
PGS.TS Nguyễn Giang Hải
Các chức vụ chính: Bí thư chi bộ; Phó Viện trưởng Viện Khảo cổ học từ 2005 đến 2012. Trưởng Ban Hợp tác Quốc tế, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam từ tháng 7/2012 đến 12/2013. Viện trưởng Viện Khảo cổ học từ 2014 đến 31/9/2018.
Các công trình khoa học chính đã công bố:
1. Nghề luyện kim cổ ở miền đông Nam Bộ. Nxb. Khoa học xã hội, 2001
2. Thư mục khảo cổ học Việt Nam. Tập 2: Thời đại Kim khí. Nxb. Thế giới, 2001 (viết chung cùng Trịnh Sinh).
3. Di chỉ khảo cổ học Bưng Bạc nhận thức mới. Khảo cổ học, số 3-1996: 10-20
4. Xuân Lập, một di tích Đông Sơn quan trọng ở Thanh Hóa. Khảo cổ học, số 1,2-1988: 63-71 (viết chung).
5. Hà Bắc với đỉnh cao Đông Sơn. Khảo cổ học, số 4-1989.
6. Nhóm đồ đồng mới phát hiện ở Cổ Loa - Hà Nội. Khảo cổ học, số 3-1983: 21-32 (viết chung với Nguyễn Văn Hùng).
7. The Lang Vac sites, Volume 1, The Vietnam - Japan Archeological Resrearch Team, The University of Tokyo, 2004.
8. Khảo cổ học cộng đồng: Tiếng vọng Kim Lan. Khảo cổ học, số 3-2013:7-14.
Đã nghỉ hưu!

TS Nguyễn Gia Đối
Các chức vụ chính: Phó Trưởng phòng NCTĐ Đá (từ năm 2009 đến 2012); Trưởng phòng NCTĐ Đá (từ 2012 đến 6/2016); Phó Tổng biên tập Tạp chí Khảo cổ học (từ năm 2012 đến nay); Phó Viện trưởng từ 1/8/2013 đến 10/2018; Quyền Viện trưởng từ 10/2018 đến 6/2022.
Điện thoại: 043-824-0478
Các công trình khoa học chính đã công bố:1. Khảo cổ học tiền sử Đăk Lăk. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004 (Nguyễn Khắc Sử chủ biên)
2. Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004 (Nhiều tác giả).
3. Khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005 (Nguyễn Khắc Sử chủ biên).
4. Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới. Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011 (nhiều tác giả).
5. Hang Dơi, suy nghĩ thêm về văn hóa Bắc Sơn. Khảo cổ học, số 1,2 - 1988: 12-19 (viết chung với Bùi Vinh).
6. Tiết kiệm nguyên liệu trong văn hóa Hòa Bình: Xu hướng và hệ quả. Khảo cổ học, số 2-1992: 69-74.
7. Vài nét về hệ sinh thái nhiêt đới gió mùa và ảnh hưởng của nó đến cơ cấu kinh tế của cư dân văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Khảo cổ học, số 4-1992: 7-11.
8. Vài nét về thời đại Đá cũ Nhật bản. Khảo cổ học, số 4-1995: 74-80.
9. Thời đại Jomon trong bối cảnh sinh thái - văn hóa tiền sử Đông Á tiền sử. Khảo cổ học, số 2-1997: 73-84.
10. Kết quả khai quật lần thứ ba và nhận thức mới về di chỉ mái đá Điều. Khảo cổ học, số 3-1998: 72-89.
11. Kỹ nghệ Điều trong bối cảnh khu vực. Khảo cổ học, số 3-1999: 5-24.
12. Một số vấn đề về thời đại đá ở miền Tây Thanh Hóa. Khảo cổ học, số 1-2003: 3-21.
13. Khởi nguồn của những con đường Đá mới hóa ở Bắc Trung Bộ Việt Nam. Khảo cổ học, số 3-2003: 8-17.
14. Nhận diện sơ bộ các đới văn hóa tiền sử Đắc Lắc. Khảo cổ học, số 3-2004:17-23.
15. Môi trường và phương thức kinh tế của cư dân tiền sử vùng duyên hải Đông Bắc. Khảo cổ học, số 3-2005: 82-92.
16. Di chỉ xưởng Chư K’tu và hệ thống xưởng chế tác đá opal ở Tây Nguyên. Khảo cổ học, số 1-2007: 15-25 (viết chung với Lê Hải Đăng).
17. Các hệ thống lý thuyết khảo cổ học đương đại. Khảo cổ học, số 3-2007: 90-95.
18. Nhận thức về thời đại Đá mới ở Tây Nguyên qua khai quật di chỉ Thôn Tám. Khảo cổ học, số 1-2008: 18-29 (viết chung với Lê Hải Đăng).
19. Giao lưu trao đổi sản phẩm trong văn hóa Hạ Long. Khảo cổ học, số 2-2009: 8-15.
20. Phân bố dân cư và các hình thái kinh tế của cư dân văn hóa Hạ Long. Khảo cổ học, số 1-2010: 17-26.
21. Các hình thái kinh tế khai thác và cư trú của cư dân thời đại Đá mới ở Bắc Việt Nam. Khảo cổ học, số 1-2011: 3-15.
22. Khảo cổ học muối khoáng thời tiền sử. Khảo cổ học, số 3-2012: 3-8.
23. Môi trường và thích ứng của người tiền sử ở khu vực Tràng An. Khảo cổ học, số 5-2012: 33- 47 (viết chung với Nguyễn Anh Tuấn, Lê Hải Đăng).
24. Khai quật di chỉ mái đá Ông Hay, Tràng An, Ninh Bình. Khảo cổ học, số 5-2012:70-78 (viết chung với Lê Hải Đăng, Nguyễn Cao Tấn).
Bằng việc sử dụng phương pháp quét 3D laser, tia vũ trụ... các chuyên gia Ai Cập đã xây dựng hình ảnh đa chiều đầu tiên về cấu trúc bên trong kim tự tháp.
Giải mã kim tự tháp Ai Cập cổ đại luôn là mục tiêu nhắm tới của các nhà khảo cổ học. Nhiều tài liệu đã đưa thông tin về các báu vật, những chiếc bẫy và đường hầm bí mật tồn tại bên trong kim tự tháp. Nhưng các chuyên gia vẫn mong muốn được ghi lại những hình ảnh thật nhất về điều kỳ bí ẩn giấu trong kim tự tháp này.

Mới đây, bằng việc sử dụng công nghệ cảm ứng nhiệt, quét 3D bằng laser, thiết bị phát hiện "tia vũ trụ" - các chuyên gia Ai Cập và nước ngoài đã dần làm sáng tỏ được bí ẩn trong kỳ quan cổ đại này.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu sử dụng thiết bị phát hiện "tia vũ trụ" để thiết lập bản đồ cấu trúc bên trong kim tự tháp Bent 4.600 năm tuổi, nằm 40km (25 dặm) về phía nam Cairo và được xây dựng bởi Pharaoh Sneferu.

Để nhìn sâu bên trong kim tự tháp, nhóm nghiên cứu đã đặt một tấm phim nhũ bên trong buồng dưới của kim tự tháp để bắt "muon" - hạt tồn tại trong khí quyển. Sau 40 ngày, các tấm phim này sẽ được thu thập và phát triển.
Khi phân tích đã được hoàn tất, nhóm nghiên cứu đã có một bản đồ hoàn chỉnh cấu trúc bên trong các kim tự tháp.

Mehdi Tayoubi, chủ tịch Viện Bảo tồn di sản cho biết, những tấm phim đặt bên trong các kim tự tháp thu thập dữ liệu trên các hạt X quang được gọi là "muon". "Muon" tồn tại trong bầu khí quyển Trái đất, lọt qua các khoảng trống, có thể được hấp thụ bởi các tảng đá lớn, dày...
Lần đầu tiên, các cấu trúc bên trong của một kim tự tháp đã được tiết lộ bởi các hạt muon. Các hình ảnh thu được cho thấy căn buồng bí mật của kim tự tháp nằm ở khoảng sâu 18 mét. Nó có hai lối vào, dẫn ra hai hành lang nhỏ, xếp chồng lên nhau.


Được biết, đây không phải là lần đầu tiên các nhà khoa học đã cố gắng sử dụng các hạt muon để lập bản đồ bên trong các kim tự tháp.
Quay trở lại thập niên1960, một nhà khoa học tên Luis Alvarez sử dụng một kỹ thuật tương tự để tìm căn buồng ẩn bên trong Kim tự tháp Chephren Giza, nhưng công nghệ này thời đó chưa đủ nhạy để phát hiện bất kỳ chi tiết nào.
Hiện các chuyên gia vẫn đang tiếp tục thu thập và sớm công bố phát hiện của mình tại Ai Cập.
Nguồn: ScienceAlert
Các nhà khảo cổ phát hiện nhiều ngôi mộ tại Nga được xây dựng từ những khối đá xếp chồng lên nhau một cách chính xác.
Theo Ancient Origins, vùng núi Caucasus gần các thành phố Tzelentzchik, Touapse, Novorossiysk và Sochi của Nga có khoảng 3.000 di tích mộ cự thạch. Đây là những ngôi mộ đá có niên đại từ 10.000 đến 25.000 năm trước.
Một số ngôi mộ đá ở vùng núi Caucasus, Nga. (Ảnh: Ancient Origins).
Những ngôi mộ đá nằm ở cả hai bên dãy núi thuộc khu vực phía tây Caucasus, bao phủ diện tích 12.000km2 của Nga và Abkhazia. Chúng đại diện cho kiến trúc độc đáo từ thời tiền sử, bao gồm nhiều khối đá xếp chồng lên nhau một cách chính xác.
Một trong những khu cự thạch thú vị nhất là ba nhóm mộ đá nằm thẳng hàng trên cùng ngọn đồi tại khu vực Krasnodar gần Gelendzhik, Nga.
Các mộ đá Caucasian có cấu trúc hình chữ nhật. Cánh cửa ở phía trước được khoét một lỗ hình tròn. Phía trước mặt ngôi mộ là khoảng sân rộng, có thể dùng để tổ chức nghi lễ. Hình trang trí trên ngôi mộ không lớn, chủ yếu là đường zigzag, hình tam giác và đường tròn đồng tâm. Nhiều ngôi mộ đang ở tình trạng bị phá hủy và hư hỏng nặng do không được bảo vệ.
Tại khu vực khảo cổ, các nhà khoa học phát hiện nhiều đồ gốm từ thời Đồ đồng và Đồ sắt cùng với hài cốt người, công cụ bằng đồng, đồ trang sức vàng, bạc, đá bán quý.
Những ngôi mộ đá Caucasian có nhiều điểm tương đồng với các công trình kiến trúc cự thạch khác ở châu Âu và châu Á như trên bán đảo Iberia, Pháp, Anh, Ireland, Hà Lan, Đức, Đan Mạch, Thụy Điển, Israel, Ấn Độ.
Nhằm mục tiêu cung cấp những nền tảng kiến thức về đối tượng quan trọng này, Viện nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam với chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Ấn Độ và khu vực Tây Nam Á đã xây dựng chương trình Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam, góp phần tìm hiểu rõ hơn về đất nước, con người và xã hội Ấn Độ. Chương trình này cũng nhằm góp phần vào việc hiện thực hóa các tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo hai nước về thúc đẩy đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ.
Cuốn sách Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam năm 2013 do tác giả Ngô Xuân Bình (chủ biên) thuộc Viện nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á là cuốn sách tập hợp những bài nghiên cứu của các học giả Việt Nam trong năm 2013 về Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực.
Nội dung cuốn sách được kết cấu thành 4 phần:
Phần một sẽ tập trung vào những vấn đề “Kinh tế và hội nhập” với các nghiên cứu về vấn đề kinh tế của Ấn Độ, quan hệ kinh tế của Ấn Độ với một số nước và những liên quan đến Việt Nam;
Phần hai sẽ tập trung vào những vấn đề “Chính trị và an ninh” với các nghiên cứu về Hiến pháp Ấn Độ và sự biến đổi tư tưởng chính trị ở Ấn Độ
Phần ba sẽ tập trung vào những vấn đề “văn hóa - xã hội” ở Ấn Độ với những bài viết đa dạng từ sự ảnh hưởng về văn hóa và tôn giáo của Ấn Độ cho đến những vấn đề môi trường sống và giáo dục,
Và phần cuối cùng sẽ tập trung vào “Quan hệ Ấn Độ với các nước và Việt Nam”
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Đình làng nghệ An tồn tại hàng trăm năm nay, tuy nhiên do thời tiết, chiến tranh tàn phá và ý thức chưa đầy đủ của con người nên đã bị hư hỏng, xuống cấp. Với gần 62 ngôi đình còn lại đã cho chúng ta thấy được những nét kiến trúc bay bổng, nghệ thuật điêu khắc dân gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX ở cả ba vùng đồng bằng, trung du và miền núi. Trong khi đình làng miền Bắc có nét kiến trúc chữ “Nhất”, chữ “Nhị”, “Tam, “Công” thì Nghệ An còn có loại kiến trúc chữ “Khẩu và chữ “Khẩu” không khép kín.
Sau khi xuất bản tập 1, tiến sĩ Phan Xuân Thành, nguyên Giám đốc Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh tiếp tục cho ra mắt bạn đọc tập 2: “Đình làng Nghệ An với lễ hội dân gian”
Quyển sách này gồm 2 phần: Phần tổng quan chung giới thiệu kiến trúc đình làng cổ, điêu khắc dân gian và lời kết luận nêu lên một số đặc điểm chính của đình làng Nghệ An để bạn đọc tiện theo dõi. Phần 2, tác giả giới thiệu 35 ngôi đình còn lại (27 đình làng đã giới thiệu ở tập 1) của các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Tân Kỳ và Hưng Nguyên.
Xin trân trọng giới thiệu!
Ngô Thị Nhung
Tham dự buổi báo cáo của các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Thanh hóa, các đ/c Chủ tịch, Phó chủ tịch thành phố Thanh Hóa, Trưởng ban Tuyên giáo, Trưởng ban Quy hoạch xây dựng và đại diện của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, Bảo tàng tỉnh, Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa Thanh Hóa. PGS.TS. Nguyễn Giang Hải, Viện trưởng Viện Khảo cổ học tham gia đồng chủ trì buổi báo cáo.
Toàn cảnh hố khai quật thám sát 2 (H2)
Thực hiện tinh thần Quyết định số 1428/QĐ – BVHTTDL của Bộ trưởng Bộ VHTT&DL ký ngày 14/4/2016 cho phép Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật tại di tích Đông Sơn thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa. Sau gần 2 tháng tiến hành khảo sát, thám sát và khai quật, Viện Khảo cổ học và Sở VHTT&DL Thanh Hóa đã mở 06 hố thám sát, mỗi hố rộng 20m2 và từ những phát hiện về di tích mộ táng ở hố thám sát số 2 đã được mở rộng thành hố khai quật 100m2 đã phát lộ tầng văn hóa khảo cổ dày 0,8m với mức trên là lớp mộ táng muộn thuộc giai đoạn sau văn hóa Đông Sơn với 04 mộ đất, 01 dấu vết mộ gạch cùng với nhiều đồ sành, sứ, gốm và đất nung, mức văn hóa bên dưới là lớp cư trú của cư dân văn hóa Đông Sơn. Cả hai lớp văn hóa này đều nằm sâu dưới lớp bùn sông dày 0,6m.
PGS.TS. Nguyễn Giang Hải phát biểu ý kiến nêu bật giá trị của những phát hiện qua cuộc khai quật di tích văn hóa Đông Sơn lần này, đã khẳng định chắc chắn về sự tồn tại ổn định của di tích Đông Sơn ở khu vực phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, nơi mà lâu nay có nhiều ý kiến cho rằng di tích đã bị tàn phá và không còn khả năng tiếp tục khai quật và nghiên cứu.
Các đại biểu đã góp nhiều ý kiến về nội dung làm thế nào để phát huy những giá trị của văn hóa Đông Sơn sao cho đảm bảo vừa giữ gìn bản sắc dân tộc vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của thành phố Thanh Hóa trong giai đoạn mới.
Đ/c Nguyễn Xuân Phi, Bí thư Thành ủy Thành phố Thanh Hóa đã thay mặt Thành phố đánh giá cao giá trị của cuộc khai quật thu được. Qua đây, đ/c cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Viện Khảo cổ học đã tập trung triển khai có hiệu quả công tác khai quật và nghiên cứu di tích Đông Sơn ở Thanh Hóa.
Đ/c Đào Trọng Quy, Chủ tịch thành phố đề nghị Viện Khảo cổ học tiếp tục triển khai các giai đoạn nghiên cứu tiếp theo, hướng tới xây dựng và hoàn thiện hồ sơ di tích văn hóa Đông Sơn để báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép xây dựng hồ sơ nâng hạng di tích văn hóa Đông Sơn từ di tích cấp Quốc gia lên Di tích cấp Quốc gia đặc biệt.
Hải Đăng - Thu Hiền
Đợt khai quật này đã tiến hành mở 5 hố với diện tích 405 m2, trong đó có 4 hố khai quật chính và 1 hố thám sát. Các hố khai quật được hoạch định ở góc phía Đông Nam của cánh đồng Nội Cung - nơi có mặt bằng cao hơn. Hố TS ở vị trí có mặt bằng thấp hơn, nằm gần với bờ mương ngăn cách cánh đồng Nội Cung và khu Vườn Ươm, diện tích 5m2 (Bắc Nam 5m x Đông Tây 1m), cách hố 1 là 8,2 m, hướng dịch về phía Tây Nam, nhằm kiểm tra địa tầng khu vực phía Tây Nam. Trừ hố 1, nằm so le với các hố H2 và cách hố này 2m về phía Nam, thì các hố H2, H3, H4 tạo thành hình chữ L.
PGS.TS. Nguyễn Giang Hải và các chuyên gia tư vấn tại công trường
Kết quả khai quật cho thấy:
- Địa tầng ở khu vực các hố được khai quật tương đối giống nhau. Tuy nhiên, để quan sát được địa tầng ở từng hố lại không giống nhau. Hố 1 không có di tích nên có thể nhìn thấy địa tầng rõ ràng nhất. Các hố còn lại, muốn quan sát được địa tầng đầy đủ phải qua các hố kiểm tra nhỏ (cũng là hố thoát nước) nằm ở các góc của hố khai quật
- Các dấu tích kiến trúc được phát hiện qua các hố khai quật gồm có trụ móng của kiến trúc nhà cửa, lầu các và các cống thoát nước, cùng khá nhiều đống vật liệu kiến trúc vỡ nát. Các kiến trúc rất phức tạp, đan xen cắt xén và chồng lên nhau. Các kiến trúc đều thuộc thời Trần, nhưng được làm ở những thời gian khác nhau. Ít nhất là có 4 giai đoạn xây dựng.
- Hiện vật thu được khá nhiều trong đó chiếm số lượng lớn nhất là những mảnh sành vỡ nhỏ, nhiều khả năng là từ các trụ móng kiến trúc.
Qua kết quả khai quật, đoàn công tác đưa ra một số kết luận như sau:- Đây là lần đầu tiên, khu vực phía Đông Nam của Nội Cung được khai quật, trùng hướng với cung Trùng Quang và Trùng Hoa. Chính vì vậy, đợt khai quật này đã đưa lại kết quả khá tốt. Với việc phát hiện ra 2 dấu vết lầu bát giác đã phần nào phản ánh tính chất của nơi này, đó là nơi nghỉ dưỡng, thư giãn của các vua Trần, mà trước đây chúng ta mới chỉ biết đến khu vực phía Tây của cung Trùng Hoa. Lần đầu tiên, dấu vết của lầu bát giác thời Trần đã được phát hiện, đặc biệt lại nằm trên đất Nam Định. Bố cục kiến trúc của nó là tư liệu tốt để so sánh với lầu bát giác thời Lý đã phát hiện tại Hoàng thành Thăng Long. Các lầu thời Lý thường là lầu đơn. Lầu thời Trần ở khu vực Nội Cung lại là lầu đôi, đó cũng là đặc trưng của văn hóa Trần ở Nam Định.
- Các kiến trúc ở khu vực Nội Cung, qua vật liệu, đều thấy được khởi dựng khá sớm, có thể từ khoảng giữa thế kỷ 13. Các giai đoạn kiến trúc cũng cho thấy nơi đây có nhiều lần xây dựng và dấu vết cuối cùng của các kiến trúc là vào thế kỷ 14. Nhưng dù sao, đợt khai quật này cũng có ý nghĩa to lớn trong việc tìm hiểu văn hóa Trần bởi lẽ hiện vật tại đây hầu như chỉ thuộc thời Trần.
- Các dấu vết kiến trúc ở đây đã góp phần xác định được vị trí, bố cục, cấu trúc và chức năng của các di tích thời Trần ở đây. Như chúng ta đã biết, trước đây đã tìm thấy các di tích thời Trần như: Cửa Triều, đền thờ, hành cung, cung điện, vườn hoa, chùa tháp, sông ngòi, nay được biết thêm một khu thưởng ngoạn nữa của các vua Trần. Trong tương lai, nếu mở rộng khu vực này, có thể hiểu biết của chúng ta sẽ không chỉ dừng lại ở đây.
- Qua các hố kiểm tra, đặc biệt là hố khai quật 1, địa tầng ở Nội Cung trước lúc khởi dựng các kiến trúc là vùng sét bùn khá trũng, nhà Trần đã huy động nguồn lực khá lớn để san lấp nơi đây, có chỗ sâu hơn 1m. Đó là một nỗ lực và sự ưu ái khá lớn dành cho quê hương mình. Do xây dựng trên nền đất yếu nên các vật liệu kiến trúc ở đây có kích thước nhỏ, mỏng, chủ yếu là ngói, gạch được sử dụng rất ít.
Đức Bình - Thu Hiền
Sáng ngày 17/5, Viện Khảo cổ học tổ chức gặp mặt các nhà khoa học hiện đang công tác tại Viện nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5). Buổi gặp mặt có sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo và đông đảo các cán bộ hiện đang công tác tại Viện Khảo cổ học.
Phát biểu tại buổi gặp mặt, PGS. TS. Bùi Văn Liêm - Phó viện trưởng thay mặt lãnh đạo Viện Khảo cổ học đã nhấn mạnh ý nghĩa của ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Đây là sự kiện thể hiện sự quan tâm và coi trọng của Đảng và Nhà nước đối với khoa học công nghệ, với ý nghĩa nhằm tôn vinh các nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nói chung.
Phát biểu của PGS. TS. Bùi Văn Liêm – Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học
Tại buổi gặp mặt, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm và truyền thống xây dựng và phát triển của Viện trong gần 50 năm qua, cũng như chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra những đề xuất với các đồng chí lãnh đạo Viện nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của Viện trong thời gian tới.
|
|
Phát biểu của các nhà khoa học và cán bộ Viện
Tiếp đó, PGS. TS. Nguyễn Giang Hải - Viện trưởng đã ghi nhận những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học và các cán bộ Viện. Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Viện, PGS. TS. Nguyễn Giang Hải cũng gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc đến các thế hệ cán bộ đã và đang góp sức xây dựng Viện Khảo cổ học ngày càng lớn mạnh.
Phát biểu của PGS. TS. Nguyễn Giang Hải – Viện trưởng Viện Khảo cổ học
Kết thúc buổi gặp gỡ, thay mặt lãnh đạo Viện, PGS. TS. Bùi Văn Liêm một lần nữa nhấn mạnh những đóng góp to lớn của đội ngũ các nhà khoa học của Viện trong lĩnh vực khảo cổ học, và mong muốn các nhà khoa học có nhiều sức khỏe để tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học nói chung, cũng như sự phát triển của Viện Khảo cổ học nói riêng.
Khổng Thiêm