Tạp chí khảo cổ học số 3/2010

 

 

Số chuyên đề Tiền Thăng Long - Hà Nội Mục lục

1. Những dấu tích xưa nhất của con người trên mảnh đất Hà Nội ngày nay/Phạm Đức Mạnh.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.3-20

2. Thời đại đồ Đá ở Hà Nội/Trình Năng Chung.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.21-32

3. Kinh đô Cổ Loa trong lịch sử/Lại Văn Tới.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.33-45

4. Thành luỹ, chiến tranh và chính trị tập trung: qua kết quả khai quật luỹ - hào thành Trung (Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội)/Nam C. Kim, Lại Văn Tới, Trịnh Hoàng Hiệp.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.46-61

5. Hà Nội trong bối cảnh các nhà nước sơ khai/Nguyễn Phúc Cần, Trịnh Sinh.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.62-74

6. Vài nhận xét về những chiếc trống đồng Đông Sơn ở Hà Nội/Trịnh Sinh, Vũ Thuý Hạnh.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.75-92

7. Di tích văn hoá Đông Sơn và quá trình chinh phục vùng đồng bằng trũng Hà Nội/Lê Kim Tước, Trịnh Sinh.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.93-106

8. Khai quật di tích cố đô Hoa Lư năm 2009 - 2010: kết quả và vấn đề/Nguyễn Văn Đoàn.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 2.- Tr.107-133

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

 

Tạp chí khảo cổ học số 4/2010

 

 

Số chuyên đề Thăng Long - Hà Nội Mục lục

LỜI TÒA SOẠN

1. Khả năng trở thành di sản văn hóa thế giới của khu di tích 18 - Hoàng Diệu - Hà Nội/Đỗ Hoài Nam.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.4-6

2. Làm sống dậy những trang sử vàng của kinh thành Thăng Long/Ngô Thị Thanh Hằng.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.7-8

3. Nghiên cứu so sánh hai di tích lịch sử Gyeongju và Hoàn thành Thăng Long là một chủ đề hấp dẫn/Ji Byong Mok.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.9-10

4. Giá trị toàn cầu của khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long/Phan Huy Lê.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.11-26

5. Giá trị nổi bật toàn cầu, tính chân thực và toàn vẹn khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội từ phân tích đánh giá di tích khảo cổ học/Bùi Minh Trí, Tống Trung Tín.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.27-42

6. Di tích cung điện Hoàng thành Thăng Long: phân tích về các vết tích khai quật chủ yếu ở khu A, B, D4, D5 và D6/Kazuto Inoue.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.43-72

7. Vật liệu kiến trúc ở Hoàng thành sau 5 năm nghiên cứu/Nguyễn Văn Anh, Bùi Thu Phương.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.73-79

8. Nhận thức mới về đồ sành tại di tích Hoàng thành Thăng Long/Bùi Minh Trí, Đỗ Đức Tuệ.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.80-86

9. Long Trì - Đan Trì trong cấu trúc khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Đông Kinh/Nguyễn Quang Ngọc.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.87-95

10. Đặc điểm môi trường địa chất - cổ địa lý Holocene giữa - muộn khu Hoàng thành Thăng Long/Đinh Văn Thuận, Nguyễn Đích Dỹ.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.96-108

11. Thăng Long thời hậu kinh đô (1789-1802)/Đỗ Bang.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 4.- Tr.109-115

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

 

Tạp chí khảo cổ học số 5/2010

 

 

Mục lục

1. Dẫn liệu về quần động vật hóa thạch ở hang Ma Ươi, Hòa Bình/Nguyễn Kim Thúy.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.3-16

2. Sự tiến triển của công cụ mài ở Tây Nguyên/Lê Hải Đăng.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.17-26

3. Vấn đề đá nguyên liệu chế tác mũi khoan Bãi Bến/Nguyễn Trường Đông.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.27-34

4. Di tích khảo cổ học Hoàn Kiếm I (Lâm Đồng)/Bùi Chí Hoàng.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.35-49

5. Trở lại vấn đề "Nha chương" trong văn hóa Phùng Nguyên/Hán Văn Khẩn, Đặng Hồng Sơn.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.50-63

6. Văn hóa Sa Huỳnh - văn hóa Lung Leng : Những mối liên hệ/Nguyễn Khắc Sử.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.64-78

7. Ứng dụng GIS trong xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đề tài "Những di tích khảo cổ học thời văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở An Giang"/Phạm Đức Mạnh.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 5.- Tr.79-94

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

 

Tạp chí khảo cổ học số 6/2010

 

 

Mục lục

1. Hang Phia Muồn, Tuyên Quang/Trình Năng Chung.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.3-15

2. Trống đồng Tây Nguyên: Tư liệu và nhận thức/Lê Xuân Hưng, Phạm Bảo Trâm.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.16-26

3. Di tích kiến trúc văn hóa Óc Eo tại tỉnh Bến Tre/Hà Văn Cẩn.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.27-35

4. Cấm thành Thăng Long thời Lý (1010-1030) và giá trị các dấu tích kiến trúc ở khu A (phía tây Cấm thành)/Phạm Văn Triệu.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.36-45

5. Khai quật di tích Bảo tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh)/Nguyễn Ngọc Chất.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.46-67

6. Những Kosagrha Chăm hiện còn ở Việt Nam/Tạ Quốc Khánh.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.68-78

7. Bảo quản phục hồi 4 chiếc mũ của hoàng đế triều Nguyễn lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam/Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Văn Cường.- Tạp chí Khảo cổ học, 2010, số 6.- Tr.79-84

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

MỤC LỤC TẠP CHÍ KHẢO CỔ HỌC NĂM 2010

 

Tạp chí khảo cổ học số 1/2011

 

 

Mục lục

1. Các hình thái kinh tế khai thác và cư trú của cư dân thời đại Đá mới ở bắc Việt Nam/Nguyễn Gia Đối.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.3-15

2. Khảo cổ học tiền sử An Giang và vấn đề nguồn gốc văn hoá Óc Eo/Phan Thanh Toàn.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.16-26

3. Sức sống Đông Sơn/Phạm Quốc Quân.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.27-30
                              
4. Thành Hồ (Phú Yên) qua hai mùa khai quật/Phạm Văn Triệu-Lê Đình Phụng.- Nghiên cứu Lịch Sử, 2011, số 1.- Tr.31-43

5. Chùa cổ Núi Man (Tuyên Quang) qua hai lần khai quật/Trần Anh Dũng.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.44-60

6. Di tích núi và đền Đồng Cổ (Thanh Hoá)- nhận thức từ cuộc khai quật năm 2007/Bùi Văn Liêm- Nguyễn Ngọc Quý.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.61-77

7. Bảo quản, bảo tồn di tích, di vật trong quá trình khai quật, nghiên cứu khảo cổ học và khả năng ứng dụng của nó trong điều kiện của khảo cổ học Việt Nam/Nguyễn Văn Anh.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.78-85

 8. Kết quả phân tích thành phần khoáng vật một số mẫu gồm Champa ở Quảng Nam/Nguyễn Anh Thư-Trần Thị Sáu.- Khảo cổ học, 2011, số 1.- Tr.86-95

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

 

Tạp chí khảo cổ học số 3/2011

 

 

Mục lục

1. Mối quan hệ văn hoá sau giai đoạn Hoà Bình - Bắc Sơn giữa bắc Việt Nam và nam Trung Quốc/Trình Năng Chung.- Khảo cổ học, 2011, số 3.- Tr.3-15

2. Các nhóm ngôn ngữ tộc người và quá trình hình thành người Việt/Trịnh Sinh.- Khảo cổ học, 2011, số 3.- Tr.16-28

3. Gốm màu trong văn hoá Sa Huỳnh/Hoàng Thuý Quỳnh- Khảo cổ học, 2011, số 3.- Tr.29-38                         

4. Óc Eo - cảng thị quốc tế của vương quốc Phù Nam/Lương Ninh.- Nghiên cứu Lịch Sử, 2011, số 3.- Tr.39-44

5. Ngói mũi lá Champa/Lê Đình Phụng.- Khảo cổ học, 2011, số 3.- Tr.45-52

6. Lăng mộ hoàng gia thời Nguyễn tại Huế/Phan Thanh  Hải.- Khảo cổ học, 2011, số 3.- Tr.53-81

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC

7. Sự biến đổi loại hình công cụ ghè đẽo văn hoá Sơn Vi ở di chỉ Pá Muội/Nguyễn Trường Đông.- Khảo cổ học, 2011, số 3.- Tr.82-91

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

 

Tạp chí khảo cổ học số 2/2011

 

 

Mục lục

1. Vài nét về cổ khí hậu và môi trường thời đại Đá cũ Bắc Việt Nam/Nguyễn Khắc Sử.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.3-14

2. Các loại hình mộ táng và phương thức chôn cất của cư dân tiền – sơ sử trên các hải đảo ven biển miền Nam Việt Nam/Nguyễn Trung Chiến- Lê Hải Đăng.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.15-33

3. Kỹ thuật tạo hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên/Bùi Thu Phương.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.34-42
                          
4. Văn hoá Sa Huỳnh ở Bình Định - một chặng đường nghiên cứu/Đinh Bá Hoà.- Nghiên cứu Lịch Sử, 2011, số 2.- Tr.43-50

5. Về những hiện vật đất nung hình tháp phát hiện ở Mỹ Thành (Phù Mỹ, Bình Định)/Nguyễn Hồng Kiên.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.51-55

6. Một vài suy nghĩ về chức năng và biểu tượng của bệ thờ Vân Trạch Hoà/Ngô Văn Doanh.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.56-67

7. Tiền tệ Phù Nam/Lương Ninh.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.68-76

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHẢO CỔ HỌC

 8. Một số giả thuyết khai thác thông tin từ nghiên cứu mảnh tước/Phạm Thanh Sơn.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.77-85

 9. Kỹ thuật bảo quản hiện vật sắt khảo cổ bằng phương pháp nung trong môi trường khử Hydro/Lê Cảnh Lam - Nguyễn Việt.- Khảo cổ học, 2011, số 2.- Tr.86-92

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG KHẢO CỔ HỌC

GIỚI THIỆU SÁCH

 

Chùa Hang (Kim Sơn Tự) – Tiên Lữ Phật Động, Tỉnh Thái Nguyên

 

 

Chùa Hang, có tên chữ “Kim Sơn Tự”, còn được gọi là “Tiên Lữ Phật Động”, tọa lạc trong lòng ba ngọn núi đá lớn Huyền Vũ, Thanh Long và Bạch Hổ, với diện tích chân núi khoảng 2,7 ha, ở trung tâm thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, cách thành phố Thái Nguyên 3 km về phía bắc, bên trái quốc lộ 1B, hướng Thái Nguyên đi Lạng Sơn.

alt

Sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV ghi: núi đá Chùa Hang là núi Hoá Trung (Núi Nghiên) và sách "Đại Nam nhất thống chí" về triều nhà Nguyễn chép: núi Chùa Hang gọi là Núi Long Tuyền, vì trong lòng hang có suối Long Tuyền đi ngầm về hướng Tây – Nam, chảy ra cách chùa chừng hơn 100m thì có một ngách phun lên thành một vũng to tròn sâu, quanh năm nước tràn đầy trong mát, có nhiều cá, gọi là giếng "Mắt Rồng".

Tương truyền "Chùa Hang - Kim Sơn Tự" có từ thời nhà Lý (thế kỷ XI), được coi là thời kỳ rất hưng thịnh của Phật giáo. Chuyện rằng: vào một buổi sáng mùa xuân năm Nhâm Tuất, vua Lý Thánh Tông thức dậy đã kể lại giấc mơ của mình cho Nguyên Phi Ỷ Lan chuyện đêm qua nằm mộng, được Phật dắt lên vùng đất địa linh ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Bà Nguyên Phi lập tức thực hiện chuyến kinh lí tham quan, thấy phong cảnh hữu tình, núi non kỳ vĩ, hang động rộng lớn, bèn cho lấy hang dựng chùa thờ Phật. Có lẽ "Kim Sơn Tự" ra đời từ đây, nhưng nhân dân thường gọi nôm là Chùa Hang. Hiện nay trên cửa tam quan có 3 chữ Hán lớn "Kim Sơn Tự".

Qua Tam quan, vào chùa, hai bên trái phải có hai tượng Hộ pháp Khuyến thiện - Trừng ác, cưỡi voi cưỡi hổ uy nghi. Càng vào sâu, hang rộng dần, trên vòm hang nhũ đá tưởng như "Mây già quyện đá quái chơi vơi", nhiều cột đá lớn sừng sững chống lên vòm hang như những trụ chống trời. Quanh vách hang nhiều nhũ đá nhô ra thành các bệ thờ và nhiều hình thù kỳ lạ hấp dẫn. Nhân đó người ta tạc thành các ông bụt ốc, cầu vồng, chó ngao, cảnh thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh … Hang có nhiều ngóc ngách, có đường lên trời, đường xuống âm phủ, có cửa thông trước sau, nên không khí trong chùa rất trong lành, mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp, khói hương luôn toả mờ làm cho chùa càng trở nên thâm u kì bí.

Trong động có một số tượng Phật, đồ thờ cúng v.v.. Quanh hang cũng còn nhiều văn bia khắc trên vách đá, là những bút tích lưu đề có niên đại từ thời Lê Sơ đến Hậu Nguyễn, ca ngợi cảnh đẹp "Chùa Hang - Kim Sơn Tự" như: Thơ của Tiến sĩ Thượng thư Vũ Quỳnh - 1478; của danh sĩ Đặng Nghiệm, niên đại Hồng Đức 1497; của giải nguyên Cao Bá Quát - 1831; Phú văn của Chánh tổng Phạm Đức Độ, niên đại Khải Định năm thứ 10 (1925).

Chùa Hang là nơi tu hành của nhiều bậc chân tu. Đến nay, chúng ta mới chỉ biết được một số vị như: Sư cụ Tâm Lai, Sư Ông Chính, Sư Ông Đức, Sư cụ Đàm Hinh, là những nhà sư đã có công lao lớn trong việc tu tạo bảo tồn chùa, phụng sự đạo tràng, không những phát triển Phật giáo tỉnh Thái Nguyên và vùng Việt Bắc, mà còn có công lớn trong phát triển Phật giáo Việt Nam.

Năm 1985, lãnh đạo huyện Đồng Hỷ cùng nhân dân đã thỉnh Ni trưởng Thích Đàm Hinh (1906 - 2009) về trụ trì. Cụ đã cùng nhân dân dốc sức khôi phục lại chùa, với đạo tâm kiên cố cùng nhân dân trùng tu chùa cho sự nương náu chân tâm.

Sau khi Ni trưởng viên tịch, Đại đức Thích Nguyên Thanh được Giáo hội Phật giáo Việt Nam bổ nhiệm trụ trì Chùa Hang - Kim Sơn Tự.
Trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử, đến nay Di tích Chùa Hang đã xuống cấp về mặt kiến trúc và quy mô. Để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, tâm linh của nhân dân và du khách thập phương, đồng thời phục vụ cho các hoạt động lễ hội của Chùa Hang, ngày 27-6-2011, UBND tỉnh Thái Nguyên đã phê duyệt Quy hoạch chi tiết công trình phục vụ Lễ hội Chùa Hang và xây dựng, trùng tu Di tích lịch sử - Văn hóa Chùa Hang, với tổng diện tích là 8,2ha, quy mô lớn nhất từ trước đến nay, nhằm tôn vinh các giá trị tâm linh của đạo Phật, giúp con người hướng tới cái đích chân thiện mỹ.

Ngày 5-12 ( tức ngày 11/11 Âm lịch), Ban Quản lý Di tích Lịch sử Chùa Hang phối hợp với UBND huyện Đồng Hỷ đã tổ chức lễ đặt đá khởi công xây dựng quần thể Di tích Lịch sử - Văn hóa Chùa Hang và công trình phục vụ lễ hội Chùa Hang.

Chùa Hang nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan trong và ngoài nước. Với những giá trị lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, ngày 26/2/1999 Chùa Hang chính thức được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa, Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia.

Hàng năm Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, huyện Đồng Hỷ, thị trấn Chùa Hang và Ban Quản lý Di tích  tổ chức lễ hội Chùa vào các dịp: Từ ngày 19 đến ngày 21 tháng giêng (Âm lịch) là lễ Thượng nguyên, cầu cho Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, nhân dân an lạc, đời sống yên lành; ngày 15 tháng 4 (Âm lịch) là lễ Phật Đản; ngày 15 tháng 7 (Âm lịch) là lễ Xá tội vong nhân. Về phần Hội có các trò chơi dân gian như: chọi gà, đánh cờ tướng, tung còn, đi cầu kiều, bắn cung, bắn nỏ, đẩy gậy, bịt m ắt bắt dê, bắt trạch trong chum, liên hoan văn hóa trà…

 Nguồn: Sách Chùa Hang (Kim Sơn Tự) - Thái Nguyên. Đại đức Thích Nguyên Thanh chủ biên. NXB Thế giới, Hà Nội, 2012
 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát hiện tổ khủng long xưa chưa từng thấy

 

 

Một khu tổ hóa thạch cách đây 190 triệu năm của khủng long đã được tìm thấy, với 340 quả trứng còn sót lại.

Theo DailyMail, chiếc tổ này được khai quật tại Nam Phi, thuộc về giống khủng long Massopondylus. “Nó sẽ cung cấp các đầu mối và bằng chứng về sự tiến hóa của hành vi sinh sản phức tạp ở những loài khủng long đời đầu”, các nhà khoa học cho biết.

Những phát hiện thú vị như dấu chân của khủng long khiến cho các nhà khoa học suy đoán rằng, những con khủng long sơ sinh sẽ ở lại tổ đủ lâu để to lớn gấp đôi trước khi “bước ra thực tế”. Đồng thời, bố mẹ chúng sẽ thường xuyên quay về thăm tổ để kiểm tra tình hình.

Chuyên gia David Evans của Viện Bảo tàng Royal Ontario tin rằng, vẫn còn rất nhiều hóa thạch đang ẩn mình tại Công viên Quốc gia cao nguyên Golden Gate của Nam Phi. Và dù khoa học đã tìm được rất nhiều hóa thạch khủng long, nhưng thông tin về quy trình sinh sản sinh học của loài động vật khổng lồ này, nhất là khủng long đời đầu, lại khá hiếm.

“Chúng tôi phát hiện được không phải một, mà là một dãy tổ nằm san sát nhau. Niên đại của chúng lên tới 190 triệu năm vì thế, lần đầu tiên chúng tôi có được cái nhìn chi tiết về sự sinh sản của khủng long trong thời kỳ tiến hóa đầu tiên của chúng”, ông Evans chia sẻ.


Còn theo Giáo sư Robert Reisz, trưởng nhóm nghiên cứu, thì bên trong nhiều quả trứng hóa thạch vẫn còn phôi thai khủng long. Quanh tổ còn nhiều vết chân khủng long bé xíu. Ít nhất 10 chiếc tổ đã được tìm thấy, nằm rải rác ở nhiều tầng khác nhau của khu vực khai quât và mỗi tổ có tới 34 quả trứng được xếp theo hình tròn, nằm ép vào nhau.

Việc phân bố tổ như vậy, theo suy đoán của Giáo sư Reisz, cho thấy khủng long bố mẹ thường xuyên về thăm tổ, đồng thời chúng cũng về nằm ổ và đẻ trứng theo từng nhóm.

Trong khi khủng long mẹ có kích thước rất lớn (dài 6m), trứng của nó lại khá nhỏ (đường kính chỉ khoảng 6-7cm). Cộng thêm việc các tổ được sắp xếp hợp lý cho thấy, khủng long mẹ có đầu óc rất cẩn thận, thậm chí là đã tính toán, sắp xếp tổ kỹ lưỡng sau khi đẻ xong.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Phát lộ đường Hoàng gia thành nhà Hồ

 

 

Những ngày cận tết Nhâm Thìn, các nhà khảo cổ học đã khai quật con đường Hoàng gia nối cổng phía nam thành nhà Hồ với đàn tế Nam Giao, dài khoảng 2 km.

alt

Theo giới khảo cổ thì “đây là con đường đá cổ đẹp nhất Việt Nam được triều Hồ xây dựng vào cuối thế kỷ 14”.

Theo quyết định của Bộ VH -TT-DL, đợt khai quật lần này mới chỉ gói gọn trong diện tích 1.500m2 ở khu vực thành nhà Hồ. Trước mắt, các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật phía trước cổng thành phía nam và đã làm xuất lộ con đường Hoàng gia. Con đường được lát bằng đá xanh (trong đó có nhiều phiến đá lớn gần 1m2) khá bằng phẳng bị vùi sâu dưới mặt đường hiện tại từ 60 cm cho đến 1m. Theo sử cũ ghi lại thì đây là con đường mà nhà vua, hoàng gia và quan lại trong triều dùng để đến đàn tế Nam Giao trên núi Đốn Sơn làm lễ yết cáo trời đất, cầu quốc thái dân an. Con đường được bắt đầu từ cổng nam thành tới núi Đốn Sơn dài khoảng 2 km. Theo đánh giá bước đầu thì 2 km đường cổ này vẫn còn nguyên vẹn. Ngoài con đường đá cổ, các nhà khoa học đã tìm thấy rất nhiều di vật khảo cổ như chông sắt, mũi lao sắt, đạn đá, cùng với nhiều đồ gốm sứ thời Lê, các trang trí kiến trúc bằng đá của các triều đại sau đó.

Tiến sĩ Đỗ Quang Trọng - GĐ Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ - cho rằng: “Việc phát hiện đường Hoàng gia thành nhà Hồ với kết cấu mặt đường bằng đá xanh bằng phẳng và còn khá nguyên vẹn cho thấy thời đó người xưa đã phải rất kỳ công để lắp ghép các khối đá rất khít khao và phẳng, để tạo một con đường cổ kính, trường tồn cùng thời gian. Đến thời điểm này có thể khẳng định đây là con đường đá cổ đẹp nhất Việt Nam”.

Với việc khai quật lần này, các nhà khảo cổ đang kỳ vọng sẽ tìm lại cốt đường thuở xưa mà Hồ Quý Ly đặt viên đá đầu tiên xây dựng nền móng tòa thành. Việc xuất lộ con đường Hoàng gia đã chứng minh tính chân xác, nguyên thủy của bản vẽ, sự nguyên vẹn, vẻ cổ kính, cân đối, vững chắc của di sản thành nhà Hồ.


Không phải chỉ giới khoa học và các nhà quản lý trong nước, mà chính ICOMOS (tổ chức đánh giá độc lập của UNESCO) đã đưa con đường Hoàng gia vào hồ sơ di sản, bởi họ kỳ vọng đây là con đường hoành tráng nhất trong các con đường cổ thuộc những kinh thành ở khu vực Đông Nam Á. Các nhà khoa học đặt niềm tin, cách khu vực cổng thành nam khoảng 100m sẽ tìm thấy mố cầu ba nhịp, năm nhịp hoặc bảy nhịp. Điều này giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa thành và trì. Lâu nay con người mới biết đến 4 cổng chỉ là thành cao, hào sâu, chứ chưa chứng minh được sự liên kết giữa hai khối kiến trúc này như thế nào.

Được biết, sau khi khai quật xong phần nền đường, các đợt khai quật tiếp theo sẽ mở rộng sang hai bên cánh gà cổng thành phía nam, các cổng còn lại và cấu trúc bên trong gồm cung điện, hoàng cung để tìm hiểu kết cấu và trả lại đúng với giá trị của thành đá này.

Kỳ vĩ

TS Đỗ Quang Trọng khẳng định: “Khi khai quật xong con đường Hoàng gia, chúng ta sẽ làm cho cả thế giới phải sửng sốt bởi sự kỳ vĩ, toàn vẹn của di sản thành nhà Hồ và nó sẽ giúp chúng ta mở ra hướng mới để phát triển du lịch. Sau khi khai quật hoàn chỉnh, đường Hoàng gia sẽ trở thành con đường di sản, đường du lịch dành cho người đi bộ và những phương tiện thân thiện với môi trường, phục vụ du khách trong và ngoài nước về tham quan di sản”.

 
 
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Trang


61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội

+8424 38255449
Copyright © 2016 by khaocohoc.gov.vn.
Thiết kế bởi VINNO
Tổng số lượt truy cập: 9023816
Số người đang online: 26