- Tác giả: Sa
kaya
- Nxb: Tri Thức - 2015
- Khổ sách: 10 x 18cm
- Số trang: 99 tr

- Nxb: Tri Thức - 2015
- Khổ sách: 10 x 18cm
- Số trang: 99 tr
Nội dung cuốn sách: Lễ hội Kate là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm.
Lễ hội chính là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ những giá trị, tinh hoa văn hóa Chăm. Lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính - nơi ngưng tụ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa chăm mà còn cho thấy một phần khác của văn hóa như đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nước và hát kể về công việc đồng áng, mùa màng.
Nội dung chính gồm các phần:
1/Nguồn gốc của lễ hội Kate
2/Ý nghĩa của lễ hội Kate
3/ Không gian tổ chức và diễn trình của lễ hội
Xin trân trọng giới thiệu!
Lễ hội chính là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ những giá trị, tinh hoa văn hóa Chăm. Lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính - nơi ngưng tụ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa chăm mà còn cho thấy một phần khác của văn hóa như đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nước và hát kể về công việc đồng áng, mùa màng.
Nội dung chính gồm các phần:
1/Nguồn gốc của lễ hội Kate
2/Ý nghĩa của lễ hội Kate
3/ Không gian tổ chức và diễn trình của lễ hội
Ngô Thị Nhung
ADN từ răng sữa 31000 năm tuổi hé lộ về nhóm mới người cổ Siberia.
Răng sữa của hai trẻ em chôn sâu ở di chỉ khảo cổ hẻo lánh thuộc phía Đông Bắc Siberia đã hé lộ nhóm người chưa biết trước đây sống ở đó trong suốt Kỉ băng hà cuối cùng.
Phát hiện này là một phần trong nghiên cứu rộng hơn cũng đã phát hiện được các di cốt người cổ 10000 năm ở một di chỉ khác thuộc Siberia có mối quan hệ di truyền với người Mỹ bản địa – lần đầu tiên các mối quan hệ di truyền gần gũi như vậy được phát hiện bên ngoài nước Mỹ.
Nhóm các nhà khoa học quốc tế, dẫn đầu bởi giáo sư Eske Willerslev, trường St John, Đại học Cambridge, và là giám đốc Quĩ Lundbeck Trung tâm Địa di truyền Đại học Copenhagen, đã đặt tên cho nhóm người mới này là “ Người Siberian phía bắc cổ” đông thời đã mô tả sự tồn tại của họ như là một phần quan trọng của lịch sử loài người”.
ADN được phục chế chỉ trên các di cốt người được phát hiện trong giai đoạn này – 2 răng sữa nhỏ bé – được tìm thấy trong một di chỉ khảo cổ rộng lớn ở Nga gần sông Yana. Di chỉ này, được biết là di chỉ sừng tê giác Yana (Yana Rhinoceros Horn Site =RHS) được tìm thấy vào năm 2001 và có hơn 2.500 hiện vật từ xương động vật và ngà voi cùng với các công cụ bằng đá và bằng chứng về sự cư trú của con người.

ADN được khôi phục chỉ trên các di cốt người được phát hiện trong suốt kỉ này – 2 răng sữa bé (Russian Academy of Sciences - Học viện khoa học Nga)

Di chỉ - nơi răng được tìm thấy gần sông Yana ở phía bắc Nga (Elena Pavlova)
Phát hiện này được công bố vào 5/6/2019 là một phần trong nghiên cứu rộng hơn trên tạp chí Nature và chỉ ra những người Siberians phía bắc cổ chịu đựng các điều kiện khắc nghiệt ở khu vực này 31000 năm cách ngày nay và tồn tại bằng săn bắt voi ma mút lông, tê giác lông và bò rừng. Giáo sư Willerslev nói: “những người này là một phần quan trọng của lịch sử loài người, họ đa dạng hóa gần như cùng thời gian với tổ tiên của người châu Á và châu Âu thời hiện đại và có khả năng rằng tại một thời điểm , họ chiếm các vùng rộng lớn ở bán cầu bắc.
Tiến sĩ Martin Sikora, thuộc quĩ Lundbeck Trung tâm Địa Di truyền và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu, cho biết thêm: “Họ thích nghi với môi trường khắc nghiệt rất nhanh và có tính cơ động cao. Những phát hiện này đã thay đổi rất nhiều những gì chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã biết về lịch sử dân số của vùng đông bắc Siberia mà cũng là những gì chúng ta biết về lịch sử di cư của loài người nói chung.”
Các nhà nghiên cứu ước tính số lượng dân số ở di chỉ này khoảng 40 người với một quần thể rộng hơn khoảng 500 người. Phân tích di tích truyền răng sữa đã cho biết trình tự gen của hai cá thể và chỉ ra không có bằng chứng cho sự lai (hòa huyết) diễn ra trong các quần thể người Neanderthan đang giảm đi cùng thời gian này.
Sự phát triên dân số phức tạp trong giai đoạn này và so sánh di truyền với các nhóm người khác, cả nhóm dân số cổ và hiện đại, được ghi nhận như một phần của nghiên cứu rộng hơn đã phân tích 34 mẫu bộ gen người được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ cổ đại ở khắp miền bắc Siberia và miền trung nước Nga.
Giáo sư Laurent Excoffier, Đại học Bern, Thụy Sĩ, nói: “Đáng chú ý, người Siberian phía bắc cổ gần gũi với người châu Âu hơn là người châu Á và dường như di cư tất cả các con đường từ phía Tây Âu - Á ngay sau khi tách biệt giữa người châu Âu và châu Á.
Các nhà khoa học tìm thấy người Siberian phía bắc cổ đã tạo thành cấu trúc di truyền khảm của những người đương đại sống ở một khu vực rộng lớn trên khắp phía bắc Âu – Á và châu Mỹ - cung cấp liên kiết còn thiếu về sự hiểu biết di truyền của tổ tiên người Mỹ bản địa.
Người ta chấp nhận rộng rãi rằng con người lần đầu tiên đến châu Mỹ từ Siberia vào Alaska thông qua một cây cầu trên đất liền qua eo biển Bering, bị nhấn chìm vào cuối kỷ băng hà cuối cùng. Các nhà nghiên cứu đã có thể xác định một số những người tổ tiên này là các nhóm người châu Á hòa huyết với người Bắc Siberia cổ đại.
Giáo sư David Meltzer, Đại học Methodist phía Nam, Dallas, một trong những tác giả của bài báo, giải thích: “Chúng tôi đã thu được cái nhìn sâu sắc quan trọng về sự cô lập dân số và sự hòa huyết diễn ra trong các độ sâu kỉ Băng hà cực đại cuối cùng - thời điểm lạnh nhất và khắc nghiệt nhất của Kỷ băng hà - và cuối cùng, tổ tiên của những người này sẽ phát triển từ thời đó với tư cách là tổ tiên của người dân bản địa châu Mỹ
Phát hiện trên dựa trên phân tích ADN của một di cốt nam 10.000 tuổi được tìm thấy tại một địa điểm gần sông Kolyma ở Siberia. Cá thể này có nguồn gốc tổ tiên từ sự hòa huyết giữ ADN người Siberia phía bắc cổ và ADN Đông Á, rất giống với ADN tìm thấy ở người Mỹ bản địa. Đây là lần đầu tiên các di cốt người liên quan mật thiết đến dân số người Mỹ bản địa được phát hiện bên ngoài nước Mỹ.
Giáo sư Willerslev cho biết thêm: “Những di cốt này về mặt di truyền rất gần với tổ tiên của những người nói tiếng Paleo - Siberia và gần với tổ tiên của người Mỹ bản địa. Đây là một phần quan trọng trong câu đố tìm hiểu về tổ tiên của người Mỹ bản địa khi bạn có thể thấy chữ ký Kolyma trong người Mỹ bản địa và người Paleo-Siberia. Cá nhân này là mắt xích còn thiếu của tổ tiên người Mỹ bản địa.
Trích nguồn: https://www.heritagedaily.com/2019/06/dna-from-31000-year-old-milk-teeth-leads-to-discovery-of-new-group-of-ancient-siberians/123905
https://www.independent.co.uk/news/science/ice-age-milk-teeth-dna-hunters-siberia-prehistoric-cambridge-university-a8945221.html
Người dịch: Minh Trần
Răng sữa của hai trẻ em chôn sâu ở di chỉ khảo cổ hẻo lánh thuộc phía Đông Bắc Siberia đã hé lộ nhóm người chưa biết trước đây sống ở đó trong suốt Kỉ băng hà cuối cùng.
Phát hiện này là một phần trong nghiên cứu rộng hơn cũng đã phát hiện được các di cốt người cổ 10000 năm ở một di chỉ khác thuộc Siberia có mối quan hệ di truyền với người Mỹ bản địa – lần đầu tiên các mối quan hệ di truyền gần gũi như vậy được phát hiện bên ngoài nước Mỹ.
Nhóm các nhà khoa học quốc tế, dẫn đầu bởi giáo sư Eske Willerslev, trường St John, Đại học Cambridge, và là giám đốc Quĩ Lundbeck Trung tâm Địa di truyền Đại học Copenhagen, đã đặt tên cho nhóm người mới này là “ Người Siberian phía bắc cổ” đông thời đã mô tả sự tồn tại của họ như là một phần quan trọng của lịch sử loài người”.
ADN được phục chế chỉ trên các di cốt người được phát hiện trong giai đoạn này – 2 răng sữa nhỏ bé – được tìm thấy trong một di chỉ khảo cổ rộng lớn ở Nga gần sông Yana. Di chỉ này, được biết là di chỉ sừng tê giác Yana (Yana Rhinoceros Horn Site =RHS) được tìm thấy vào năm 2001 và có hơn 2.500 hiện vật từ xương động vật và ngà voi cùng với các công cụ bằng đá và bằng chứng về sự cư trú của con người.

ADN được khôi phục chỉ trên các di cốt người được phát hiện trong suốt kỉ này – 2 răng sữa bé (Russian Academy of Sciences - Học viện khoa học Nga)

Di chỉ - nơi răng được tìm thấy gần sông Yana ở phía bắc Nga (Elena Pavlova)
Phát hiện này được công bố vào 5/6/2019 là một phần trong nghiên cứu rộng hơn trên tạp chí Nature và chỉ ra những người Siberians phía bắc cổ chịu đựng các điều kiện khắc nghiệt ở khu vực này 31000 năm cách ngày nay và tồn tại bằng săn bắt voi ma mút lông, tê giác lông và bò rừng. Giáo sư Willerslev nói: “những người này là một phần quan trọng của lịch sử loài người, họ đa dạng hóa gần như cùng thời gian với tổ tiên của người châu Á và châu Âu thời hiện đại và có khả năng rằng tại một thời điểm , họ chiếm các vùng rộng lớn ở bán cầu bắc.
Tiến sĩ Martin Sikora, thuộc quĩ Lundbeck Trung tâm Địa Di truyền và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu, cho biết thêm: “Họ thích nghi với môi trường khắc nghiệt rất nhanh và có tính cơ động cao. Những phát hiện này đã thay đổi rất nhiều những gì chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã biết về lịch sử dân số của vùng đông bắc Siberia mà cũng là những gì chúng ta biết về lịch sử di cư của loài người nói chung.”
Các nhà nghiên cứu ước tính số lượng dân số ở di chỉ này khoảng 40 người với một quần thể rộng hơn khoảng 500 người. Phân tích di tích truyền răng sữa đã cho biết trình tự gen của hai cá thể và chỉ ra không có bằng chứng cho sự lai (hòa huyết) diễn ra trong các quần thể người Neanderthan đang giảm đi cùng thời gian này.
Sự phát triên dân số phức tạp trong giai đoạn này và so sánh di truyền với các nhóm người khác, cả nhóm dân số cổ và hiện đại, được ghi nhận như một phần của nghiên cứu rộng hơn đã phân tích 34 mẫu bộ gen người được tìm thấy ở các địa điểm khảo cổ cổ đại ở khắp miền bắc Siberia và miền trung nước Nga.
Giáo sư Laurent Excoffier, Đại học Bern, Thụy Sĩ, nói: “Đáng chú ý, người Siberian phía bắc cổ gần gũi với người châu Âu hơn là người châu Á và dường như di cư tất cả các con đường từ phía Tây Âu - Á ngay sau khi tách biệt giữa người châu Âu và châu Á.
Các nhà khoa học tìm thấy người Siberian phía bắc cổ đã tạo thành cấu trúc di truyền khảm của những người đương đại sống ở một khu vực rộng lớn trên khắp phía bắc Âu – Á và châu Mỹ - cung cấp liên kiết còn thiếu về sự hiểu biết di truyền của tổ tiên người Mỹ bản địa.
Người ta chấp nhận rộng rãi rằng con người lần đầu tiên đến châu Mỹ từ Siberia vào Alaska thông qua một cây cầu trên đất liền qua eo biển Bering, bị nhấn chìm vào cuối kỷ băng hà cuối cùng. Các nhà nghiên cứu đã có thể xác định một số những người tổ tiên này là các nhóm người châu Á hòa huyết với người Bắc Siberia cổ đại.
Giáo sư David Meltzer, Đại học Methodist phía Nam, Dallas, một trong những tác giả của bài báo, giải thích: “Chúng tôi đã thu được cái nhìn sâu sắc quan trọng về sự cô lập dân số và sự hòa huyết diễn ra trong các độ sâu kỉ Băng hà cực đại cuối cùng - thời điểm lạnh nhất và khắc nghiệt nhất của Kỷ băng hà - và cuối cùng, tổ tiên của những người này sẽ phát triển từ thời đó với tư cách là tổ tiên của người dân bản địa châu Mỹ
Phát hiện trên dựa trên phân tích ADN của một di cốt nam 10.000 tuổi được tìm thấy tại một địa điểm gần sông Kolyma ở Siberia. Cá thể này có nguồn gốc tổ tiên từ sự hòa huyết giữ ADN người Siberia phía bắc cổ và ADN Đông Á, rất giống với ADN tìm thấy ở người Mỹ bản địa. Đây là lần đầu tiên các di cốt người liên quan mật thiết đến dân số người Mỹ bản địa được phát hiện bên ngoài nước Mỹ.
Giáo sư Willerslev cho biết thêm: “Những di cốt này về mặt di truyền rất gần với tổ tiên của những người nói tiếng Paleo - Siberia và gần với tổ tiên của người Mỹ bản địa. Đây là một phần quan trọng trong câu đố tìm hiểu về tổ tiên của người Mỹ bản địa khi bạn có thể thấy chữ ký Kolyma trong người Mỹ bản địa và người Paleo-Siberia. Cá nhân này là mắt xích còn thiếu của tổ tiên người Mỹ bản địa.
Trích nguồn: https://www.heritagedaily.com/2019/06/dna-from-31000-year-old-milk-teeth-leads-to-discovery-of-new-group-of-ancient-siberians/123905
https://www.independent.co.uk/news/science/ice-age-milk-teeth-dna-hunters-siberia-prehistoric-cambridge-university-a8945221.html
Người dịch: Minh Trần
- Tác giả: Nhiều tá
c giả
- Nxb: Hội Nhà văn - 2018
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 667 tr
Nội dung cuốn sách:
Cuốn sách là thành phần trong bộ sách của Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam”, của Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam,
Nội dung cuốn sách giới thiệu về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Việt Nam, gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan một số vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác thuộc Nam Bộ
Chương 3:Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở phố Hiến, Huế và Hội An
Chương 4: Giao lưu, tiếp biến và hội nhập văn hóa trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Việt Nam
Xin trân trọng giới thiệu!!

- Nxb: Hội Nhà văn - 2018
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 667 tr
Nội dung cuốn sách:
Cuốn sách là thành phần trong bộ sách của Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam”, của Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam,
Nội dung cuốn sách giới thiệu về tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Việt Nam, gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan một số vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác thuộc Nam Bộ
Chương 3:Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở phố Hiến, Huế và Hội An
Chương 4: Giao lưu, tiếp biến và hội nhập văn hóa trong tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Việt Nam
Xin trân trọng giới thiệu!!
Ngô Thị Nhung
- Tác giả: Lư
u Trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng
- Nxb: Văn học - 2018
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 343 tr
Cuốn sách là thành phần trong bộ sách của Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam”, của Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, với mục tiêu là thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước nhằm bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, quảng bá di sản văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam với bạn bè thế giới, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, bổ sung nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi, giao lưu và phát triển văn hóa giữa các tộc người, nhân dân trong nước và ngoài nước, với cộng đồng quốc tế.
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm địa lý
Chương 2: Những đặc điểm lịch sử văn hóa
Chương 3: Những di tích kiến trúc
Chương 4: Kỹ thuật xây dựng kiến trúc Chăm và công tác quản lý, bảo tồn, tôn tạo, phát huy.
xin trân trọng giới thiệu!!

- Nxb: Văn học - 2018
- Khổ sách: 14,5 x 20,5 cm
- Số trang: 343 tr
Cuốn sách là thành phần trong bộ sách của Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam”, của Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, với mục tiêu là thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước nhằm bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, quảng bá di sản văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam với bạn bè thế giới, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, bổ sung nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi, giao lưu và phát triển văn hóa giữa các tộc người, nhân dân trong nước và ngoài nước, với cộng đồng quốc tế.
Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm địa lý
Chương 2: Những đặc điểm lịch sử văn hóa
Chương 3: Những di tích kiến trúc
Chương 4: Kỹ thuật xây dựng kiến trúc Chăm và công tác quản lý, bảo tồn, tôn tạo, phát huy.
xin trân trọng giới thiệu!!
Ngô Thị Nhung
Tác
giả: Nguyễn Văn Kim
Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm xuất bản: 2019
Kích thước: 14.5x20.5 cm
Số trang: 788

Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm xuất bản: 2019
Kích thước: 14.5x20.5 cm
Số trang: 788
Cuốn sách là một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm Nghiên cứu Thương mại Châu Á (GACS), Trung tâm Biển và Hải đảo thuộc Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG HN. Cuốn sách góp phần làm sáng tỏ truyền thống khai thác biển, tư duy hướng biển, năng lực phát huy tiềm năng kinh tế, văn hóa biển của các cộng đồng dân cư ở các vùng duyên hải, biển đảo của Tổ Quốc.
Từ thời khởi nguyên, biển đã là môi trường sống, không gian sinh tồn của nhiều cộng đồng dân tộc Việt Nam. Biển cũng là môi trường tiếp giao, cửa ngõ hướng ra đại dương, hướng tới các giá trị, tiềm năng kinh tế, văn hóa, đồng thời cũng là không gian đón nhậ nhiều sinh lực sáng tạo mới cảu các thế hệ người Việt Nam.
Do tác động của nền kinh tế hải thương, vào thế kỷ XVI - XVIII, đời sống xã hội Việt Nam đã có nhiều khởi sắc. Một số cảng thị như: Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, Cù Lao Phố, Hà Tiên... có sự phát triển vượt trội và trở thành những mô hình cảng thị mới trên cơ sở những hoạt động và mối liên kết kinh tế rộng lớn với thị trường Châu Á- Châu Âu. Được kích hoạt bởi những giao lưu kinh tế Đông - Tây, ở trong nước đã có sự xuất hiện của một số giai tầng xã hội mới và chính họ đã làm thay đổi cấu trúc xã hội, tư duy kinh tế truyền thống. Trải qua hàng ngàn năm, nhiều cộng đồng dân tộc Việt Nam đã bám biển, kiến lập nhà nước, dựng xây các công trình kiến trúc kỳ vĩ từ những chất liệu, nguồn lực, tiềm năng của đại dương.
Cuốn sách chia làm 3 phần:
Phần 1: Từ một truyền thống hải thương
Phần 2: Vai trò, vị thế Biển Việt Nam
Phần 3: Việt Nam và thời hoàng kim của hải thương châu Á
Xin trân trọng giới thiệu!!
Từ thời khởi nguyên, biển đã là môi trường sống, không gian sinh tồn của nhiều cộng đồng dân tộc Việt Nam. Biển cũng là môi trường tiếp giao, cửa ngõ hướng ra đại dương, hướng tới các giá trị, tiềm năng kinh tế, văn hóa, đồng thời cũng là không gian đón nhậ nhiều sinh lực sáng tạo mới cảu các thế hệ người Việt Nam.
Do tác động của nền kinh tế hải thương, vào thế kỷ XVI - XVIII, đời sống xã hội Việt Nam đã có nhiều khởi sắc. Một số cảng thị như: Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, Cù Lao Phố, Hà Tiên... có sự phát triển vượt trội và trở thành những mô hình cảng thị mới trên cơ sở những hoạt động và mối liên kết kinh tế rộng lớn với thị trường Châu Á- Châu Âu. Được kích hoạt bởi những giao lưu kinh tế Đông - Tây, ở trong nước đã có sự xuất hiện của một số giai tầng xã hội mới và chính họ đã làm thay đổi cấu trúc xã hội, tư duy kinh tế truyền thống. Trải qua hàng ngàn năm, nhiều cộng đồng dân tộc Việt Nam đã bám biển, kiến lập nhà nước, dựng xây các công trình kiến trúc kỳ vĩ từ những chất liệu, nguồn lực, tiềm năng của đại dương.
Cuốn sách chia làm 3 phần:
Phần 1: Từ một truyền thống hải thương
Phần 2: Vai trò, vị thế Biển Việt Nam
Phần 3: Việt Nam và thời hoàng kim của hải thương châu Á
Xin trân trọng giới thiệu!!
Nhà x
uất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm xuất bản: 2018
Kích thước: 16x24cm
Số trang: 555

Năm xuất bản: 2018
Kích thước: 16x24cm
Số trang: 555
Cuốn sách là tập hợp kết quả của cuộc Hội thảo khoa học: Biển với lục địa - Vai trò và mạng lưới giao lưu ở lưu vực các dòng sông miền Trung do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức. Từ các cách tiếp cận chuyên ngành và liên ngành, trong đó có những nguồn tư liệu quý, cập nhật về Khảo cổ học, điều tra Dân tộc học, Nhân học, Xã hội học, văn hóa học.. cuốn sách đã làm sáng tỏ truyền thống kinh tế biển Việt nam, vai trò của các dòng sông và những mối liên hệ vùng, liên vùng rộng lớn mà tư duy chủ đạo là làm rõ sự kết nối giữa biển và lục địa cũng như tính chất lệ thuộc và bổ sung giữa hai không gian địa-kinh tế, địa - văn hóa.
Cuốn sách đã tập hợp những bài viết về miền Trung, đặc biệt là vai trò của các dòng sông miền Trung trong việc nuôi dưỡng các nền văn hóa, kết nối các vùng tài nguyên, không giankinh tế và không gian văn hóa - tộc người, đồng thời cũng để góp phần làm rõ các mô hình kinh tế, đặc tính phát triển của các thương cảng miền Trung trong mối liên hệ, so sánh với các trung tâm kinh tế của đất nước và hệ thống giao thương châu Á.
Cuốn sách chia làm 2 phần:
Phần 1: Tiềm năng, không gian tự nhiên và các mối quan hệ giữa biển với lục địa ở miền Trung.
Phần 2: Vai trò và mạng lưới giao lưu ở các dòng sông miền Trung
Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc!
Cuốn sách đã tập hợp những bài viết về miền Trung, đặc biệt là vai trò của các dòng sông miền Trung trong việc nuôi dưỡng các nền văn hóa, kết nối các vùng tài nguyên, không giankinh tế và không gian văn hóa - tộc người, đồng thời cũng để góp phần làm rõ các mô hình kinh tế, đặc tính phát triển của các thương cảng miền Trung trong mối liên hệ, so sánh với các trung tâm kinh tế của đất nước và hệ thống giao thương châu Á.
Cuốn sách chia làm 2 phần:
Phần 1: Tiềm năng, không gian tự nhiên và các mối quan hệ giữa biển với lục địa ở miền Trung.
Phần 2: Vai trò và mạng lưới giao lưu ở các dòng sông miền Trung
Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc!
Loài mới người sớm được tìm thấy ở Philipin

Scan CT và cấu trúc của răng P3- M2 hàm trên bên phải của Homo luzonensis ở hang Callao . Ảnh được chụp bởi nhóm dự án nghiên cứu hang Callao
Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã phát hiện ra các di cốt của một loài người mới ở Philipin, cho thấy khu vực này đóng vai trò quan trọng trong lịch sử tiến hóa Tông người.
Loài mới này, Homo luzonensis được đặt tên sau tên đảo Luzon, ở đó các hóa thạch hơn 50,000 năm tuổi này được phát hiện trong suốt các cuộc khai quật tại Hang Callao.
Đồng tác giả và là trưởng nhóm nghiên cứu, Giáo sư Philip Piper – Đại học Quốc gia Úc (ANU) cho biết những phát hiện này thể hiện bước đột phá trong sự hiểu biết của chúng ta về tiến hóa loài người trên khắp khu vực Đông Nam Á.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ít nhất 2 di cốt người trưởng thành và một trẻ em trong cùng lớp địa tầng.
“ Các di cốt hóa thạch bao gồm ngón tay, ngón chân và răng người trưởng thành. Chúng tôi cũng đã phát hiện được một xương đùi trẻ em.Có một số đặc điểm thật sự .thú vị - ví dụ, những chiếc răng thật sự nhỏ” – Gs. Piper cho biết.
“ Kích thước của những chiếc răng này nhìn chung (mặc dù không thường xuyên) phản ánh kích thước tổng thể của một động vật có vú, vì vậy chúng tôi cho rằng Homo luzonensis có lẽ tương đối nhỏ. Chính xác nó nhỏ như thế nào thì chúng tôi chưa biết. Chúng tôi cần tìm một vài xương từ chúng có thể để do được kích thước cơ thể chính xác hơn.”
“ Thật đáng kinh ngạc, các xương ngón chân và tay của chúng giống Australopithecine một cách đáng kể. Autralopithecines lần cuối cùng bước trên trái đất ở châu Phi khoảng 2 triệu năm cách đây và được xem là tổ tiên của nhóm Homo (Người), trong đó có con người hiện đại.

Gs. Philip Piper đến từ Đại học quốc gia Úc- trường Khảo cổ và Nhân học - với khuôn đốt bàn chân số 3 của một loài thuộc Tông người được phát hiện từ năm 2007. Xương này của một loài người mới. Ảnh chụp bởi Lannon Harley, Đại học quốc gia Úc.
“ Vì vậy, câu hỏi đó là liệu một số đặc điểm trên đã liên quan đến sự thích nghi với cuộc sống trên đảo, hay chúng là các đặc điểm giải phẫu được di truyền cho Homo luzonensis từ tổ tiên của họ trước đó hơn 2 triệu năm.”
Trong khi vẫn còn khá nhiều câu hỏi xung quanh nguồn gốc của Homo luzonensis, và sự tồn tại lâu dài của chúng trên đảo Luzon, các cuộc khai quật gần đây gần Hang Callao đã cung cấp bằng chứng về tê giác và các công cụ đá khoảng 700,000 nghìn năm cách đây.
Gs Piper cho biết“Không có các hóa thạch người được tìm thấy, nhưng điều này cung cấp một khung niên đại cho sự mặt của Tông người trên đảo Luzon. Liệu có phải Homo luzonensis đã ăn tê giác – mà các di cốt tê giác đã được tìm thấy” .
“ Điều này làm cho toàn bộ khu vực thực sự quan trọng. Đất nước Philipin được tạo bởi nhiều quần đảo lớn bị chia tách đủ lâu để tạo ra một loài mới trên đảo. Vì vậy, không có lý do tại sao nghiên cứu khảo cổ ở Philippines không thể phát hiện ra một số loài thuộc Tông người. Có lẽ đó chỉ là vấn đề thời gian. "
Homo luzonensis có chung một vài đặc điểm xương độc nhất với loài nổi tiếng Homo floresiensis hoặc “hobbit”, được phát hiện trên đảo Flores đến vùng đông nam của quần đảo Philipin.
Ngoài ra, các công cụ đá có niên đại khoảng 200,000 năm cách ngày nay được tìm thấy trên đảo Sulawesi, có nghĩa là các hominins cổ này đã cư trú trên nhiều đảo lớn của Đông Nam Á.

Răng hàm trên bên phải của cá thể CCH6, mẫu loài mới Homo luzonensis. Từ trái sang phải: 2 răng tiền hàm và 3 răng hàm, nhìn từ mặt nhai. Ảnh chụp bởi: Dự án khảo cổ Hang Callo.
Dự án được dẫn đầu bởi Ts. Armand Mijares, Đại học Philipin, và Ts. Florent Détroit, Bảo tàng lịch sử quóc gia Pari và các nhà nghiên cứu từ đại học Bordeaux, đại học Paul Sabatier, và đại học Poitiers ở Pháp, cũng như đại học Griffith ở Úc.
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Nature.
APA citation: New species of early human found in the Philippines (2019, April 10) retrieved 18 April 2019 from https://phys.org/news/2019-04-species-early-human-philippines.html
Người dịch: Minh Trần
Trích nguồn: https://phys.org/news/2019-04-species-early-human-philippines.html

Scan CT và cấu trúc của răng P3- M2 hàm trên bên phải của Homo luzonensis ở hang Callao . Ảnh được chụp bởi nhóm dự án nghiên cứu hang Callao
Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã phát hiện ra các di cốt của một loài người mới ở Philipin, cho thấy khu vực này đóng vai trò quan trọng trong lịch sử tiến hóa Tông người.
Loài mới này, Homo luzonensis được đặt tên sau tên đảo Luzon, ở đó các hóa thạch hơn 50,000 năm tuổi này được phát hiện trong suốt các cuộc khai quật tại Hang Callao.
Đồng tác giả và là trưởng nhóm nghiên cứu, Giáo sư Philip Piper – Đại học Quốc gia Úc (ANU) cho biết những phát hiện này thể hiện bước đột phá trong sự hiểu biết của chúng ta về tiến hóa loài người trên khắp khu vực Đông Nam Á.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ít nhất 2 di cốt người trưởng thành và một trẻ em trong cùng lớp địa tầng.
“ Các di cốt hóa thạch bao gồm ngón tay, ngón chân và răng người trưởng thành. Chúng tôi cũng đã phát hiện được một xương đùi trẻ em.Có một số đặc điểm thật sự .thú vị - ví dụ, những chiếc răng thật sự nhỏ” – Gs. Piper cho biết.
“ Kích thước của những chiếc răng này nhìn chung (mặc dù không thường xuyên) phản ánh kích thước tổng thể của một động vật có vú, vì vậy chúng tôi cho rằng Homo luzonensis có lẽ tương đối nhỏ. Chính xác nó nhỏ như thế nào thì chúng tôi chưa biết. Chúng tôi cần tìm một vài xương từ chúng có thể để do được kích thước cơ thể chính xác hơn.”
“ Thật đáng kinh ngạc, các xương ngón chân và tay của chúng giống Australopithecine một cách đáng kể. Autralopithecines lần cuối cùng bước trên trái đất ở châu Phi khoảng 2 triệu năm cách đây và được xem là tổ tiên của nhóm Homo (Người), trong đó có con người hiện đại.

Gs. Philip Piper đến từ Đại học quốc gia Úc- trường Khảo cổ và Nhân học - với khuôn đốt bàn chân số 3 của một loài thuộc Tông người được phát hiện từ năm 2007. Xương này của một loài người mới. Ảnh chụp bởi Lannon Harley, Đại học quốc gia Úc.
“ Vì vậy, câu hỏi đó là liệu một số đặc điểm trên đã liên quan đến sự thích nghi với cuộc sống trên đảo, hay chúng là các đặc điểm giải phẫu được di truyền cho Homo luzonensis từ tổ tiên của họ trước đó hơn 2 triệu năm.”
Trong khi vẫn còn khá nhiều câu hỏi xung quanh nguồn gốc của Homo luzonensis, và sự tồn tại lâu dài của chúng trên đảo Luzon, các cuộc khai quật gần đây gần Hang Callao đã cung cấp bằng chứng về tê giác và các công cụ đá khoảng 700,000 nghìn năm cách đây.
Gs Piper cho biết“Không có các hóa thạch người được tìm thấy, nhưng điều này cung cấp một khung niên đại cho sự mặt của Tông người trên đảo Luzon. Liệu có phải Homo luzonensis đã ăn tê giác – mà các di cốt tê giác đã được tìm thấy” .
“ Điều này làm cho toàn bộ khu vực thực sự quan trọng. Đất nước Philipin được tạo bởi nhiều quần đảo lớn bị chia tách đủ lâu để tạo ra một loài mới trên đảo. Vì vậy, không có lý do tại sao nghiên cứu khảo cổ ở Philippines không thể phát hiện ra một số loài thuộc Tông người. Có lẽ đó chỉ là vấn đề thời gian. "
Homo luzonensis có chung một vài đặc điểm xương độc nhất với loài nổi tiếng Homo floresiensis hoặc “hobbit”, được phát hiện trên đảo Flores đến vùng đông nam của quần đảo Philipin.
Ngoài ra, các công cụ đá có niên đại khoảng 200,000 năm cách ngày nay được tìm thấy trên đảo Sulawesi, có nghĩa là các hominins cổ này đã cư trú trên nhiều đảo lớn của Đông Nam Á.

Răng hàm trên bên phải của cá thể CCH6, mẫu loài mới Homo luzonensis. Từ trái sang phải: 2 răng tiền hàm và 3 răng hàm, nhìn từ mặt nhai. Ảnh chụp bởi: Dự án khảo cổ Hang Callo.
Dự án được dẫn đầu bởi Ts. Armand Mijares, Đại học Philipin, và Ts. Florent Détroit, Bảo tàng lịch sử quóc gia Pari và các nhà nghiên cứu từ đại học Bordeaux, đại học Paul Sabatier, và đại học Poitiers ở Pháp, cũng như đại học Griffith ở Úc.
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Nature.
APA citation: New species of early human found in the Philippines (2019, April 10) retrieved 18 April 2019 from https://phys.org/news/2019-04-species-early-human-philippines.html
Người dịch: Minh Trần
Trích nguồn: https://phys.org/news/2019-04-species-early-human-philippines.html
Sáng 24-6, tại UBND xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa tổ chức báo cáo sơ bộ kết quả khai quật khảo cổ học tại di tích lăng miếu Triệu Tường. Dự buổi lễ có ông Phạm Đăng Quyền (Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa); đại diện lãnh đạo Viện Khảo cổ học Việt Nam, Hội đồng Di sản Quốc gia; các sở, ban, ngành cấp tỉnh; lãnh đạo huyện Hà Trung và xã Hà Long; các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, cơ quan chuyên môn...

Phát biểu của ông Phạm Đăng Quyền - Phó Chủ tịch tỉnh Thanh Hóa
Di tích lăng miếu Triệu Tường - Quốc miếu của nhà Nguyễn tọa lạc trên khu vực địa hình cảnh quan đồng bằng tương đối bằng phẳng với hệ thống núi đồi thấp bao quanh nằm trên địa bàn thôn Gia Miêu xã Hà Long (Hà Trung). Tổng diện tích khai quật khảo cổ tại khu di tích là 4319,8m2 gồm: tường thành và cổng phía Bắc 1070,8m2; tường thành và cổng phía Đông 1082m2; cổng phía Tây 770m2; cổng phía Nam 104,5m2; cầu phía đông 40m2; Nhà Công quán 100m2; Nhà kho 351m2; tường miếu và Nghi môn 534m2; Tây Đường 25m2; Miếu nhỏ 142,5m2; Hồ bán nguyệt 100m2. Trong quá trính khai quật đã phát hiện nhiều di vật, vật liệu xây dựng và nền móng kiến trúc thời Nguyễn.
Kết quả khai quật đã phát lộ nhiều dấu vết kiến trúc của di tích như: Nghi môn nằm phía trước Nguyên Miếu khoảng 63,8m trên trục thần đạo, cổng xây có ba lối, móng cổng dài 13,4m (đông – tây), rộng 4,8m (nam – bắc); móng tường miếu hình chữ nhật, nằm bên trong tường thành và bao xung quanh Nguyên Miếu và Trừng Quốc công miếu; Đông đường và Tây đường là hai kiến trúc nằm bên tả và bên hữu Nguyên miếu; Miếu nhỏ nằm sát bên ngoài tường Nguyên miếu phía nam, bên phải Nghi môn; Hồ bán nguyệt nằm trên trục thần đạo, phía trước Nguyên miếu. Hồ hình chữ nhật, xung quanh đươc kè bằng đá cuội màu xám đen; cùng một số công trình như Nhà kho, cầu…
Kết quả khai quật đã phát lộ nhiều dấu vết kiến trúc của di tích như: Nghi môn nằm phía trước Nguyên Miếu khoảng 63,8m trên trục thần đạo, cổng xây có ba lối, móng cổng dài 13,4m (đông – tây), rộng 4,8m (nam – bắc); móng tường miếu hình chữ nhật, nằm bên trong tường thành và bao xung quanh Nguyên Miếu và Trừng Quốc công miếu; Đông đường và Tây đường là hai kiến trúc nằm bên tả và bên hữu Nguyên miếu; Miếu nhỏ nằm sát bên ngoài tường Nguyên miếu phía nam, bên phải Nghi môn; Hồ bán nguyệt nằm trên trục thần đạo, phía trước Nguyên miếu. Hồ hình chữ nhật, xung quanh đươc kè bằng đá cuội màu xám đen; cùng một số công trình như Nhà kho, cầu…

Tham quan thực địa đã được khai quật khảo cổ

Một số hiện vật tìm thấy trong quá trình khai quật khảo cổ.
Quá trình khai quật khảo cổ cũng thu được số lượng lớn di vật thuộc 4 nhóm: vật liệu xây dựng; gốm sứ; sành và kim loại. Ở nhóm vật liệu xây dựng thì có đá, gạch ngói (một số viên có in chữ Hán về nơi sản xuất và cúng tiến); Gần 3000 hiện vật sứ, sành chủ yếu là mảnh bát, đĩa, nậm, vại, bình, vò…với các dòng men nâu, men trắng vẽ lam có niên đại từ thế kỷ XVI đến XX; đồ kim loại là những chiếc đinh sắt một đầu nhọn và hai đồng tiền nhỏ (một đồng niên hiệu Gia Long Thông Bảo 1802 – 1945)…
Căn cứ vào các đặc trưng di tích, di vật, thư tịch cổ, văn bia, truyền thuyết dân gian…các nhà khoa học đã xác định dấu tích kiến trúc xuất lộ tại Lăng miếu Triệu Tường thuộc thời Nguyễn. Di tích đã đươc tu bổ, sửa chữa trong nhiều triều đại nhà Nguyễn, khẳng định giá trị khu di tích trên nhiều phương diện: kiến trúc; hệ thống di vật và lịch sử văn hóa. Bước đầu so sánh, di tích Lăng miếu Triệu Tường của Hoàng tộc Nguyễn có nét tương đồng với Thế miếu ở kinh thành Huế. Nếu Thế miếu là nơi thờ các chúa, vua nhà Nguyễn thì Lăng miếu Triệu Tường lại là nơi thờ gốc tổ nhà Nguyễn ở đất cố hương…
Với những kết quả đã đạt được trong quá trình khai quật khảo cổ, PGS.TS Tống Trung Tín - Ủy viên hội đồng Di sản quốc gia, Chủ tịch hội Khảo cổ học Việt Nam khẳng định: “Cuộc khảo cổ học đã làm rõ quy mô, cấu trúc, kiến trúc tổng thể của di tích. Quá trình khảo cổ cũng làm rõ được kỹ thuật, vật liệu xây dựng thời bấy giờ...Qua đó, các nhà khoa học và cơ quan chức năng sẽ có cơ sở cho việc tìm ra phương án tối ưu nhất để bảo tồn, phát huy giá trị di tích”.
Căn cứ vào các đặc trưng di tích, di vật, thư tịch cổ, văn bia, truyền thuyết dân gian…các nhà khoa học đã xác định dấu tích kiến trúc xuất lộ tại Lăng miếu Triệu Tường thuộc thời Nguyễn. Di tích đã đươc tu bổ, sửa chữa trong nhiều triều đại nhà Nguyễn, khẳng định giá trị khu di tích trên nhiều phương diện: kiến trúc; hệ thống di vật và lịch sử văn hóa. Bước đầu so sánh, di tích Lăng miếu Triệu Tường của Hoàng tộc Nguyễn có nét tương đồng với Thế miếu ở kinh thành Huế. Nếu Thế miếu là nơi thờ các chúa, vua nhà Nguyễn thì Lăng miếu Triệu Tường lại là nơi thờ gốc tổ nhà Nguyễn ở đất cố hương…
Với những kết quả đã đạt được trong quá trình khai quật khảo cổ, PGS.TS Tống Trung Tín - Ủy viên hội đồng Di sản quốc gia, Chủ tịch hội Khảo cổ học Việt Nam khẳng định: “Cuộc khảo cổ học đã làm rõ quy mô, cấu trúc, kiến trúc tổng thể của di tích. Quá trình khảo cổ cũng làm rõ được kỹ thuật, vật liệu xây dựng thời bấy giờ...Qua đó, các nhà khoa học và cơ quan chức năng sẽ có cơ sở cho việc tìm ra phương án tối ưu nhất để bảo tồn, phát huy giá trị di tích”.

Mô hình phục dựng khu lăng miếu Triệu Tường
Ghi nhận những nỗ lưc, cố gắng và kết quả khai quật khảo cổ học đã đạt được, ông Phạm Đăng Quyền - Phó Chủ tịch tỉnh Thanh Hóa đề nghị Viện Khảo cổ học hoàn thiện báo cáo chính thức làm cơ sở trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để việc bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị khu di tích Lăng miếu Triệu Tường được sớm triển khai. Đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh cũng đề nghị Sở VHTT&DL phối hợp với huyện Hà Trung bảo quản, bảo vệ tốt hiện vật, di vật đã đươc tìm thấy trong quá trình khai quật khảo cổ…
Qua đào thám sát khảo cổ tại động Puông cạn ở thôn Bản Vài, xã Khang Ninh (Ba Bể), đoàn công tác của Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn và các chuyên gia đã tìm thấy nhiều hiện vật, trong đó có hiện vật thuộc văn hóa Hòa Bình.

Các di vật bằng đá được tìm thấy tại động Puông Cạn
Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn vừa mời các chuyên gia khảo cổ học tiến hành nghiên cứu, đào thám sát tại hang động Puông cạn (tiếng Tày gọi là Puông bốc). Địa điểm thực hiện đào thám sát ở khu vực gần chính giữa cửa động chính, diện tích thực hiện đào thám sát 5m2, địa tầng văn hóa nơi dầy nhất được xác định còn 70cm. 73 di vật đã được tìm thấy, trong đó có 71 di vật đá, 1 công cụ mũi nhọn xương thuộc thời Tiền sử, 1 viên đạn đá thời Lê Mạc cùng nhiều mảnh gốm sứ.
Từ các di vật đã được phát hiện sơ bộ cho thấy đây là địa điểm cư trú của con người thuộc nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, lớp cư dân sớm thuộc văn hóa Hòa Bình có niên đại khoảng 8.000 - 9.000 năm cách ngày nay, lớp cư dân muộn trải dài từ thời kỳ Lê - Mạc, đến thời Nguyễn và cận hiện đại sau này.
Việc phát hiện dấu tích người tiền sử tại động Puông Cạn (Puông bốc) là một minh chứng khảo cổ học góp phần khẳng định con người đã thường xuyên, liên tục cư trú từ thời tiền sử cho đến nay trên mảnh đất Ba Bể nói riêng, tỉnh Bắc Kạn nói chung./.
(Nguồn: baobackan.org.vn)
Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 54 của ngành Khảo cổ học Việt Nam do Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, như thường lệ sẽ diễn ra vào cuối tháng 9 năm 2019, tại Hà Nội.
Ban tổ chức Hội nghị kính mời các tổ chức, cá nhân làm công tác Khảo cổ học và các ngành có liên quan gửi bài viết tham dự hội nghị (Chi tiết xin xem file đính kèm).
Nội dung bài viết: Những phát hiện, nghiên cứu mới về khảo cổ học từ tháng 9/2018 đến nay.
Hình thức: Mỗi bài viết tối đa 03 trang đánh máy khổ A4 và không quá 03 tên tác giả; phông chữ thống nhất Unicode - Time New Roman cỡ chữ 13. Ban tổ chức không chấp nhận các bản text định dạng Pdf.
Địa chỉ nhận bài: Viện Khảo cổ học, số 61 - Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: hoinghitbkch@gmail.com
Thời hạn nhận bài: đến hết ngày 5/9/2019.
Chúng tôi hy vọng với sự quan tâm và hợp tác của quý cơ quan và quý vị, Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 54 sẽ thành công tốt đẹp.
Trân trọng!
Ban tổ chức Hội nghị kính mời các tổ chức, cá nhân làm công tác Khảo cổ học và các ngành có liên quan gửi bài viết tham dự hội nghị (Chi tiết xin xem file đính kèm).
Nội dung bài viết: Những phát hiện, nghiên cứu mới về khảo cổ học từ tháng 9/2018 đến nay.
Hình thức: Mỗi bài viết tối đa 03 trang đánh máy khổ A4 và không quá 03 tên tác giả; phông chữ thống nhất Unicode - Time New Roman cỡ chữ 13. Ban tổ chức không chấp nhận các bản text định dạng Pdf.
Địa chỉ nhận bài: Viện Khảo cổ học, số 61 - Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: hoinghitbkch@gmail.com
Thời hạn nhận bài: đến hết ngày 5/9/2019.
Chúng tôi hy vọng với sự quan tâm và hợp tác của quý cơ quan và quý vị, Hội nghị thông báo Những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 54 sẽ thành công tốt đẹp.
Trân trọng!
Trang
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9589954
Số người đang online: 20