mộ góp phần tìm hiểu về quan chế, trang phục, kinh tế xã hội dưới thời Nguyễn ở Nam Bộ”.
|
74 |
8 |
Tín ngưỡng nông nghiệp của người Thái ở NGệ An và Thanh Hóa
LÊ HẢI ĐĂNG
“Ở Việt Nam, người Thái cư trú tập trung ở các tỉnh Tây Bắc và miền Tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Do cư trú ở vùng thung lũng, người Thái sinh sống dựa vào canh tác nông nghiệp, chủ yếu là lúa nước. Người Thái tổ chức nhiều nghi thức, lễ cúng trời đất, thần linh để cầu cho mùa màng bội thu, người yên vật thịnh. Và khi kết thúc mùa vụ, người Thái lại tổ chức lễ tạ ơn thần linh để tỏ lòng thành kính và cảm tạ sự bảo hộ của đấng siêu nhiên. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tìm hiểu một số nghi lễ cầu mùa cơ bản và ý nghĩa của chúng trong bối cảnh văn hóa của cộng đồng người Thái. Các nghi lễ đó là: Lễ cầu mưa, lễ xuống giống (gieo cấy), lễ cúng ruộng đồng, lễ cúng làm đòng (ngô/lúa ra hoa), lễ trừ sâu bệnh, nghi lễ thu hoạch và bảo quản, lễ cơm mới, lễ hiến tế trâu…
Các nghi lễ, nghi thức cầu cúng không chỉ là niềm tin tuyệt đối với đấng siêu nhiên, mà còn thể hiện tâm lý, tình cảm và tín ngưỡng vạn vật hữu linh tồn tại đến tận ngày nay. Trong đó có nhiều điểm tích cực là hướng con người đến cuộc sống ấm no hạnh phúc, yêu thiên nhiên, yêu đồng loại và đặc biệt là tinh thần cố kết cộng đồng bền chặt, cần được gìn giữ, phát huy”. |
93 |
CONTENTS
No | Page | |
1 |
About ancient human bones from Bàu Dũ site (Quảng Nam provice) in 2014 excavation
NGUYỄN LÂN CƯỜNG
“The Bàu Dũ site is located on a mollusc-shell mound at Phú Trung hamlet, Tam Xuân 1 commune, Núi Thành district, Quảng Nam province. This site was discovered in 1981 and first excavated in 1983, and three burials were found then. In 2014, the provincial Museum of Quảng Nam conducted the second excavation and found 6 more burials/human bones. The Bàu Dũ site was 14C-dated to 5330±60 BP.
This paper announces the results of the on-site observation, the description of the burial custom, the anthropometric indexes, the pathological identification, and the anthropological identification of the burials/human bones from the Bàu Dũ site. As a result, the author supposes that most of the bones in sitting position - the main burial type of the inhabitants of the Hòa Bình, Quỳnh Văn and Đa Bút cultures. The bones from the burial coded 14HDHIL5M4 demonstrate the custom of extracting 4 incisors of the lower jaw. Based on the relevant coefficient Q-mode, the ancient skulls (female) from the Bàu Dũ site are the closest to the ones of the Hòa Bình culture”. |
3 |
2 |
Excavation results from Hòn Ngò site (Quảng Ninh privice) in 2014
LƯU VĂN PHÚ, TRỊNH HOÀNG HIỆP, NGUYỄN THƠ ĐÌNH
“The Hòn Ngò site is located in a tidal beach near the estuary of the Hà Thanh river, which belongs to the Unit 5, Hà Tràng Đông hamlet, Đông Hải commune, Tiên Yên district, Quảng Ninh province. The first excavation was conducted at the southern side of the site in 2014 in the 200m2 area (with 8 excavated trenches).
The cultural layer of the Hòn Ngò site was destroyed, and the artifacts were found on the site or in an alluvial muddy layer. The artifacts are mainly chopped stone tools with a popular type of pointed tools, a few ground tools and some early coarse potsherds from the lower layer of the Cái Bèo site. This collection of the artifacts has been identified from the middle Neolithic period with two stages: c.7,000 BP - 6,000 BP and 4,500 BP. This site was closely related to the Cái Bèo site (the lower layer), the Thoi Giếng site (the lower layer) and some other coastal sites of Guangxi province (China), near Quảng Ninh province”. |
17 |
3 |
Initial results of the research on stone artifacts from Tràng Kênh, Hải Phòng, Northern Việt Nam
YOSHIYUKI IIZUKA, TOMOMI SUZUKI, EMILYMIYAMA, NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG, MAROKO YAMAGATA
“The Tràng Kênh site is located to the south of the Núi Ao Non site near the estuary of the Thái river in Hải Phòng city. The site was excavated the third time at the Section B in 1997 by the Việt Nam Institute of Archaeology and the Chinese University of Hongkong. According to the report from Nguyễn Kim Dung and Sang Zhong (2000), many potsherds and stone artifacts were found from the lower layer of the excavated trench.
In this report, the authors introduces the results from the study on minerals and the use of SEM-EDS (Scanning electron microscope with X-ray energy dispersive techniques) without interfering the 22 samples of the bracelet cores considered to be from the jade resource of the Tràng Kênh site. The analysis shows that the samples are nephrite and can be divided into 2 groups of tremolite and actinolite minerals. Of which white Tremolite nephrite accounts for the most at the Tràng Kênh site. The research into the source of nephrite indicates that the Taiwan actinolite nephrite (green) was found in Philippines, Borneo, the central and southern Việt Nam and the Thai peninsular, but it has never been found in Northern Việt Nam. The researchers suggest the possibility to find Tremolite nephrite from the limestone mountains in the Tràng Kênh area”. |
29 |
4 |
Rice traces at some archaeological sites in Northern Việt Nam
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG
“The paper refers to some discoveries of burnt rice seeds from the Thành Dền site, Mê Linh district, Hà Nội (c.3,000 BP), in the brick tomb from the period of the Six Dynasties at Ciputra, Từ Liêm district, Hà Nội (the fourth - sixth centuries) and Xã Tắc Altar, Đống Đa distirct, Hà Nội (the tenth century). Based on the analysis of the burnt rice and the comparative research, the author initially identified the development process of the rice grown in Việt Nam and suggests the possibility related to the activities with the use of cereals in the burial ceremony at that ime in the ancient Thăng Long land”.
|
40 |
5 |
Hindu temples in India and Óc Eo culture
ĐẶNG VĂN THẮNG
“The paper introduces the main features of the system of Hindu temples in India, with the architectural features, the system of top deity altars, the practice of ritual ceremonies and some differences of the Hindu temples between northern and southern India.
The Óc Eo culture was affected by the Hindu culture; therefore their architect and the systems of cultive ceremonies share many similarities, but also include different features. The author has described and systematized the Hindu temples in the Óc Eo culture, through which he has classified them in terms of architectural types: the temple with roofs, the temple without roofs and the brick, stone ones. The symbolic system or the statues in the temples might be the solar deity, Shiva or Vishnu closely related to Hinduism for the Óc Eo-culture inhabitant from the first century to the twelveth century AD”. |
51 |
6 |
Indentification of La citadel (Thăng Long) excavation results from Đê Bưởi site
NGUYỄN DOÃN VĂN
“The La citadel is the outer one of the Thăng Long citadel. From the end of 2012 to the end of 2015, the Management Department of Relics and Landscapes of Hà Nội and the Việt Nam Institute of Archaeology conducted an excavation and research on the 1,600m2 area including the 4 sites at Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn and Bưởi on the Bưởi-dike road, Hà Nội. The strata exposed in the excavated trenches reveal traces of the dike-citadel layers from the Đại La period through the Lý - Trần ones to the early Lê period. The found relics and artifacts include burials, kiln for making building materials such as bricks, tiles and ceramics/porcelain, etc., which are the evidence of a fairly large-scale architectural monument existing for nearly 10 centuries in the history.
Cùng với các công trình kiến trúc khác, La thành Thăng Long là một phần diện mạo của Kinh đô Thăng Long trong lịch sử, là một trong những niềm tự hào của lịch sử dân tộc, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của một dân tộc sau hàng ngàn năm Bắc thuộc”. |
63 |
7 |
Funeral goods found in some mausoleums from Nguyễn period in Southern Việt Nam
LƯƠNG CHÁNH TÒNG
“The paper introduces the accompanied goods found from the Nguyễn-period mausoleums in southern Việt Nam in details. This demonstrates the imposing level of the quantity, the rich forms and materials of these artifacts. They include the royal outfits, ornaments, daily utensils, etc., made of such materials as gold, silver, precious stones, bronze, porcelain, etc. the accompanied good in the mausoleums reflect the daily life of the high-ranking mandarins of the contemporary society. The research into these goods contributes to better awareness of the civil service system, dress codes, and the social economy in the Nguyễn period in southern Việt Nam”.
|
74 |
8 |
Agricultural beliefs of Thái minority in Nghệ An and Thanh Hóa province
LÊ HẢI ĐĂNG
“In Việt Nam, the Thái minority focally live in Tây Bắc provinces and the western areas of Thanh Hóa and Nghệ An provinces. Due to their settlements in the valleys, they live on agricultural cultivation, mainly wet rice. They hold many ceremonies for praying the heaven/earth and deities to ask for good crops and peaceful and wealthy life. And after the farming seasons, they hold the thanksgiving ceremony to express their gratitude to the protection of the super naturals. In this paper, the author presents his study of some basic ceremonies for good seasons and their significance in the cultural context of the Thái communities. These ceremonies are for raining, cultivation, praying fields, praying for maize/rice to blossom, praying for elimination of pests/insects, harvesting and maintenance, new rice, buffalo sacrifice, etc.
The praying ceremonies and rituals not only demonstrate the absolute beliefs in the super naturals, but also show psychological, sentiment expressions and beliefs in living beings/spirits until now. In which there are many positive points such as leading human beings to a well-off and happy life, loving nature, loving fellow-creatures and especially the spirit of strengthening the steadfast communities that need to be valorized and brought into full play”. |
93 |
61- Phan chu trinh - Hà Nội
Tel: 04. 39330732, Fax: 04. 9331607
Email: tapchikhaoco@gmail.com
Cuốn sách với 15 chương, là tập hợp các trang phục của tất cả các dân tộc, trải qua các thời đại từ thời dựng nước đến thời phong kiến, thời thuộc Pháp, từ năm 1945 cho đến nay. Tác giả chia ra các nhóm dân tộc chính như: ở chương 2 thì nói về trang phục của dân tộc Kinh bao gồm trang phục của người Kinh Bắc, của người Huế (Kinh ở Trung Bộ) và của người Kinh ở Nam Bộ; chương 3 với trang phục của dân tộc Mường ở cả nam giới và nữ giới; chương 4 là trang phục của dân tộc Tày - Nùng; chương 5 với trang phục của dân tộc Thái; chương 6 là trang phục của dân tộc Dao; chương 7 là trang phục của dân tộc Mông; chương 8 là trang phục của dân tộc Tạng - Miến bao gồm dân tộc Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, Là Hủ, Cống, Si La; chương 9 là trang phục của nhóm dân tộc ở miền núi phía Bắc; chương 10 trang phục của nhóm dân tộc ở Tây Nguyên; chương 11 là trang phục của dân tộc Chăm; chương 12 trang phục của dân tộc Khơ me ở Nam Bộ; chương 13 là trang phục của dân tộc Hoa.
Cuốn sách giới thiệu rất nhiều truyền thuyết, câu chuyện của triều Lý như: truyền thuyết Bên Dòng Ngự Câu, truyền thuyết Chiến Tuyến Như Nguyệt, Thánh Tam Giang, truyện vợ chàng Phó Rèn, Lý Nhân Nghĩa, Lê Phụng Hiểu, Bà Tấm Ỷ Lan, thầy đồ Lý Công Ẩn … Tác giả bài viết đã dựa hẳn vào khoảng thời gian của một triều đại nhất định để giúp người đọc, người nghiên cứu hình dung ra được diện mạo văn hóa dân gian của một giai đoạn lịch sử.
Vừa qua, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định về việc thăm dò và khai quật khảo cổ tại khu vực Dinh Trà Bát và khu vực Dinh Cát thuộc thôn Trà Liên Tây, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Khai quật khảo cổ tại Quảng Trị sẽ góp phần làm rõ những chứng tích thời gian. Ảnh: Yến Thọ
Theo Quyết định, Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng tỉnh Quảng Trị và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị sẽ thăm dò, khai quật khảo cổ trong thời gian từ ngày 15/7 đến ngày 05/8/2016.
Diện tích thăm dò, khai quật là 150,8m2. Trong đó, Dinh Trà Bát 81,9m2 (gồm 03 hố: H1: 2m x 14,78m = 29,6m2; H2: 2m x 9,43m = 18,8m2; H3: 2m x 16,78m = 33,5m2); Dinh Cát 68,9m2 (gồm 02 hố: H1: 2m x 23,38m = 46,8m2; H2: 2m x 11,13m = 22,1m2).
Chủ trì thăm dò khai quật là ông Lê Đức Thọ, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng tỉnh Quảng Trị.
Trong thời gian thăm dò, khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép cần chú ý bảo vệ địa tầng của di tích; có trách nhiệm tuyên truyền cho nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hoá ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa.
Những hiện vật thu được trong quá trình thăm dò, khai quật phải được tạm nhập vào Bảo tàng tỉnh Quảng Trị để giữ gìn, bảo quản; Bảo tàng tỉnh Quảng Trị, Sở VHTTDL tỉnh Quảng Trị có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và báo cáo Bộ trưởng Bộ VHTTDL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó.
Sau khi kết thúc đợt thăm dò, khai quật, chậm nhất 3 tháng, Trung tâm Bảo tồn Di tích và Danh thắng tỉnh Quảng Trị và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị phải có báo cáo sơ bộ và sau 01 năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa.
Khi công bố kết quả của đợt khai quật, các cơ quan được cấp giấy phép cần trao đổi với Cục Di sản văn hóa. Cục Di sản văn hóa có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra đợt khai quật nói trên đúng với nội dung Quyết định.
Những khám phá đầy giá trị này bị các nhà nghiên cứu đánh giá sai và dần rơi vào quên lãng.
1. Bức tượng thời đồ đá mới
Vào năm 1850, một bức tượng đá bí ẩn đã được phát hiện ở vùng Skara Brae thuộc đảo Orkney, Scotland.
Vào năm 1850, một bức tượng đá bí ẩn đã được phát hiện ở vùng Skara Brae thuộc đảo Orkney, Scotland. Các chuyên gia ước tính bức tượng này có niên đại vào khoảng 5.000 năm tuổi. Nó được tạc từ xương cá voi với kích thước cao 9,5cm và rộng 7,5cm. Điểm thú vị nằm ở chỗ, đây là một trong những bức tượng có niên đại lâu đời nhất miêu tả hình dáng của một người.
Được đặt tên là "Buddo" có nghĩa là "người bạn" trong tiếng Orkney, bức tượng này đã bị mất tích trong hơn 150 năm qua. Nó được cất giữ trong các kho lưu trữ của Bảo tàng Stromness và sau đó hoàn toàn bị quên lãng. Chỉ mãi cho đến khi các nhà khảo cổ quyết định xem xét lại các hiện vật của vùng Skara Brae thì Buddo mới được xuất hiện trở lại trước công chúng.
Các chuyên gia không thể chắc chắn được nó là gì. Nhưng họ nghĩ rằng nó có thể là một bức tượng thần thời đồ đá mới đã bị bỏ lại khi các cư dân chuyển đến sinh sống ở nơi khác.
2. Bản sao chép của tấm bản đồ đầu tiên trên thế giới
Trong lĩnh vực địa chất, William Smith là một huyền thoại. Ông được coi là "cha đẻ của ngành địa chất nước Anh" và là người tạo nên tấm bản đồ có khả năng làm thay đổi hoàn toàn nhận thức con người thời điểm đó về thế giới. Smith là người đầu tiên tạo ra một tấm bản đồ địa chất của một quốc gia. Cụ thể ở đây, đó chính là Vương quốc Anh. Vào thời điểm công bố, tấm bản đồ Smith đã tạo nên một cuộc cách mạng trong ngành địa chất.
Theo ghi chép, có đến 370 bản sao của tấm bản đồ địa chất Smith đã được sản xuất, tuy nhiên chỉ còn 70 tấm tồn tại cho đến nay. Cũng giống như Buddo, tấm bản đồ được lưu trữ trong một nơi an toàn và sau đó hoàn toàn bị quên lãng. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy nó là vào khoảng 50 năm trước đây.
Mãi cho đến gần đây, tấm bản đồ Smith mới được tái phát hiện. Nó nằm trong kho lưu trữ của Hiệp hội địa chất. Trải qua nửa thế kỉ không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, nhưng tấm bản đồ vẫn trong tình trạng tốt và màu sắc của nó vẫn còn rất tinh tế.
Trải qua nửa thế kỉ không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, nhưng tấm bản đồ vẫn trong tình trạng tốt và màu sắc của nó vẫn còn rất tinh tế.
Điều khiến cho tấm bản đồ trở nên có giá trị là vì nó là một trong những phiên bản đầu tiên. Các chuyên gia ước tính giá trị của tấm bản đồ có thể lên đến 6 con số (tính theo bảng Anh).
Hiện nay, những bản đồ như thế này có thể dễ dàng tạo ra nhờ công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, Smith đã mất gần 15 năm trong đời mình để thu thập các dữ liệu cần thiết để tạo ra tấm bản đồ kì diệu này.
3. Viên đạn súng thần công cổ nhất của nước Anh
Cuộc chiến Hoa Hồng là một trong những cuộc chiến mang tính lịch sử và biểu tượng hào hùng của nước Anh. Cuộc chiến này là sự tranh giành ngai vàng nước Anh của nhà York và Lancaster. Nó kéo dài trong suốt hơn 30 năm và chỉ kết thúc khi Henry Tudor của nhà Lancaster đánh bại vua Richard III trong trận Bosworth.
Vài năm trước đây, các chuyên gia đã tìm thấy một hiện vật thuộc cuộc chiến Hoa Hồng. Đó là một viên đạn súng thần công sử dụng trong trận Northampton vào năm 1460 giữa nhà Lancaster và nhà York. Hiện vật này đặc biệt được đánh giá cao vì nó là quả viên đạn súng thần công lâu đời nhất trong lịch sử nước Anh. Tuy nhiên, viên đạn này đã bị mất tích trong suốt một thời gian dài. Nó chỉ được tái phát hiện vào năm 2014 bởi Glenn Foard, một nhà khảo cổ của Đại học Huddersfield.
Một trong những bí ẩn liên quan đến viên đạn này là ai là người đã sử dụng nó. Theo các chuyên gia, lực lượng nhà Lancaster không thể sử dụng pháo của họ trong trận Northampton do mưa. Như vậy, có thể gần như chắc chắn rằng viên đạn này đã được sử dụng bởi phe York.
Vài năm trước đây, các chuyên gia đã tìm thấy một hiện vật thuộc cuộc chiến Hoa Hồng. Đó là một viên đạn súng thần công sử dụng trong trận Northampton vào năm 1460 giữa nhà Lancaster và nhà York.
4. Bức tượng điêu khắc hai người con song sinh của nữ hoàng Cleopatra và Marc Antony
Năm 1918, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một bức tượng bằng đá sa thạch đặc biệt gần đền thờ Dendera. Trong nhiều thập kỷ sau đó, tác phẩm điêu khắc này được trưng bày tại Bảo tàng Ai Cập nhưng không ai biết được danh tính và giá trị lịch sử của nó. Chỉ cho đến gần đây, khi một nhà Ai Cập tên là Giuseppina Capriotti đã kiểm tra các tác phẩm điêu khắc và tìm ra bí mật của bức tượng kì lạ này.
Tác phẩm mô tả hai đứa trẻ khỏa thân, một nam một nữ. Cả hai đang nắm giữ một con rắn bằng một tay trong khi tay kia khoác lên vai nhau. Bé gái đội một chiếc đĩa hình lưỡi liềm và mặt trăng trong khi bé trai đội chiếc đĩa hình mặt trời.
Sau khi tiến hành phân tích kỹ lưỡng, Capriotti phát hiện ra rằng những đứa trẻ được miêu tả trong tác phẩm điêu khắc này chính là Alexander Helios và Cleopatra Selene, hai đứa con sinh đôi của Nữ hoàng Cleopatra và Marc Antony. Mặc dù các tác phẩm điêu khắc được bảo quản trong điều kiện tương đối tốt, tuy nhiên chi tiết về gương mặt hai đứa trẻ vẫn không thể nhìn thấy rõ.
Năm 1918, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một bức tượng bằng đá sa thạch đặc biệt gần đền thờ Dendera.
Có khá ít tư liệu lịch sử về cuộc đời thật của cặp song sinh này. Lịch sử viết rằng Alexander Helios đột nhiên biến mất không một dấu vết cùng với người anh ruột của mình là Ptolemy Philadelphus. Còn Cleopatra Selene lại kết hôn với vua Juba II của vùng Mauretania.
5. Bức phù điêu Pharaoh cổ nhất
Vào những năm 1890, nhà khảo cổ học Archibald Sayce đã phát hiện ra một vài tác phẩm điêu khắc đáng chú ý trong một ngôi làng Ai Cập có tên là Nag el-Hamdulab. Tuy nhiên, khám phá của ông đã không được giới khoa học vào thời ấy đánh giá cao.
Trong nhiều năm qua, những hình chạm khắc này đã bị rơi vào quên lãng. Chỉ cho đến năm 2008, khi nhà nghiên cứu Maria Gatto của Đại học Yale đã tái phát hiện và nghiên cứu lại những bức phù điêu này.
Tác phẩm nghệ thuật này có giá trị rất lớn về mặt lịch sử vì nó là những mô tả cổ nhất về một pharaoh. Các hình chạm khắc miêu tả một chiếc vương miện màu trắng đang di chuyển trong một buổi lễ rước trên một con thuyền hình liềm. Các chuyên gia đưa ra giả thuyết rằng những gì bức phù điêu cố gắng truyền đạt là hình ảnh một pharaoh đang thực hiện một chuyến thu thuế trên khắp Ai Cập.
Tác phẩm nghệ thuật này có giá trị rất lớn về mặt lịch sử vì nó là những mô tả cổ nhất về một pharaoh.
Các nhà khảo cổ ước tính rằng niên đại của bức phù điêu nằm trong khoảng từ 3200- 3100 TCN. Đó là khoảng thời gian khi Ai Cập đã được thống nhất từ hai vương quốc nhỏ hơn. Điều này đã khiến các chuyên gia kết luận rằng pharaoh được miêu tả trong hình khắc có thể là Narmer, người đã thống nhất hai miền của Ai Cập.
6. Bức tranh tường Thập tự chinh
Nhờ vào một đường ống nước bị vỡ mà bức tranh treo tường lãng quên của quân Thập tự chinh đã được tái phát hiện tại bệnh viện Saint-Louis ở Jerusalem. Bức tranh đã được vẽ bởi một người Pháp tên là Comte Marie Paul Amedee de Piellat. Ông đặt tên cho nó là Thánh Louis IX, một vị vua Pháp và cũng là một người lính Thập tự chinh.
Trong suốt Thế chiến thứ nhất, lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ đã kiểm soát bệnh viện. Tuy không phá hủy các tòa nhà, nhưng họ đã sơn đen lại toàn bộ các bức tường làm che khuất đi những bức tranh của Piellat. Khi chiến tranh kết thúc, ông đã cố gắng để khôi phục các bức tranh nhưng ông đã mất trước khi hoàn thành mọi thứ.
Bức tranh đã được vẽ bởi một người Pháp tên là Comte Marie Paul Amedee de Piellat.
7. Quyển sách Torah hoàn chỉnh cổ nhất thế giới
Torah là giáo lý quan trọng nhất trong đạo Do Thái. Vì thế, những phát hiện liên quan đến nó đều là những sự kiện tôn giáo và lịch sử quan trọng. Vào năm 2013, Giáo sư Mauro Perani của Đại học Bologna đã phát hiện ra một hiện vật được xem là bản sao lâu đời nhất của Torah.
Ông ước tính rằng các văn bản này đã được viết trong thế kỷ 17 và bị để quên trong thư viện của Bologna trong hơn 100 năm.
Tuy nhiên, những phân tích niên đại bằng cacbon đã cho thấy sự thật bất ngờ hơn. Quyển Torah này được viết vào khoảng giữa thế kỷ 12 và 13. Trước khi phát hiện văn bản này, các bản sao lâu đời nhất được biết đến của Torah là từ thế kỷ 14.
Vào năm 2013, Giáo sư Mauro Perani của Đại học Bologna đã phát hiện ra một hiện vật được xem là bản sao lâu đời nhất của Torah.
8. Vòng cổ vuốt gấu
Hai nhà thám hiểm William Clark và Meriwether Lewis đã trở thành huyền thoại sau khi họ tiến hành khám phá miền Tây nước Mỹ thuở còn sơ khai. Trong chuyến thám hiểm của mình, họ đã đưa về một số hiện vật bản địa. Một trong số đó là chiếc vòng cổ làm từ vuốt gấu. Đây là một đồ trang sức rất quý hiếm biểu thị sự dũng cảm mà các chiến binh bộ lạc người bản địa ở Mỹ đeo khi đi săn. Chiếc vòng cổ gồm 38 móng vuốt gấu, mỗi chiếc có kích thước khoảng 7,5cm.
Nhưng chiếc vòng cổ này đã bị mất do lỗi của một nhân viên bảo quản. Khi Bảo tàng Peabody Harvard mua lại hiện vật này vào năm 1941, một nhân viên đã cho nó vào danh mục hiện vật của các đảo Nam Thái Bình Dương. Chỉ cho đến năm 2003, chiếc vòng cổ vuốt gấu này mới được tái phát hiện vì những người phụ trách của phòng lưu trữ Châu Đại Dương ở bảo tàng Peabody nhận ra rằng chiếc vòng cổ này không có vẻ gì là liên quan đến biển cho lắm.
Đây là một đồ trang sức rất quý hiếm biểu thị sự dũng cảm mà các chiến binh bộ lạc người bản địa ở Mỹ đeo khi đi săn.
9. Bộ xương của Noah
Đây không phải là xương của Noah, người đàn ông được miêu tả trong kinh thánh, mà là bộ xương của một người tiền sử sống sót sau một trận lũ lớn giống như Noah. Bộ xương được các nhà khảo cổ ước tính vào khoảng 6.500 năm tuổi.
Bộ xương có niên đại khoảng 4500 TCN, đã được phát hiện bởi một đoàn thám hiểm của Đại học Pennsylvania. Nó đã được khai quật trong khu nghĩa trang hoàng gia Ur (Iraq ngày nay). Sau khi tiến hành phân tích, các nhà khoa học cho rằng bộ xương này thuộc về một người đàn ông khá cơ bắp với chiều cao 178 cm và qua đời ở tuổi 50.
Trải qua hơn 80 năm, bộ xương của Noah bị quên lãng trong tầng hầm của Bảo tàng Penn. Chỉ đến năm 2014, khi các bảo tàng quyết định số hóa tất cả các hồ sơ liên quan đến các cuộc thám hiểm thì bộ xương mới được tái phát hiện.
Khám phá Noah mang đến những giá trị rất lớn đối với ngành khảo cổ học vì giúp mang lại rất nhiều thông tin như lối sống và cách ăn uống của con người vào thời điểm đó.
Bộ xương có niên đại khoảng 4500 TCN, đã được phát hiện bởi một đoàn thám hiểm của Đại học Pennsylvania.
10. Công thức tạo nên hòn đá hóa vàng của Isaac Newton
Chúng ta ai cũng biết rằng Isaac Newton là một nhà vật lý huyền thoại. Nhưng khá ít người biết được rằng ông cũng rất đam mê với thuật giả kim. Trong thực tế, Newton đã cố gắng trong nhiều năm với ước vọng biến chì thành vàng.
Một bản thảo viết tay về thuật giả kim vào thế kỷ 17 của Isaac Newton, chôn vùi trong bộ sưu tập tư nhân suốt nhiều thập kỷ, hé lộ công thức chế hòn đá phù thủy chứa phép thuật tạo vàng và thuốc trường sinh.
Hòn đá phù thủy hay Đá tạo vàng là một vật chất kỳ bí. Các nhà giả kim thuật tin rằng nó có nhiều đặc tính phép thuật giúp con người trường sinh.
Một bản thảo viết tay về thuật giả kim vào thế kỷ 17 của Isaac Newton, chôn vùi trong bộ sưu tập tư nhân suốt nhiều thập kỷ, hé lộ công thức chế hòn đá phù thủy chứa phép thuật tạo vàng và thuốc trường sinh.
Tài liệu viết tay này chứa những chỉ dẫn để tạo ra chất thủy ngân phù thủy do Newton sao chép lại từ sổ tay của một nhà giả kim danh tiếng khác. Được viết bằng tiếng Latinh, tựa đề của nó là "Chuẩn bị thủy ngân Sophick cho hòn đá phù thủy bằng kim loại chống mòn hình sao của sao Hỏa và Mặt Trăng lấy từ ghi chép của triết gia người Mỹ".
Công thức điều chế thủy ngân phù thủy của Newton ban đầu do một nhà hóa học người Mỹ tên George Starkey viết ra. Starkey học tại Đại học Harvard và chuyển đến Anh năm 1650 để cộng tác với các nhà hóa học xuất chúng đương thời. Cuối cùng, ông làm việc với Robert Boyle, một trong những đồng nghiệp của Newton. Nhưng Starkey công bố nghiên cứu dưới bút danh Eirenaeus Philalethes, cho phép ông kiểm soát việc các nhà hóa học khác mô phỏng thí nghiệm của mình.
Tuy các sử gia không nêu rõ Newton có tiến hành thí nghiệm giả kim của Starkey hay không, khả năng này là rất cao theo nhận định của Voelkel. Trên thực tế, Newton để lại nhiều chú thích và sửa một lỗi sai trong bản gốc của Starkey. Ở phía sau bản thảo, ông cũng viết lại một thí nghiệm chưng cất lõi chì của chính ông.
Một nghĩa địa chó có tuổi đời 2.000 năm vừa được phát hiện ở Nga đã hé lộ nhiều thông tin về mối quan hệ giữa con vật nuôi trung thành này với con người thời xa xưa.
Hài cốt của hơn 100 con chó vừa được phát hiện tại địa điểm khảo cổ Ust-Polui, ở thị trấn Salekhard (Nga), thuộc vòng Bắc Cực. Đã có nhiều ngôi mộ chôn chó đã được phát hiện từ trước, nhưng điều khiến nghĩa địa chó ở Ust-Polui trở nên đặc biệt và gây chú ý khi có tới 115 hài cốt chó được chôn tập trung ở cùng một địa điểm.
Bộ xương chó được tìm thấy ở nghĩa địa chó.
Giáo sư Robert Losey - nhà khảo cổ học của Đại học Alberta (Canada) nói với tờ Live Science: "Vai trò của những con chó ở Ust-Polui rất đa dạng và phức tạp". Theo ông, chúng gánh vác nhiều nhiệm vụ thời đó, như trượt tuyết, đi săn tuần lộc và chim, thậm chí còn để tế lễ.
Những vết tích còn lại cho thấy có những con chó đã bị làm thịt để làm thức ăn.
Trong khu nghĩa địa chó còn tìm thấy 2 chiếc xe trượt tuyết cùng dây thắng của tuần lộc. Những vết tích còn lại cho thấy có những con chó đã bị làm thịt để làm thức ăn; hoặc dùng trong các buổi tế lễ. Ở một địa điểm, người ta phát hiện hài cốt của 15 con chó chất đống. Sọ của chúng đều bị đập vỡ theo cùng một cách.
Địa điểm phát hiện ra nghĩa địa chó.
Trong số 115 hài cốt chó được tìm thấy, chỉ có 5 là được chôn cất cẩn thận, còn nguyên vẹn, chứng tỏ những con vật này có mối quan hệ rất thân thiết với chủ của chúng.
Mỗi ngôi mộ chó này chứa một bộ xương nguyên vẹn, chôn trong hố nông, tương tự những mộ của người trong khu vực này. Những bộ xương này cho thấy chúng không bị giết chết như 110 con chó còn lại trong khu nghĩa địa.
Trong một bài báo từ năm 2013, giáo sư Losey đã từng công bố kết quả nghiên cứu về một nghĩa địa chó ở khu vực hồ Baikal tại Siberia, có niên đại 8.000 năm. Chúng đều không bị giết chết hay dùng để hiến tế.
Năm 2013, giáo sư Losey đã từng công bố kết quả nghiên cứu về một nghĩa địa chó ở khu vực hồ Baikal tại Siberia.
Dựa theo niên đại của văn bản này, các nhà khảo cổ tính được rằng người công nhân này sống tại thời đại của pharaoh Khufu, vị pharaoh có lăng mộ là Kim tự tháp Giza nổi tiếng.
Mảnh giấy cói này ghi lại về cuộc sống của một công nhân xây dựng, với việc hàng ngày là vận chuyển những tảng đá khổng lồ về Cairo để tiến hành xây dựng kỳ quan vĩ đại ấy.
Văn bản giấy cói lâu đời nhât được tìm thấy tại Ai Cập, được mang ra trưng bày vào ngày 14 tháng 7 vừa qua.
Tấm giấy này được phát hiện từ hồi năm 2013 tại một bến cảng cổ đại cách thành phố Suez 119km, bởi một đoàn khảo cổ bao gồm các nhà khoa học đến từ Pháp và Ai Cập. Những tấm giấy cói này có tuổi thọ lâu đời nhất trong tất cả những tấm giấy cói đã được tìm thấy tại Ai Cập, chúng bao gồm hoạt động thường ngày của công nhân, vận chuyển vật liệu từ cảng Biển Đỏ sang khu công trường Kim tự tháp Giza. Một trong những bản ấy là nhật ký của nhân viên chính phủ đương thời, ghi lại về chi tiết các số liệu của công việc xây dựng kim tự tháp.
Hoạt động hàng ngày của công nhân được ghi lại chi tiết.
Một trong những mảnh giấy cói thuộc về người công nhân có tên Marr, kể về những công việc mà anh đã phải làm trong 2 tháng lao động, công việc bao gồm việc vận chuyển đá qua hệ thống kênh rạch của dòng sông Nile.
Những tờ giấy khác mô tả công việc phân chia thức ăn cho các công nhân, bao gồm cả những bức vẽ tượng hình về số lượng cừu mang tới cho các công nhân.
Một bản khác là cuốn nhật ký công việc của nhân viên chính phủ Merer, ghi lại chi tiết điều hành việc xây dựng kim tự tháp của anh.
Cống vật từ các quận khác được đưa về Cairo để phục vụ quá trình xây dựng kim tự tháp.
"Bảng lương" 4.500 năm tuổi.
Những tấm giấy cói ấy còn ghi lại những thứ các quận Ai Cập khác mang về thủ đô để nuôi và trả lương công nhân trong quá trình xây dựng. Các màu mực khác nhau thể hiện những khoản lương công nhân hay những vật phẩm khác nhau.
Văn bản của nhân viên chính phủ thời bấy giờ.
Có tất cả 6 văn bản giấy cói trong tổng số 30 bản được trưng bày. Tất cả chúng đều nhằm mục đích phô diễn cách điều hành quy củ và bản chất tập trung nhân lực, nguồn lực của đất nước Ai Cập dưới triều đại pharaoh Khufu.
Điều gì ẩn giấu dưới Kim tự tháp Giza, lăng mộ của pharaoh Khufu? Trong hơn 4.500 năm, các kim tự tháp Ai Cập đã giữ lại cho mình những bí mật, ẩn giấu sau nhiều đường hầm và mê cung trong lớp tường dày của mình. Chỉ mới đây thôi, các nhà khoa học đã tìm ra một số đường hầm mà trước đây chưa từng phát hiện ra, những đường hầm này có thể dẫn tới những căn phòng bí mật, hay trả lời những câu hỏi vẫn tồn tại về triều đại của vị pharaoh đang yên nghỉ dưới lớp đá dày của Kim tự tháp Giza. Một nhóm các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ hạt để quét toàn bộ Kim tự tháp Giza, để tạo nên một bản đồ chi tiết cấu trúc bên trong công trình này. Kết quả nghiên cứu sẽ được công bố cuối tháng này. |
Những khối đá dưới biển Yonaguni Jima ở xứ hoa anh đào từ lâu đã khiến các nhà khoa học bối rối. Mới đây, một chuyên gia tuyên bố chúng thực ra là phế tích của Atlantis - một thành phố cổ bị động đất đánh chìm khoảng 2.000 năm trước.
Đó là tuyên bố của Masaaki Kimura, một nhà địa chất biển tại Đại học Ryukyus, Nhật Bản, sau hơn 15 năm lặn xuống khu vực này để đo đạc và tìm hiểu sự hình thành của nó. Cứ mỗi lần lặn xuống, Kimura cho biết ông lại càng thêm tin tưởng rằng dưới chân mình là di tích của một thành phố cổ 5.000 năm.
Những cấu trúc đá kỳ lạ dưới biển Nhật Bản, trông như phế tích của kim tự tháp. (Ảnh: National Geography)
"Cấu trúc lớn nhất trông giống như một kim tự tháp bậc thang, làm bằng đá nguyên khối, nhô lên ở độ sâu 25 mét", Kimura trình bày giả thuyết mới nhất của mình tại một hội thảo khoa học hồi tháng 6 vừa qua. Nhưng không giống các câu chuyện khác về những thành phố chìm, khẳng định của Kimura đã gây ra nhiều tranh cãi.
Một số nhà khoa học tin rằng chúng thực ra là phế tích của Atlantis.
"Tôi không tin rằng bất kỳ cấu trúc hoặc hình khối lớn nào ở đó là các bậc thang nhân tạo, chúng đều là tự nhiên cả", Robert Schoch, giáo sư về khoa học và toán học tại Đại học Boston, người từng lặn xuống khu vực này, nhận định.
"Đó chỉ là những tầng đá cát, có xu hướng đứt gẫy trên một mặt phẳng dài, và tạo ra những rìa rất thẳng, đặc biệt ở trong vùng có nhiều đứt gãy và các hoạt động địa chấn", ông giải thích.
Cấu trúc lớn nhất trông giống như một kim tự tháp bậc thang, làm bằng đá nguyên khối.
Ngoài ra, ngay cả Tổ chức Văn hoá của chính phủ Nhật Bản cũng như chính quyền quận Okinawa đều không coi các dấu tích tại Yonaguni là một di sản văn hoá quan trọng. Cả hai cơ quan này đều chưa từng thực hiện các nghiên cứu hoặc bảo tồn tại khu vực này.
Có phải phế tích hay không?
Yonaguni Jima là một hòn đảo nằm gần cực nam của bán đảo Ryukyu của Nhật. Một thợ lặn địa phương lần đầu phát hiện ra phế tích ở đây vào năm 1986. Ngày nay, khách du lịch có thể lặn xuống xem miễn phí.
Một vài chuyên gia tin rằng cấu trúc dưới biển này có thể là phần còn lại của Mu, một nền văn minh Thái Bình Dương trong truyền thuyết mà theo lời đồn là đã bị sóng biển nhấn chìm.
Kimura cũng cho biết, ấn tượng ban đầu của ông rằng các cấu trúc này là tự nhiên. Nhưng ông đã thay đổi quan điểm sau lần lặn đầu tiên. "Tôi nghĩ rất khó để giải thích nguồn gốc của chúng là tự nhiên thuần tuý, vì có quá nhiều bằng chứng về sự tác động của con người", ông nói. Chẳng hạn, ông đã tìm thấy những dấu vết mài xẻ trên đá, các ký tự thô sơ trên những khuôn mặt khắc và các mẩu đá được mài đẽo giống hình các con vật.
Dù cho ai đã tạo ra thành phố này, thì hầu hết nó đã chìm trong một chấn động lớn, điều vốn quen thuộc ở vành đai Thái Bình Dương, Kimura nói.
Nền văn minh vĩ đại thời tiền sử?
Sau nhiều năm nghiên cứu sự hình thành của khu tàn tích này, các nhà khoa học Nhật bản đã đi tới kết luận đáng kinh ngạc rằng: đây là dấu tích của một nền văn minh cao cấp cổ xưa, là một thành phố cổ bị động đất đánh chìm khoảng 12.000 năm trước.
Các thợ lặn đã phát hiện ra những con đường dài, những đại lộ lớn, những cấu trúc cầu thang lớn, những cấu trúc cổng tò vò, các khối đá khổng lồ được đẽo gọt chính xác và tỉ mỉ. Cầu thang khổng lồ ở nơi đây đã được xây dựng từ một loạt các lớp đá cao 1m, giống như bậc thang kim tự tháp.
Các nhóm chữ tượng hình được tìm thấy chỉ ra rằng những người xây dựng các tàn tích dưới đáy biển này thuộc về một nền văn minh rất tiến bộ.
Các giám định niên đại cho thấy cấu trúc này có thể ra đời vào khoảng 8.000 đến 10.000 năm TCN, lâu đời hơn bất cứ nền văn minh nào đã được biết đến.
Đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa xác định được chủ nhân của kim tự tháp bí ẩn này. Các nhà khảo cổ học tại Trường Đại học London tin rằng những người xây dựng nên công trình này có trình độ còn vượt trên các nền văn minh Lưỡng Hà và sông Ấn.
Sự hiện diện của công trình cũng củng cố giả thuyết về sự tồn tại của một nền văn minh vĩ đại từ thời tiền sử, đã bị xóa khỏi ký ức con người sau một trận đại hồng thủy.
Nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học (2008-2014)
Đã nghỉ hưu