- Nxb: Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
- Khổ sách: 19 x 27cm
- Số trang: 260tr
- Năm xuất bản: 2004
Cuốn sách sẽ cung cấp đầy đủ nhất về con người và đất nước Trung Quốc, lịch sử các triều đại, văn minh, văn hóa, kiến trúc trung quốc v.v... bao gồm 3 phần và 15 chương, mỗi phần 5 chương.
Chương 1: Với tiêu đề là Thiên Hạ. Trong chương này tác giả cung cấp các thông tin về biên cương, lãnh hải, núi non sông nước, tài nguyên sinh thái, dân cư, tỉnh thành, giao thông ... của đất nước Trung Quốc.
Chương 2: Tiêu đề là Liên tục và chuyển biến. Phần này cuốn sách nói về các nước cổ, các nước có lãnh thổ, các vương quốc đầu tiên, thời phân tranh, các vương quốc thời trung cổ, sự di chuyển về phương Nam, những triều đại chinh phục nước khác, chế độ độc tài, đỉnh thịnh và suy thoái.
Chương 3: Vai trò của nhà nước. Phần này đề cập đến thiên tử, cung điện và triều đình, công lý và luật pháp, quân sự, cai trị đất nước như thế nào.
Chương 4:Đề cập đến vấn đề gia đình và xã hội như những mối ràng buộc phụ nữ trong xã hội, quan hôn tang tế, đời sống nông thôn, thành thị, thân hào nhân sĩ.
Chương 5. Bàn về sĩ nông công thương, định cư và nông nghiệp, công nghiệp, thương mại đường bộ và đường biển.
Phần 2. Đề cập đến Tín ngưỡng và nghi lễ. Gồm 5 chương tiếp theo giới thiệu về các đạo: nho giáo, đạo giáo, đạo phật, thiên địa thái hòa, thế giới ma quỷ và thần linh.
Phần 3: Sáng tạo và khám phá. Đề cập đến các lĩnh vực của Trung Quốc như y dược, khoa học kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn, kiến trúc.
Di chỉ khảo cổ học Vườn Chuối, trong các văn liệu khảo cổ học và dân gian truyền miệng, còn có những tên gọi khác nữa: Gò Mả Phượng, Gò Dền Rắn, Gò Chùa Gio, Gò Cây Muỗng, Gò Mả Đống, Gò Chiền Vậy... Dẫu với tên gọi nào, nó vẫn là một địa danh nổi tiếng và khá quen thuộc trong giới khảo cổ học Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
Quen thuộc và nổi tiếng vì di chỉ này đã có tới 8 lần khai quật, bắt đầu từ cuối thập niên 60 của thế kỷ trước và cuối cùng là năm 2014 với tổng diện tích lên tới trên 600m2. Quen thuộc và nổi tiếng của Vườn Chuối còn nằm ở giá trị của di tồn nằm trong tầng văn hóa, giúp cho nhận thức về thời đại Kim khí Thủ đô có thêm nhiều tư liệu mới, bổ sung cho nhận thức chung của thời đại kim khí Việt Nam. Quen thuộc và nổi tiếng của Vườn Chuối còn nằm trong nhận định của các nhà khoa học, khi 8 lần khai quật, dường như cho kết quả khác nhau về địa tầng, niên đại, tính chất của di tích, phản ánh qua các báo cáo khai quật của nhiều cơ quan và nhiều cá nhân chủ trì, thậm chí, của một cơ quan, một cá nhân chủ trì, chứng tỏ tính phức tạp của di tích, cần phải được bảo tồn để nghiên cứu kỹ càng hơn.
Hiện trường khai quật khảo cổ học tại Vườn Vhuối (Hoài Đức, Hà Nội) năm 2013
Tôi chỉ lấy một số ví dụ, khai quật lần đầu tiên, năm 1969, một trong những người chủ trì khai quật cho rằng, Vườn Chuối thuộc giai đoạn phát triển cao của văn hóa Đồng Đậu, chưa loại bỏ hết yếu tố Phùng Nguyên. Đó là di chỉ cư trú của người Việt cổ cách ngày nay khoảng 3500 năm. Cuộc khai quật lần thứ hai, năm 2001, lại cho một địa tầng, không chỉ có Phùng Nguyên và Đồng Đậu, còn có cả lớp văn hóa Gò Mun và cư dân ở đây đã biết đúc đồng. Nghề luyện kim đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống cư dân cổ, bên cạnh nghề nông trồng lúa nước. Cuộc khai quật lần thứ ba, năm 2009, căn cứ vào địa tầng và di vật chứa đựng trong đó, những người khai quật cho rằng, Vườn Chuối về cơ bản là di chỉ cư trú một tầng văn hóa thuộc giai đoạn Đồng Đậu. Tại một số điểm có mộ táng thuộc giai đoạn Đông Sơn chôn vào tầng văn hóa Đồng Đậu, cư dân Vườn Chuối đã phát triển luyện kim, trồng lúa, biết chăn nuôi, làm gốm, xe sợi, dệt vải... Cuộc khai quật lần thứ tư, năm 2011, với diện tích 286m2, đã cho một nhận thức rằng, Vườn Chuối là một làng cư trú của người Đồng Đậu - Gò Mun đã được người Đồng Đậu và Đông Sơn sử dụng làm nghĩa địa. Những cuộc khai quật tiếp theo, Vườn Chuối vẫn cung cấp nhiều tài liệu hiện vật phong phú, địa tầng phức tạp, theo đó là những nhận định mới mẻ, gây nhiều thảo luận về học thuật trong giới khảo cổ học.
Nói như vậy, để thấy được tầm ảnh hưởng và vị trí quan trọng của Vườn Chuối trong việc nghiên cứu thời đại dựng nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam mà tư liệu từ nơi này cung cấp.
Quan trọng, nổi tiếng và quen thuộc như vậy, nên theo tôi, Vườn Chuối không thể bị xóa sổ trên bản đồ khảo cổ học Thủ đô và cả nước, như một số di tích khảo cổ học khác, khai quật để giải tỏa, lấy quỹ đất, phục vụ cho mục đích xây dựng, cho dù mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển luôn là mối bận tâm của các nhà quản lý, không chỉ ở nước ta mà ở tất cả các quốc gia đang phát triển trên thế giới.
Khai quật di chỉ Vườn Chuối năm 2013
Không khai quật để giải tỏa, theo đó, kịch bản của tôi đối với Vườn Chuối chính là một công viên khảo cổ học sẽ được xây dựng ở nơi đây. Với diện tích 19.000m2, nằm trên một gò đất tương đối cao so với quanh vùng, lại lọt trong một quy hoạch đô thị tương lai, công viên này sẽ rất hữu ích để tạo không gian sinh thái trong đô thị. Tại công viên này, những loại cây rễ nông, thân nhỏ, những vườn hoa, cây bụi và cây leo cần được nghiên cứu kỹ, trồng ở đây, để tránh rễ cây xâm hại sâu dưới lòng đất, phá hủy địa tầng khu di chỉ. Những hố khai quật từ bẩy mùa, sẽ được viền bao bằng những hàng rào cây tỉa thấp, theo đúng diện tích đã khai quật, quanh đó là những pa-nô giới thiệu kết quả khai quật (ảnh hiện vật, bản vẽ địa tầng, nhận định ngắn gọn của những người khai quật). Tên của công viên phải chăng là Vườn Chuối, Chiền Vậy... như là sự gợi nhớ về một địa danh cổ cho thế hệ mai sau, khi nơi đây sẽ là một khu đô thị hiện đại trong tương lai. Tên đường, phố, công trình công cộng, qua di tích, qua văn hóa khảo cổ, cũng là một ý tưởng hay của ngành Văn hóa Thủ đô trình UBND và Hội đồng nhân dân thành phố xét, để đưa vào ngân hàng dữ liệu đặt tên trong tương lai, thiết tưởng sẽ là một lợi thế cho sự đồng thuận với tên gọi nêu trên. Công viên, rồi đây sẽ có một phòng trưng bày bổ sung, được chuẩn bị công phu và hấp dẫn, giao cho cộng đồng quản lý và phát huy. Tại công viên này còn có những workshops để sinh viên và các nhà khảo cổ học trẻ khai quật, chủ yếu để đào tạo, với một diện tích khai quật rất hạn chế. Sau khai quật như thế, diện tích phải trả lại cho công viên và lại được trồng cây hàng rào quanh hố, pa-nô giới thiệu như những hố khai quật của bảy lần trước. Kiểu công viên này, tôi đã thấy ở Thiểm Tây (Trung Quốc) - một công viên thời Đường với Nhạn Tháp làm điểm nhấn, cùng nhiều công trình lầu tháp thời đại này được phục hồi và ban đêm, những suất biểu diễn ánh sáng 3D, kể câu chuyện Đường Tam Tạng đi lấy kinh cùng những đèn ống, được sắp đặt khoa học, trên đó có những bài thơ của những tác giả nổi tiếng thời Đường, đem đến một sự thưởng ngoạn đa dạng cho du khách.
Tôi không dám lấy mẫu công viên này để áp vào Vườn Chuối vì đó là công viên quá lớn, quá rộng, và quá hấp dẫn, nhưng sẽ là một mẫu hình tốt để tham khảo, áp dụng cho Vườn Chuối với hoàn cảnh cụ thể và tương thích để nó phát huy có hiệu quả.
TS Phạm Quốc Quân (Đăng trên thegioidisan.vn)
Trình bày: Dr. Renaun Joannnes-Boyau (Trường Đại Học Southen Cross, Úc).
Thời gian: 14:00, thứ hai ngày 18 tháng 3 năm 2019.
Địa điểm: Hội trường Viện Khảo cổ học, 61 Phan Chu Trinh - Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Trân trọng kính mời!
- Nxb: Thanh Niên
- Khổ sách: 24 x26cm
- Số trang: 185tr
- Năm xuất bản: 2017
Đây là một công trình tập hợp giới thiệu đầy đủ nhất về 45 tác phẩm gốm mang họ tên và phong cách tạo tác của ông.
Đặng Huyền Thông là một tượng nhân gốm thời Mạc mà tên tuổi còn được lưu danh trên nhiều tác phẩm gốm mem lam xám. Tên đầy đủ là Đặng Mậu Nghiệp, tự là Huyền Thông. Ông là sinh đồ, người đã thi đỗ tam trường, làm thợ gốm, quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay là Minh Tân, Nam Sách, Hải Dương).
Hiện nay có tới 45 tác phẩm của ông hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam và các Bảo tàng Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Mỹ thuật cung đình Huế ... trong đó có hiện vật đã được chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Loại hình đồ gốm của Đặng Huyền Thông bao gồm các loại đồ thờ như chân đèn, lư hương, mô hình tháp thờ, hũ thơ. Trang trí hoa văn trên các tác phẩm gốm này gồm nhiều đề tài như hình rồng, hoa sen dây, hoa cúc, hình học ...đặc biệt hoa văn hình học được coi là dấu hiệu nối tiếp phong cách truyền thống văn hóa Đông Sơn.
Nội dung cuốn sách được bố cục 5 chương kèm theo phụ lục ảnh minh họa:
Chương 1: Tác phẩm gốm của Đặng Huyền Thông trong khoảng niên hiệu Diên Thành - Đoan Thái (1578 -1588)
Chương 2: Tác phẩm gốm của Đặng Huyền Thông trong khoảng niên hiệu Hưng Trị (1588 - 1591)
Chương 3: Tác phẩm gốm của Đặng Thiện Sỹ trong khoảng niên hiệu Hồng Ninh (1591 - 1592).
Chương 4: Nét tài hoa của tượng nhân gốm thể hiện qua loại hình và trang trí.
Chương 5: Đóng góp vào lịch sử nghệ thuật gốm thời Mạc.
Xin trân trọng giới thiệu!!
- Nxb: Khoa học xã hội
- Khổ sách: 16 x 24cm
- Số trang: 334tr
- Năm xuất bản: 2017
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Tác giả đưa ra các khái niệm cơ bản và một số vấn đề lý thuyết về liên kết vùng, các nhân tố ảnh hưởng và kinh nghiệm thực tiễn về liên kết vùng.
Chương 2: Nêu thực trạng liên kết nội vùng Tây Nguyên: các yếu tố ảnh hưởng, lợi thế so sánh của vùng Tây Nguyên, liên kết kinh tế, liên kết bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, liên kết với các địa phương khác, đồng thời đánh giá hạn chế và nguyên nhân hạn chế.
Chương 3: Đưa ra quan điểm, giải pháp đẩy mạnh liên kết nội vùng Tây Nguyên đến năm 2020.
Xin trân trọng giới thiệu!!
- Nxb: Khoa học xã hội
- Khổ sách: 16 x 24cm
- Số trang: 286tr
- Năm xuất bản: 2017
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Hậu quả chính của sự biến đổi khí hậu toàn cầu là: Các hệ sinh thái bị phá hủy, mất đa dạng sinh học, chiến tranh và xung đột, các tác hại kinh tế, dịch bệnh v.v.. Vì vậy trên cơ sở khảo sát cụ thể tại một số thành phố: Cần Thơ, Long Xuyên (An Giang) và Cà Mau ở Đồng bằng sông Cửu Long, tác giả đưa ra một số vấn đề chính sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và một số mô hình phát triển bền vững đô thị thích ứng với ngập lụt và nước biển dâng.
Chương 2: Ảnh hưởng nước biển dâng đến hệ thống đô thị ở Việt Nam
Chương 3: Dự báo ảnh hưởng của nước biển dâng và khả năng thích ứng của các thành phố Cần Thơ, Cà Mau và Long Xuyên ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Nxb: Khoa học xã hội
- Khổ sách: 16 x 24cm
- Số trang: 787tr
- Năm xuất bản: 2018
Nội dung cuốn sách: Cuốn sách được PGS.TS Lê Hải Đăng, ThS. Nguyễn Thị Thúy Nga thuộc Viện Thông tin Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm KHXH phát hành nhằm mục đích cung cấp một tuyển tập những từ khóa về khoa học xã hội và nhân văn nhằm thống nhất việc mô tả chủ đề nội dung tài liệu, mô tả các đối tượng và phương diện nghiên cứu chứa đựng trong nội dung tài liệu dành cho các thủ thư của hệ thống các thư viện trực thuộc Viện Hàn lâm, đồng thời giúp ích cho các bạn đọc khi đến thư viện tra cứu tin trong các cơ sở dữ liệu tại thư viện của viện mình.
Bộ từ khóa được biên soạn gồm 62.410 từ, thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn như: Triết học, xã hội học, kinh tế, nhà nước và pháp luật, lịch sử, văn hóa, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn học, khảo cổ học, tâm lý học v.v....
Mỗi người đang sống trên hành tinh ngày nay là một người Homo sapiens và loài của chúng ta đã tiến hóa khoảng 300.000 năm trước ở Châu Phi. Vào tháng 1 năm 2018, một nhóm các nhà khảo cổ học dẫn đầu bởi Israel Hershkovitz, Đại học Tel Aviv ở Israel đã có phát hiện đáng kinh ngạc tại hang Misiya nằm trên sườn tây của Núi Carmel ở Israel. Địa điểm này trước đây đã thu được các hiện vật đá lửa có niên đại từ 140.000 đến 250.000 năm trước, và giả định rằng những công cụ này được tạo ra bởi người Neanderthal – những người cư trú ở Israel vào thời điểm đó. Nhưng xuất hiện trong cùng lớp trầm tích chứa các công cụ đá này là hàm trên của Homo sapiens! Có niên đại cách đây từ 177.000 đến 194.000 năm được xác định niên đại bằng 3 phương pháp khác nhau, phát hiện trên đã đẩy lùi bằng chứng cho sự di cư của con người ra khỏi châu Phi khoảng 40.000 năm. Nó cũng ủng hộ ý kiến cho rằng có nhiều làn sóng người hiện đại di cư ra khỏi châu Phi trong thời gian này, một số trong đó có thể không còn tồn tại để truyền gen của họ cho người hiện đại còn sống ngày nay. Đáng chú ý, xương hàm này được phát hiện bởi một sinh viên năm thứ nhất tại Đại học Tel Aviv trong cuộc khai quật khảo cổ đầu tiên của cô vào năm 2002.
2) Những tiến bộ của con người hiện đại: giao thương đường dài, sử dụng màu sắc và các công cụ cổ nhất thời Đá giữa ở Châu Phi
Tại di chỉ tiền sử Olorgesailie ở miền nam Kenya, qua nhiều năm nghiên cứu khí hậu và khai quật tỉ mỉ bởi một nhóm nghiên cứu đứng đầu bởi Rick Potts thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Smithsonian và Alison Brooks thuộc Đại học George Washington đã phát hiện các bằng chứng, tư liệu khảo cổ và cổ môi trường để ghi nhận sự thay đổi tập tính của người hiện đại đối phó với sự biến đổi khí hậu. Các hiện vật cho thấy một sự thay đổi từ các công cụ lớn và nặng hơn của Acheulean, được đặc trưng bởi các rìu tay hình giọt nước, đến các công cụ tinh vi và chuyên dụng hơn của thời kỳ đồ Đá giữa (MSA= Middle Stone Age). Các công cụ thời Đá giữa đã có từ 320.000 năm trước, là bằng chứng sớm nhất về kĩ nghệ này ở Châu Phi.
Họ cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy một trong những loại đá sử dụng để chế tác các công cụ thời Đá giữa, Obsidian, được lấy cách đó ít nhất 55 dặm (95 km). Khoảng cách xa như vậy đã khiến các nhóm nghiên cứu kết luận rằng obsidian đã được trao đổi trên các mạng lưới xã hội, vì điều này còn xa hơn nhiều so với các nhóm thợ rèn hiện đại thường giao thương trong một ngày. Tiêu biểu nhất, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy đá đỏ và đen (các sắc tố) được sử dụng làm vật liệu tô màu trong các địa điểm thời Đá giữa, chỉ ra giao tiếp biểu tượng, có thể được sử dụng để duy trì các mạng xã hội này với các nhóm ở xa.
Cuối cùng, tất cả các tiến bộ này diễn ra trong thời gian khí hậu và cảnh quan thay đổi lớn và không thể đoán trước, với một sự thay đổi lớn ở các loài động vật có vú (khoảng 85%). Trước sự không ổn định này, các thành viên ban đầu của loài chúng ta dường như đã đáp ứng bằng cách phát triển cải cách kĩ nghệ, kết nối xã hội lớn hơn và giao tiếp mang tính biểu tượng. Những phát hiện thú vị này đã được công bố trong bộ ba bài báo trong tạp chí Science, tập trung vào niên đại của những phát hiện này; kĩ nghệ đá , sự vận chuyển và sử dụng các đá sắc tố; cũng như những thay đổi trước đó trong môi trường và kĩ nghệ để dự đoán các đặc điểm sau này của các công cụ đá.
3) Người Neanderthal làm nghệ thuật: anh em họ tiến hóa gần gũi của chúng ta thực sự đã tạo ra những bức tranh hang động cổ nhất
Người Neanderthal thường được tưởng tượng là những người vũ phu nguyên thủy . Nhưng những phát hiện mới, bao gồm một phát hiện năm ngoái tiếp tục định hình lại hình ảnh đó. Nhóm nghiên cứu đứng đầu bởi Alistair Pike từ Đại học Southampton đã tìm thấy những bức tranh màu nâu đất màu đỏ - các nét chấm, các hộp, các hình động vật trừu tượng và các dấu tay - sâu bên trong ba hang động Tây Ban Nha. Đây có phải là phần tuyệt vời nhất? Những bức tranh này có niên đại ít nhất 65.000 năm trước, khoảng 20.000-25.000 năm trước khi Homo sapiens đến châu Âu (Homo sapiens đến châu Âu vào khoảng 40.000 đến 45.000 năm trước)!
Tuổi của các bức tranh được xác định bằng cách sử dụng niên đại uranium-thorium của lớp cặn màu trắng tạo bởi canxi cacbonat đã hình thành ở mặt trên của bức tranh bởi nước thấm qua đá. Do kết tủa canxit ở mặt trên các bức tranh, bởi vậy các bức tranh phải có trước kết tủa axit - vì vậy chúng sẽ già hơn tuổi của canxit. Tuổi của những bức tranh cho thấy người Neanderthal đã tạo ra chúng. Người ta thường cho rằng suy nghĩ biểu tượng (sự thể hiện của thực tế thông qua các khái niệm trừu tượng, ví dụ như nghệ thuật) là một khả năng duy nhất của Homo sapiens. Nhưng chia sẻ khả năng suy nghĩ tượng trưng của chúng ta với người Neanderthal có nghĩa là chúng ta có thể phải vẽ lại các hình ảnh của người Neanderthal trong văn hóa đại chúng: có lẽ họ nên cầm chổi vẽ thay thế.
4) Dấu chân người hiện đại lâu đời nhất ở Bắc Mỹ
Khi chúng ta suy nghĩ về cách chúng ta ghi dấu ấn của mình trên thế giới này, chúng ta thường đánh dấu để lại đằng sau những bức tranh hang động, những kiến trúc, hố lửa cũ và những đồ vật bị bỏ. Nhưng ngay cả một dấu chân có thể để lại dấu vết của sự chuyển động trong quá khứ! Một phát hiện năm 2018 của nhóm nghiên cứu do Duncan McLaran đứng đầu thuộc Đại học Victoria đã tiết lộ những dấu chân cổ nhất ở Bắc Mỹ!
29 dấu chân này được tạo ra bởi ít nhất 3 người trên đảo Calvert nhỏ bé của Canada. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng niên đại Carbon-14 của gỗ hóa thạch được tìm thấy cùng với các dấu chân để định niên đại cho những phát hiện này từ 13.000 năm trước. Địa điểm này có thể là điểm dừng chân trên tuyến đường ven biển giai đoạn Pleistocene muộn khi di cư từ châu Á đến châu Mỹ. Vì kích thước nhỏ của chúng, một số dấu chân phải được tạo ra bởi một đứa trẻ - sẽ mang giày cỡ 7 cho trẻ em ngày nay, nếu chúng đi giày (điều thú vị là bằng chứng trên cho thấy chúng đã đi chân trần). Là con người, bản chất xã hội và chăm sóc rất cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta. Một trong những thành viên của nhóm nghiên cứu, Jennifer Walkus, đã đề cập đến lý do tại sao dấu chân của đứa trẻ này rất đặc biệt: “ Bởi vì thường thì những đứa trẻ vắng mặt trong ghi nhận hồ sơ khảo cổ. Điều này thực sự làm cho khảo cổ học mang tính cá nhân hơn. Bất kỳ địa điểm nào có dấu chân người được bảo tồn đều khá đặc biệt, vì hiện tại chỉ có vài chục người trên thế giới.
5) Răng trẻ em người Neanderthal tiết lộ thông tin chi tiết cuộc sống hàng ngày của họ
Bằng chứng về trẻ em là rất hiếm trong hồ sơ khảo cổ tiền sử; xương của chúng mỏng manh hơn hơn xương của người trưởng thành và do đó ít có khả năng sống sót và hóa thạch, và các hiện vật do chúng tạo ra cũng gần như không thể xác định được. Ví dụ, một công cụ bằng đá được tạo ra bởi một đứa trẻ có thể được hiểu là được làm một cách vội vã hoặc bởi một người mới học việc, và các đồ chơi là một phát hiện khá mới. Để phát hiện ra các di cốt này (các di cốt này có lẽ là trẻ em ) rất thú vị đối với các nhà khảo cổ - không chỉ cho cá nhân mà còn cho chúng ta nhận thức mới có thể biết về cách những cá thể đó trưởng thành, chịu đựng.
Theo một nghiên cứu mới do Tiến sĩ Tanya Smith dẫn đầu thuộc đại học Griffith, Australia. Smith và và nhóm của cô đã nghiên cứu răng của hai đứa trẻ Neanderthal sống cách đây 250.000 năm ở miền Nam nước Pháp.Họ lấy những phần mỏng của hai chiếc răng và “đọc” các lớp men, các lớp này phát triển theo cách tương tự như vòng sinh trưởng của cây: trong thời gian bị stress, những biến đổi nhẹ xảy ra trong lớp men răng. Hóa học men răng cũng ghi nhận sự biến đổi môi trường dựa trên khí hậu nơi người Neanderthal lớn lên, bởi vì nó phản ánh thành phần hóa học của nước và thức ăn cái mà những đứa trẻ Neanderthal đã ăn và uống. Nhóm nghiên cứu xác định rằng hai đứa trẻ Neanderthal bị stress về thể chất trong suốt những tháng mùa đông - chúng dường như trải qua các cơn sốt, thiếu vitamin hoặc bệnh tật thường xuyên hơn trong các mùa lạnh hơn.
Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy mức độ phơi nhiễm chì cao lặp lại ở cả hai răng của người Neanderthal, mặc dù nguồn chính xác của chì không rõ ràng - có thể là do ăn hoặc uống thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm, hoặc hít phải khói từ lửa làm từ vật liệu bị ô nhiễm. Họ cũng phát hiện ra rằng một trong những trẻ em Neanderthal này được sinh ra vào mùa xuân và cai sữa vào mùa thu, và được cho bú cho đến khi nó khoảng 2,5 tuổi, tương đương với độ tuổi trung bình cai sữa trong quần thể người hiện đại phi công nghiệp. (Họ hàng sống gần nhất của chúng ta (tinh tinh và tinh tinh lùn (bonobos) được cho bú lâu hơn chúng ta tới 5 năm.) Những phát hiện như thế này là một dấu hiệu khác cho thấy người Neanderthal giống với Homo sapiens hơn là chúng ta từng nghĩ. Nhà nhân chủng Kristin Krueger lưu ý rằng những khám phá như thế này đang tạo ra những đường ranh giới giữa ‘chúng và’ chúng ta [trở nên mờ nhạt hơn] mỗi ngày.
6 )Phát hiện đầu tiên về sự lai con người cổ đại
Có lẽ đây là câu chuyện đáng bàn nhất năm 2018: một phát hiện mới ở hang Denisova, Siberia đã thêm vào lịch sử phức tạp của người Neanderthal và các loài người cổ đại khác. Trong khi hóa thạch của người Neanderthal đã được biết đến trong gần hai thế kỷ, những người Denisovan là một quần thể thuộc Tông người chỉ mới được phát hiện vào năm 2008 dựa trên giải trình tự bộ gen của họ từ một mảnh xương ngón tay 41.000 năm tuổi từ hang Denisova – hang được cư trú bởi người Neanderthal và những người hiện đại.
Trong khi tất cả các hóa thạch được biết đến của người Denisovan gần như có thể nằm gọn trong một bàn tay, nhưng lượng thông tin chúng ta có thể nhận được từ A DN của họ là rất lớn! Năm nay, một phát hiện đáng kinh ngạc từ một mảnh xương dài được xác định là của một cô bé 13 tuổi có biệt danh là Denny, sống cách đây khoảng 90.000 năm: cô là con gái của một người mẹ Neanderthal và cha là người Denisovan. Một nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Viviane Slon và Svante Pääbo đến từ Viện Nhân chủng học tiến hóa Max Planck ở Leipzig, Đức, lần đầu tiên giám định ADN ty thể (mitochondrial DNA ) của cô bé Denny và thấy rằng đó là ADN của người Neanderthal - nhưng đó dường như không phải là toàn bộ câu chuyện di truyền của cô ấy. Sau đó, họ đã giải trình tự gen nhân của cô và so sánh nó với bộ gen của những người Neanderthal và người Denisovans khác từ cùng một hang, và so sánh nó với một người hiện đại không có tổ tiên là người Neanderthal. Họ thấy rằng khoảng 40% các đoạn ADN của Denny đã khớp với bộ gen của người Neanderthal và 40% khác phù hợp với bộ gen của người Denisovan. Sau đó, nhóm nghiên cứu nhận ra rằng điều này có nghĩa là Denny đã có bộ nhiễm sắc thể mà một nửa nhận từ bố và một nửa nhận từ mẹ, bố mẹ cô phải là hai loài người sớm khác nhau. Vì ADN ty thể của cô ấy - được thừa hưởng từ mẹ - là người Neanderthal, nên nhóm có thể nói chắc chắn rằng mẹ cô là người Neanderthal và người cha là Denisovan. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu rất cẩn thận về việc không sử dụng từ "lai " trong bài báo của họ, thay vào đó nói rằng Denny là một thế hệ đầu tiên của sự hỗn huyết tổ tiên. Họ lưu ý đến bản chất khó hiểu của khái niệm loài sinh học: ý kiến này cho rằng một cách chính để phân biệt loài này với loài khác là các cá thể của các loài khác nhau không thể giao phối và sinh ra những đứa con khỏe mạnh. Tuy nhiên, chúng ta thấy sự lai thường xảy ra trong thế giới tự nhiên, đặc biệt là khi hai quần thể dường như đang ở giai đoạn đầu của việc tách loài - bởi vì sự tách loài là một quá trình thường mất nhiều thời gian.
Rõ ràng từ các bằng chứng di truyền cho thấy các cá thể người Neanderthal và Homo sapiens đôi khi có thể giao phối và sinh con, nhưng không rõ liệu những giao hợp này có bao gồm những khó khăn khi tạo ra sự mang thai hoặc khó khăn trong quá trình mang thai - và những cá thể nữ người hiện đại cùng với những cá thể nam người Neanderthal có thể có những khó khăn đặc biệt để tạo ra các em bé. Trong khi người Neanderthal đóng góp ADN cho bộ gen của người hiện đại, thì điều ngược lại dường như chưa xảy ra. Bất kể lịch sử phức tạp của việc hỗn huyết các nhóm người đầu tiên khác nhau, Tiến sĩ Skoglund từ Viện nghiên cứu Francis Crick nhấn mạnh những gì mà nhiều nhà nghiên cứu khác đang nghĩ về khám phá tuyệt vời này đó là “[Denny có thể] là người hấp dẫn nhất đã có bộ gen được giải trình tự”.
Di cốt Denny được phát hiện ở hang Denisova ở miền Nam Siberia. Ảnh chụp bởi Bence Viola/Viện Nhân chủng tiến hóa Max Planck.
Nguồn:
https://blogs.plos.org/scicomm/2018/12/11/top-6-human-evolution-discoveries-of-2018/
https://www.nature.com/articles/d41586-018-06004-0
Người dịch: Minh Tran
Các cư dân cổ ở Antelope House, thuộc đài tượng niệm quốc gia Arizona's Canyon de Chelly đã trồng các loại cây như ngô, đậu và bí.
Ảnh được chụp bởi National Parks Service
Chỉ có một vài virus ARN đã được phát hiện trước đây từ các mẫu khảo cổ học, loại có niên đại lâu đời nhất từ khoảng 750 năm trước. Phát hiện mới được đưa ra khi nhóm các nhà khoa học nghiên cứu các tàn tích thực vật cổ từ Antelope House, một tàn tích của tổ tiên người da đỏ (Ancestral Puebloan) nằm ở Di tích Quốc gia Canyon de Chelly, Arizona.
Tổ tiên người da đỏ sống ở hẻm núi trồng các loại cây trồng như ngô, đậu và bí. Trong cuộc khai quật Nhà Antelope của Dịch vụ Công viên Quốc gia (National Park Service ) vào những năm 1970, hơn hai tấn tàn tích thực vật, ở dạng rất dễ nhận biết, đã được phục dựng.
Người đứng đầu nghiên cứu này, Marilyn Roossinck, giáo sư nghiên cứu bệnh học thực vật và vi sinh vật học môi trường, Đại học Khoa học Nông nghiệp, bang Penn cho biết: “rõ ràng từ những tàn tích thực vật này ngô là nguồn thức ăn chính của những cư dân nơi đây”.
Những tàn tích ngô được thu hồi tại Antelope House bao gồm lõi ngô, vỏ hạt ngô, lá, phần thân và râu ngô
Sử dụng phương pháp xác định niên đại C14, các nhà nghiên cứu đã xác nhận rằng tuổi của các mẫu cổ trên là khoảng 1.000 năm. Trong khi phân tích lõi ngô, các nhà khoa học đã phân tích 3 bộ gennome gần như toàn vẹn của loài virus chưa từng được biết trước đây, thuộc họ Chrysoviridae, nhóm virus lây nhiễm cho thực vật và nấm.
Niên C14 đã hiệu chỉnh của các mẫu lõi ngô (Mahtab Peyambari và cs, 2018)
Các nhà nghiên cứu đã đưa những phát hiện gần đây này của họ trên Tạp chí Virus học (Journal of Virology ) và lưu ý rằng chrysovirus là những virus thực vật tồn tại dai dẳng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua hạt giống và có thể tồn tại trong vật chủ trong thời gian rất dài. Các virus tồn tại dai dẳng thường không gây bệnh và hiếm khi được phát hiện. Đây là loại chrysovirus đầu tiên được mô tả từ ngô, Roossinck lưu ý.
"Khi chúng tôi phân tích các mẫu ngô hiện đại, chúng tôi đã tìm thấy chrysovirus tương tự chỉ với khoảng 3 phần trăm biến dị so với các mẫu cổ xưa", cô nói. "Hầu hết các virus ARN, với thời gian thế hệ ngắn và sao chép dễ bị lỗi, phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, các virus dai dẳng có bộ gen rất ổn định."
Roossinck cho biết khía cạnh thú vị nhất từ những phát hiện này của nhóm nghiên cứu đó là virus đã tồn tại trong ngô từ rất lâu.
Cô cho biết thêm "Điều đó ngụ ý rằng virus có thể mang lại một số lợi ích tiềm ẩn cho thực vật, nhưng chúng tôi chưa chỉ ra được điều đó".
Nguồn:
https://www.sciencedaily.com/releases/2018/12/181213112111.htm
Người dịch: Minh Trần
Bằng chứng sớm nhất về một bức họa tạo bởi người Homo sapiens được tìm thấy trong hang Blombos phía nam Cape, Nam Phi.
Đây là cảnh bên ngoài hang Blombos ở phía nam Cape, Nam Phi. Ảnh được chụp bởi Magnus Haaland
Bức họa bao gồm ba vạch đỏ khắc chéo song song với sáu vạch riêng biệt, được vẽ một cách có chủ ý trên một mảnh tước silcrete nhẵn khoảng 73 000 năm trước. Nó có trước bức họa trước đó từ Châu Phi, Châu Âu và Đông Nam Á ít nhất 30 000 năm.
Bức họa trên mảnh tước silcrete là một phát hiện đáng ngạc nhiên của nhà khảo cổ học Ts. Luca Pollarolo, Đại học Witwatersrand (Wits), trong khi ông nghiên cứu tỉ mỉ hàng ngàn mảnh tương tự được khai quật từ Hang Blombos tại phòng thí nghiệm vệ tinh Wits, thị trấn Cape.
Bức họa hang Blombos bằng chì thổ hoàng trên đá silcrete. Ảnh được chụp bởi Craig Foster
Hang Blombos đã được khai quật bởi Giáo sư Christopher Henshilwood và Tiến sĩ Karen van Niekerk từ năm 1991. Địa điểm này có các hiện vật có niên đại từ 100 000 - 70 000 năm cách đây (thời kỳ đá giữa), cũng như hiện vật có niên đại từ 2000 - 300 năm cách đây.
Henshilwood người đứng đầu nghiên cứu tại Đại học Witwatersrand ở Nam Phi, và là Giám đốc của một Trung tâm Xuất sắc mới được tài trợ tại Đại học Bergen - Trung tâm Hành vi Sapiens sớm (SapienCE). Van Niekerk là điều tra viên chính tại SapienCE. Phát hiện của nhóm nghiên cứu về bức họa 73 000 năm tuổi đã được công bố trên tạp chí có sức ảnh hưởng lớn- tạp chí Nature, vào ngày 12 tháng 9.
Nhận ra rằng các đường kẻ trên mảnh tước không giống như bất cứ thứ khác mà nhóm đã nghiên cứu từ hang động trước đó, họ đã vạch ra câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra. Những đường kẻ này là tự nhiên, hay là một phần các đường cấu tạo của đá? Có phải chúng được tạo ra bởi những người sống trong Hang Blombos 73 000 năm trước? Nếu con người tạo ra các đường kẻ này, thì làm thế nào họ tạo ra chúng, và tại sao?
Dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Francesco d'Errico tại phòng thí nghiệm PACEA , Đại học Bordeaux, Pháp (tác giả thứ hai của bài báo), nhóm nghiên cứu đã kiểm tra và chụp ảnh mẫu đó dưới kính hiển vi để xác định xem liệu các đường đó có phải là một phần của đá hay chúng đã được vẽ trên đó. Để đảm bảo kết quả , họ cũng kiểm tra mẫu này bằng cách sử dụng phổ RAMAN và kính hiển vi điện tử. Sau khi xác nhận các đường được vẽ lên đá, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm nhiều kỹ thuật vẽ và sơn khác nhau và phát hiện ra rằng các nét vẽ đó được tạo ra bằng bút chì màu thổ hoàng, với đầu dày từ 1 đến 3 mm. Hơn nữa, việc kết thúc đột ngột các đường kẻ ở rìa của mảnh tước cũng gợi ý rằng mẫu vẽ ban đầu được mở rộng trên một bề mặt lớn hơn và có thể phức tạp hơn trong toàn bộ hình vẽ của nó.
ông Henshilwood cho biết: “Trước khi phát hiện ra, các nhà khảo cổ học nghiên cứu về thời đại Đá trong một thời gian dài đã bị thuyết phục rằng các biểu tượng không rõ ràng xuất hiện đầu tiên khi Homo sapiens vào châu Âu, khoảng 40 000 năm trước, và sau đó thay thế người Neanderthal bản địa. Những khám phá khảo cổ gần đây ở Châu Phi, Châu Âu và Châu Á, trong đó các thành viên trong nhóm của chúng tôi thường tham gia, hỗ trợ sự xuất hiện sớm hơn nhiều cho việc tạo ra và sử dụng các biểu tượng này.”
Khắc có lịch sử sớm hơn nhiều so với vẽ. Bức khắc sớm nhất được biết đến, một hình zig-zag, được khắc trên vỏ sò nước ngọt từ Trinil, Java, đã được tìm thấy trong các lớp có niên đại cách đây 54 0000 năm, trước khi người hiện đại biết đến, và được cho rằng được tạo bởi Homo erectus, một bài báo gần đây đã đề xuất rằng các hình vẽ trong ba hang động của Bán đảo Iberia là 64.000 tuổi và do đó được tạo ra bởi người Neanderthal. Điều này làm cho bản vẽ trên mảnh tước silcret ở Blombos trở thành bản vẽ cổ nhất của Homo sapiens từng được tìm thấy.
Mặc dù các biểu diễn trừu tượng và tượng hình thường được coi là các chỉ tiêu xác định việc sử dụng các biểu tượng, sự đánh giá kích thước biểu tượng của các hình vẽ này có thể là sớm nhất này thật sự khó khăn.
Các biểu tượng là một phần vốn có của nhân loại. Chúng có thể được khắc trên cơ thể chúng ta dưới dạng hình xăm và vết sẹo hoặc che chúng thông qua việc mặc quần áo, đồ trang sức và cách chúng ta để tóc.
Ngôn ngữ, chữ viết, toán học, tôn giáo, luật pháp không thể tồn tại nếu thiếu khả năng đặc biệt của con người để làm chủ việc tạo, truyền tải các biểu tượng và khả năng của chúng ta thể hiện chúng trong văn hóa vật chất. Sự tiến bộ đáng kể đã được thực hiện để hiểu cách não bộ của chúng ta nhận thức và xử lý các loại biểu tượng khác nhau, nhưng kiến thức về cách thức và thời điểm các biểu tượng chứa đậm văn hóa của tổ tiên chúng ta vẫn còn thiếu chính xác và chỉ là phỏng đoán.
Lớp khảo cổ học trong đó bức họa Blombos được tìm thấy cũng mang lại những biểu trưng khác về tư duy biểu tượng, chẳng hạn như các hạt chuỗi vỏ sò được phủ bằng thổ hoàng, và quan trọng hơn là các mảnh thổ hoàng được khắc hoa văn trừu tượng. Một số trong những bản khắc này gần giống với những nét vẽ trên mảnh tước silcret.
Henshilwood cho biết: “Điều này chứng tỏ rằng Homo sapiens sớm ở phía nam Cape đã sử dụng các kỹ thuật khác nhau để tạo ra các dấu hiệu tương tự trên các phương tiện truyền thông khác nhau. Quan sát trên ủng hộ giả thuyết rằng những dấu hiệu này có tính chất tượng trưng và thể hiện một khía cạnh vốn có của thế giới hiện đại về hành vi của những người Homo sapiens châu Phi này, tổ tiên của tất cả chúng ta ngày nay.
Nguồn: https://www.heritagedaily.com/2018/12/top-10-archaeological-discoveries-of-2018/122316
https://www.heritagedaily.com/2018/09/multimedia-graphic-design-73000-years-ago/121644
https://blogs.scientificamerican.com/anthropology-in-practice/73-000-year-old-hashtag-is-oldest-example-of-abstract-art/
Người dịch: Minh Trần